Saturday 30 November 2013

Cha tôi - Orhan Pamuk

Cha tôi

Orhan Pamuk

Đêm đó tôi về nhà muộn. Người ta bảo tôi rằng cha tôi đã mất. Cùng với cơn nhói đau đầu tiên hiện về trong tôi một hình ảnh từ thời thơ ấu: cặp chân gầy tong của cha tôi trong chiếc quần soóc.
Hai giờ sáng tôi đến nhà ông để nhìn ông lần cuối. Người ta nói, “Ông nằm trong phòng đằng sau.” Tôi vào trong. Vài giờ sau khi tôi quay trở ra đại lộ Valikonaği, ngay trước bình minh, những con phố của Nişantaşı vắng hoe và lạnh cóng, và cửa sổ các cửa tiệm lờ mờ sáng mà tôi đã dạo ngang năm mươi năm nay trông dường như xa xăm và lạ lẫm.
Suốt buổi sáng, không ngủ và như thể còn trong một giấc mơ, tôi nói chuyện trên điện thoại, tiếp khách, ngập đầu trong các thủ tục tang lễ; và sau một hồi tiếp nhận các lời nhắn, yêu cầu, lời cầu nguyện, giải quyết vài tranh cãi nho nhỏ và viết cáo phó tôi chợt hiểu tại sao trong mọi tang lễ nghi thức trở nên quan trọng hơn người đã khuất.
Buổi tối, chúng tôi đến Nghĩa trang Edirnekapı chuẩn bị cho việc chôn cất. Khi anh tôi và người em họ vào trong tòa nhà hành chính nhỏ của nghĩa trang, tôi nhận ra mình ngồi một mình với tài xế trên ghế trước taxi. Lúc đó người tài xế bảo tôi rằng anh ta biết tôi.
“Cha tôi mất,” tôi bảo anh ta. Không suy nghĩ trước, và ngạc nhiên với chính mình, tôi bắt đầu kể anh ta nghe về cha tôi. Tôi kể với anh ta rằng cha tôi là một người rất tốt bụng, và quan trọng hơn, tôi yêu ông. Mặt trời bắt đầu lặn. Nghĩa trang vắng vẻ, im lìm. Những tòa nhà xám đổ bóng xuống nghĩa trang đã mất vẻ ảm đạm thường ngày; chúng phản xạ một thứ ánh sáng kỳ lạ. Trong khi tôi nói, một luồng gió lạnh mà chúng tôi không nghe thấy tiếng làm đong đưa đám cây tiêu huyền và cây bách, và hình ảnh này khắc ghi vào tâm trí tôi, như cặp chân gầy tong của cha tôi.
Khi rõ là còn phải chờ rất lâu, người tài xế, lúc này đã bảo với tôi rằng hai chúng tôi có tên giống nhau, vỗ lưng tôi hai cái, mạnh và đầy chia sẻ, rồi đi. Những gì tôi kể với anh, tôi không kể với ai khác. Nhưng một tuần sau, điều này trong tôi hòa lẫn với ký ức và nỗi buồn của tôi. Nếu tôi không chép lại thành ngôn từ, nó sẽ lớn dần lên và làm tôi bải hoải đau đớn.
Khi nói với người tài xế rằng, “Cha tôi chưa bao giờ cáu giận tôi dầu chỉ một lần, chưa bao giờ la mắng tôi, chưa bao giờ đánh tôi,” tôi đã nói mà không suy nghĩ mấy. Tôi đã quên không đề cập những hành vi tử tế vĩ đại nhất của ông. Khi tôi còn nhỏ, cha tôi luôn xem mọi bức tranh tôi vẽ với vẻ ngưỡng mộ nhiệt thành; khi tôi hỏi ý kiến, ông sẽ nghiên cứu từng câu văn nguệch ngoạc của tôi như thể đó là kiệt tác; ông sẽ cười ha hả với những chuyện đùa nhạt nhẽo và ngốc nghếch nhất của tôi. Nếu không có niềm tự tin ông trao, sẽ khó hơn rất nhiều để tôi trở thành nhà văn, để chọn viết lách làm nghiệp. Sự tin tưởng ông dành cho chúng tôi, và cách ông dễ dàng thuyết phục anh tôi và tôi rằng chúng tôi là những đứa trẻ xuất sắc và độc đáo, xuất phát từ sự tự tin vào trí tuệ của chính ông. Theo cách thức ngây thơ trẻ con của ông, ông thành thực tin rằng chúng tôi chắc chắn phải xuất sắc, chững chạc, và thông minh như ông, đơn giản chỉ vì chúng tôi là con trai ông.
