“Xin các bạn hãy nói đoạn này giống như ta đã nói trước các bạn, sao cho dễ dàng tự nhiên. Cương lên ầm ĩ như số đông đào kép các bạn thường làm, thì thà để thơ ta cho mõ làng rao, nghe còn thích hơn. Cũng đừng có vung tay mà đấm không khí như thế này. Mọi cử chỉ đều phải khoan thai; vì ngay trong mưa sa bão táp, hay nói cho rõ hơn, ngay trong lúc giận dữ điên cuồng, cũng phải giữ được bình tĩnh, có thế mới khỏi thô bạo. Ôi, tâm hồn ta phẫn uất khi phải nghe một anh chàng to béo đeo tóc giả đem tình cảm xé ra thành mảnh vụn, thành giẻ rách để làm vỡ lỗ tai một bầy khán giả tầm thường mà số đông không có khả năng thưởng thức cái gì ngoài những trò hề múa rối, hò la nhăng nhít. (…)
Chủ Nhật, 20 tháng 5, 2012
Hamlet chỉ đạo diễn xuất
“Xin các bạn hãy nói đoạn này giống như ta đã nói trước các bạn, sao cho dễ dàng tự nhiên. Cương lên ầm ĩ như số đông đào kép các bạn thường làm, thì thà để thơ ta cho mõ làng rao, nghe còn thích hơn. Cũng đừng có vung tay mà đấm không khí như thế này. Mọi cử chỉ đều phải khoan thai; vì ngay trong mưa sa bão táp, hay nói cho rõ hơn, ngay trong lúc giận dữ điên cuồng, cũng phải giữ được bình tĩnh, có thế mới khỏi thô bạo. Ôi, tâm hồn ta phẫn uất khi phải nghe một anh chàng to béo đeo tóc giả đem tình cảm xé ra thành mảnh vụn, thành giẻ rách để làm vỡ lỗ tai một bầy khán giả tầm thường mà số đông không có khả năng thưởng thức cái gì ngoài những trò hề múa rối, hò la nhăng nhít. (…)
Thứ Hai, 22 tháng 3, 2010
Những mảnh vụn tình sử
Cách đây hơn hai tuần, tôi có đi xem vở kịch Ngàn năm tình sử (đạo diễn Thành Lộc, tác giả kịch bản Nguyễn Quang Lập) của IDECAF tại Nhà hát Bến Thành. Đây là một vở kịch về mối tình giữa Lý Thường Kiệt và người yêu tên là Thuận Khanh. Đại khái, thời trẻ hai người yêu nhau, rồi Lý Thường Kiệt vào quân ngũ, định vài năm công thành rồi về lấy Thuận Khanh làm vợ. Ngờ đâu, Thuận Khanh bị kẻ gian ton hót nên bị đưa vào triều làm cung nữ. Lý Thường Kiệt nghe tin, quyết định tự hoạn để trở thành thái giám hòng có cơ hội gần gũi người yêu. Bốn mươi năm sau, vua băng hà, các cung nữ được trả về quê. Lý Thường Kiệt gặp lại Thuận Khanh trong đau đớn. Chuyện Lý Thường Kiệt tự hoạn có ghi trong chính sử, còn lại tất nhiên là hư cấu. Bên cạnh tuyến kịch chính này, còn có tuyến kịch phụ khắc họa sự ghen tuông và đau khổ khi bị nhà vua bỏ rơi của hoàng hậu Thượng Dương, người sau đó uống thuốc độc tự vận vì quá tin kẻ gian mà mang tiếng phản bội đất nước.
