Hiển thị các bài đăng có nhãn kịch. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn kịch. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 20 tháng 5, 2012

Hamlet chỉ đạo diễn xuất

Hamlet,  ngoài những gì ta thường biết về chàng, còn tỏ ra là một đạo diễn tài ba.  Đoạn sau đây, trích theo bản dịch của Bùi Anh Kha, Bùi Ý, Bùi Phụng (một bản dịch tuyệt vời), là đoạn mà Hamlet chỉ đạo cho các kép hát diễn trích đoạn một vở kịch trong đó một ông vua bị sát hại bằng cách đổ thuốc độc vào tai. Có vẻ những chỉ đạo diễn xuất của chàng vẫn còn rất có giá trị cho ngày hôm nay.:)


“Xin các bạn hãy nói đoạn này giống như ta đã nói trước các bạn, sao cho dễ dàng tự nhiên. Cương lên ầm ĩ như số đông đào kép các bạn thường làm, thì thà để thơ ta cho mõ làng rao, nghe còn thích hơn. Cũng đừng có vung tay mà đấm không khí như thế này. Mọi cử chỉ đều phải khoan thai; vì ngay trong mưa sa bão táp, hay nói cho rõ hơn, ngay trong lúc giận dữ điên cuồng, cũng phải giữ được bình tĩnh, có thế mới khỏi thô bạo. Ôi, tâm hồn ta phẫn uất khi phải nghe một anh chàng to béo đeo tóc giả đem tình cảm xé ra thành mảnh vụn, thành giẻ rách để làm vỡ lỗ tai một bầy khán giả tầm thường mà số đông không có khả năng thưởng thức cái gì ngoài những trò hề múa rối, hò la nhăng nhít.  (…)

Ấy thế nhưng mà cũng không được nhạt nhẽo quá; lúc diễn xuất phải vận dụng trí xét đoán. Động tác phải ăn nhịp với lời nói, lời nói với động tác, phải đặc biệt thận trọng sao cho đúng mức, không được vượt quá cái bình dị của tự nhiên. Cường điệu quá trớn lúc diễn xuất, tức là xa rời nghệ thuật sân khấu mà mục đích, trước kia cũng thế, bây giờ cũng vậy, là làm tấm gương phản ánh tự nhiên; kẻ chính cho ra mặt kẻ chính, kẻ tà cho ra hình kẻ tà, và thế kỉ nào, thời đại nào thì phải có những nét và dấu vết riêng của thời đại đó. Cường điệu quá, hay nhạt nhẽo quá, thì chỉ làm cho những kẻ ngu dốt cười được thôi, nhưng lại làm cho những người sành sỏi đau xót. Phải coi trọng lời phẩm bình của người sành sỏi, vì nó có giá trị hơn ý kiến của cả đám ngu đần kia. Ồ, ta đã được xem một số đào kép đóng trò, được nghe người ta ca tụng họ, tâng bốc họ quá cao - để khỏi nói là quá thô lỗ - lúc diễn xuất ăn nói không ra kẻ có đạo, điệu bộ cũng không ra kẻ có đạo mà cũng chẳng phải kẻ vô thần, chẳng ra hồn người, đi đứng nghênh ngang, hò la inh ỏi, đến nỗi ta tưởng họ là những quái vật mà anh thợ vụng nào của Tạo hóa đã nặn ra làm người; họ bắt chước người một cách thảm hại quá!
(…) Còn những chú đóng vai hề nữa, cũng không được thêm bớt điều gì khác với lời trong vở. Vì có những chú cứ cười rống lên, cốt để cho một số khán giả tầm thường cười theo, đúng vào lúc có vấn đề phải để cho người ta suy nghĩ. Thật là nhục nhã cho nghề, và cái đó chỉ tỏ rõ lòng tham vọng đáng thương của kẻ điên.” 

Thứ Hai, 22 tháng 3, 2010

Những mảnh vụn tình sử

Cách đây hơn hai tuần, tôi có đi xem vở kịch Ngàn năm tình sử (đạo diễn Thành Lộc, tác giả kịch bản Nguyễn Quang Lập) của IDECAF tại Nhà hát Bến Thành. Đây là một vở kịch về mối tình giữa Lý Thường Kiệt và người yêu tên là Thuận Khanh. Đại khái, thời trẻ hai người yêu nhau, rồi Lý Thường Kiệt vào quân ngũ, định vài năm công thành rồi về lấy Thuận Khanh làm vợ. Ngờ đâu, Thuận Khanh bị kẻ gian ton hót nên bị đưa vào triều làm cung nữ. Lý Thường Kiệt nghe tin, quyết định tự hoạn để trở thành thái giám hòng có cơ hội gần gũi người yêu. Bốn mươi năm sau, vua băng hà, các cung nữ được trả về quê. Lý Thường Kiệt gặp lại Thuận Khanh trong đau đớn. Chuyện Lý Thường Kiệt tự hoạn có ghi trong chính sử, còn lại tất nhiên là hư cấu. Bên cạnh tuyến kịch chính này, còn có tuyến kịch phụ khắc họa sự ghen tuông và đau khổ khi bị nhà vua bỏ rơi của hoàng hậu Thượng Dương, người sau đó uống thuốc độc tự vận vì quá tin kẻ gian mà mang tiếng phản bội đất nước.

Vai Lý Thường Kiệt do Thành Lộc đảm nhiệm. Mặc dù vẫn rất tài năng nhưng có lẽ Thành Lộc chỉ diễn tốt vai Lý Thường Kiệt lúc đã là hoạn quan. Còn trước đó, sự hạn chế về hình thể, tuổi tác và chất giọng khiến anh không thể nào diễn ra được một thanh niên Lý Thường Kiệt trẻ trung, nghịch ngợm, đắm say trong tình yêu và khỏe khoắn, uy dũng trong những pha múa võ. Nếu như diễn ra được những phẩm chất đó của Lý Thường Kiệt khi trẻ, người xem hẳn sẽ đồng cảm hơn với nỗi đau tinh thần và thể xác khi nhân vật Lý Thường Kiệt mất người yêu và một phần thân thể. Tương tự, Thanh Thủy có lẽ chỉ nhập vai khi Thuận Khanh đã tiến cung, khắc khoải nhớ người yêu và mòn mõi đợi chờ ân sủng nhà vua; còn thì chị cũng không diễn ra được cô thôn nữ Thuận Khanh trẻ trung, xinh đẹp và trong sáng.

Ngay cả khi hai diễn viên chính diễn nhập vai hơn ở phần sau vở kịch, nghĩa là khi các nhân vật đã trải qua những biến cố đau thương và đã thêm nhiều tuổi, Ngàn năm tình sử cũng không lúc nào cho người xem cảm giác thỏa mãn: nó thiếu cao trào, thiếu kịch tính. Cao trào được dự định có lẽ là trường đoạn Thuận Khanh và Lý Thường Kiệt gặp lại nhau sau bốn mươi năm, Thuận Khanh muốn mà Lý Thường Kiệt không thể. Tuy nhiên, người xem (ở đây là tôi) vẫn không thể nào có được cảm giác quặn thắt, xót xa mà hẳn là các tác giả vở kịch mong muốn. Có một cái gì đó thiếu thiếu: có thể là đài từ của diễn viên quá điệu đà (lúc này chỉ nghe chứ không nhìn thấy nét mặt, vì hai người diễn xuất sau một tấm màn), có thể là lời thoại chưa đích đáng. Mà nói chung, cả vở kịch không có câu thoại nào đích đáng – cái này rõ do kịch bản. Kể cả nhân vật Lý Đại Gia, kẻ đã đưa Thuận Khanh vào cung và lừa hoàng hậu Thượng Dương – một nhân vật hoàn toàn có đất để nói những lời độc địa lại chỉ nói những câu tương đối hiền lành. Trong khi đó, ở tuyến kịch phụ và hầu như không có liên kết với tuyến kịch chính, hoàng hậu Thượng Dương lại được dành cho quá nhiều thời gian, riêng đoạn Thượng Dương chuốc thuốc độc các cung nữ và tự vận phải gần mười lăm phút, làm người xem hết sức sốt ruột.

Bắt mắt và bắt tai hơn cả là những màn múa hát với sự tham gia của đông diễn viên - phải ghi nhận rằng các diễn viên đều múa và hát khá tốt và đạo diễn Thành Lộc đã sử dụng âm nhạc và vũ đạo để thể hiện nhiều không khí khác nhau từ mùa xuân tình yêu ở đầu vở kịch đến không khí chiến trường ở phần sau. Phần nhạc do Đức Trí soạn mượt mà, với những tiết tấu rất đặc trưng Đức Trí. Tuy nhiên, chính trong cách sử dụng nhạc để diễn cũng có vấn đề: thứ nhất là lời bài hát quá trẻ trung, không hợp với thời gian câu chuyện, khiến cho nỗi đau trong chuyện tình Lý Thường Kiệt - Thuận Khanh mang dáng dấp nỗi đau của một chàng trai 8x bị người yêu đá; và thứ hai, Thành Lộc và Thanh Thủy hát không tồi, nhưng không đủ tốt để đơn ca những đoạn “cao trào”.

Dựng lại nhân vật Lý Thường Kiệt không phải từ góc độ một vị tướng lừng lẫy mà từ góc độ một con người với những tình cảm riêng tư và có phần nhạy cảm, lẽ ra Ngàn năm tình sử phải là một vở kịch rất đáng xem. Tuy nhiên, một kịch bản nhạt nhòa, tản mác cộng với việc chọn diễn viên chưa thật sự hợp lý khiến cho Ngàn năm tình sử chỉ có thể là những mảnh vụn tình sử.