Vai Lý Thường Kiệt do Thành Lộc đảm nhiệm. Mặc dù vẫn rất tài năng nhưng có lẽ Thành Lộc chỉ diễn tốt vai Lý Thường Kiệt lúc đã là hoạn quan. Còn trước đó, sự hạn chế về hình thể, tuổi tác và chất giọng khiến anh không thể nào diễn ra được một thanh niên Lý Thường Kiệt trẻ trung, nghịch ngợm, đắm say trong tình yêu và khỏe khoắn, uy dũng trong những pha múa võ. Nếu như diễn ra được những phẩm chất đó của Lý Thường Kiệt khi trẻ, người xem hẳn sẽ đồng cảm hơn với nỗi đau tinh thần và thể xác khi nhân vật Lý Thường Kiệt mất người yêu và một phần thân thể. Tương tự, Thanh Thủy có lẽ chỉ nhập vai khi Thuận Khanh đã tiến cung, khắc khoải nhớ người yêu và mòn mõi đợi chờ ân sủng nhà vua; còn thì chị cũng không diễn ra được cô thôn nữ Thuận Khanh trẻ trung, xinh đẹp và trong sáng.
Ngay cả khi hai diễn viên chính diễn nhập vai hơn ở phần sau vở kịch, nghĩa là khi các nhân vật đã trải qua những biến cố đau thương và đã thêm nhiều tuổi, Ngàn năm tình sử cũng không lúc nào cho người xem cảm giác thỏa mãn: nó thiếu cao trào, thiếu kịch tính. Cao trào được dự định có lẽ là trường đoạn Thuận Khanh và Lý Thường Kiệt gặp lại nhau sau bốn mươi năm, Thuận Khanh muốn mà Lý Thường Kiệt không thể. Tuy nhiên, người xem (ở đây là tôi) vẫn không thể nào có được cảm giác quặn thắt, xót xa mà hẳn là các tác giả vở kịch mong muốn. Có một cái gì đó thiếu thiếu: có thể là đài từ của diễn viên quá điệu đà (lúc này chỉ nghe chứ không nhìn thấy nét mặt, vì hai người diễn xuất sau một tấm màn), có thể là lời thoại chưa đích đáng. Mà nói chung, cả vở kịch không có câu thoại nào đích đáng – cái này rõ do kịch bản. Kể cả nhân vật Lý Đại Gia, kẻ đã đưa Thuận Khanh vào cung và lừa hoàng hậu Thượng Dương – một nhân vật hoàn toàn có đất để nói những lời độc địa lại chỉ nói những câu tương đối hiền lành. Trong khi đó, ở tuyến kịch phụ và hầu như không có liên kết với tuyến kịch chính, hoàng hậu Thượng Dương lại được dành cho quá nhiều thời gian, riêng đoạn Thượng Dương chuốc thuốc độc các cung nữ và tự vận phải gần mười lăm phút, làm người xem hết sức sốt ruột.
Bắt mắt và bắt tai hơn cả là những màn múa hát với sự tham gia của đông diễn viên - phải ghi nhận rằng các diễn viên đều múa và hát khá tốt và đạo diễn Thành Lộc đã sử dụng âm nhạc và vũ đạo để thể hiện nhiều không khí khác nhau từ mùa xuân tình yêu ở đầu vở kịch đến không khí chiến trường ở phần sau. Phần nhạc do Đức Trí soạn mượt mà, với những tiết tấu rất đặc trưng Đức Trí. Tuy nhiên, chính trong cách sử dụng nhạc để diễn cũng có vấn đề: thứ nhất là lời bài hát quá trẻ trung, không hợp với thời gian câu chuyện, khiến cho nỗi đau trong chuyện tình Lý Thường Kiệt - Thuận Khanh mang dáng dấp nỗi đau của một chàng trai 8x bị người yêu đá; và thứ hai, Thành Lộc và Thanh Thủy hát không tồi, nhưng không đủ tốt để đơn ca những đoạn “cao trào”.
Dựng lại nhân vật Lý Thường Kiệt không phải từ góc độ một vị tướng lừng lẫy mà từ góc độ một con người với những tình cảm riêng tư và có phần nhạy cảm, lẽ ra Ngàn năm tình sử phải là một vở kịch rất đáng xem. Tuy nhiên, một kịch bản nhạt nhòa, tản mác cộng với việc chọn diễn viên chưa thật sự hợp lý khiến cho Ngàn năm tình sử chỉ có thể là những mảnh vụn tình sử.