Ông là người trí tuệ nhạy bén: Ông có thể ngay lập tức đọc thuộc lòng một bài thơ của Cenap Şahabettin, đọc số pi tới số lẻ thứ mười lăm, hoặc đoán đúng một cách xuất sắc cái kết bộ phim chúng tôi đang cùng xem. Ông không khiêm tốn lắm, ông thích kể lại những chuyện cho thấy ông thông minh như thế nào. Ví dụ, ông thích kể cho chúng tôi nghe chuyện khi ông còn đang học cấp hai, hồi đó vẫn còn mặc quần soóc, làm thế nào mà giáo viên toán gọi ông vào một lớp học cùng những đứa lớn nhất trong trường, và cách mà - sau khi cậu bé Gündüz lên bảng giải một bài toán mà bọn trẻ con hơn cậu ba tuổi đều bí còn giáo viên đã phải xuýt xoa “Giỏi lắm” - cậu bé xoay sang đám trẻ kia nói, “Có vậy thôi!” Trước ví dụ ấy, tôi thấy mình lấn cấn giữa sự ganh tị và niềm mong ước được giống ông hơn.
Tôi cũng có thể nói như vậy về vẻ bảnh bao của ông. Ai cũng nói tôi giống ông, trừ mỗi việc ông đẹp trai hơn. Như cái gia tài cha ông (ông nội tôi) để lại mà ông chưa bao giờ làm cho khánh kiệt được bất chấp bao lần thất bại trong kinh doanh, vẻ bảnh bao cũng giúp ông sống một cuộc đời vui vẻ, thoải mái, nên ngay cả trong những ngày tồi tệ nhất, ông vẫn lạc quan một cách ngây ngô, bồng bềnh với những dự định tốt đẹp và một niềm tự tôn không lay chuyển, không gì sánh nổi. Với ông, đời không phải để kiếm sống mà là để thụ hưởng. Thế giới không phải là chiến trường, mà là hí trường, là sân chơi, và khi nhiều tuổi hơn ông bắt đầu thấy hơi bực mình những lúc chứng kiến tiền của, trí tuệ, và vẻ bảnh bao mà ông hưởng thụ trọn vẹn thời trẻ chẳng khiến danh tiếng hay quyền lực của ông được phóng to tới mức ông có lẽ đã mong muốn. Nhưng, cũng như trong mọi trường hợp khác, ông không lãng phí nhiều thời gian lo lắng về điều này. Ông có thể rũ bỏ mọi bực tức với cùng phong cách thoải mái trẻ thơ lúc ông gạt đi bất kỳ ai, hay vấn đề hay của cải nào mang lại cho ông rắc rối. Nên ngay cả khi đời ông xuống dốc từ sau ba mươi tuổi, thất vọng kế tiếp thất vọng, tôi chưa bao giờ nghe ông phàn nàn. Khi tuổi đã cao, có lần ông ăn tối với một nhà phê bình có tiếng, sau này tôi gặp lại ông ấy, ông ấy thốt lên với chút phật ý, “Cha anh chẳng biết mặc cảm là gì!”
Phong cách lạc quan theo kiểu Peter Pan của ông tránh cho ông khỏi những cơn giận dữ và ám ảnh. Cho dù ông đọc nhiều sách, mơ trở thành nhà thơ, và từng dịch một số bài thơ của Paul Valéry, tôi tin là ông quá thoải mái trong trong cái vỏ của mình và quá chắc chắn về tương lai, nên sự say đắm thiết yếu cần cho sáng tạo văn chương chưa bao giờ bám rễ vào ông. Thời trẻ ông có một thư viện khá oách, về sau ông vui vẻ cho tôi tiếp quản nó. Tuy nhiên ông không đọc sách như kiểu tôi, ngấu nghiến và quay cuồng vì phấn khích; ông đọc sách chỉ cho vui, hay để giải trí, và nhiều khi ông bỏ dở chừng. Trong khi các ông bố khác có thể nói bằng cái giọng nghiêm nghị của các vị tướng hay lãnh tụ tôn giáo, thì cha tôi kể cho tôi nghe chuyện ông cuốc bộ trên đường phố Paris nhìn thấy Sartre hay Camus (thể loại nhà văn mà cha tôi ưa thích), những chuyện đó gây ấn tượng sâu đậm với tôi. Nhiều năm sau này, khi tôi gặp Erdal İnönü (một người bạn thuở thiếu thời của cha tôi và là con trai tổng thống thứ hai của Thổ Nhĩ Kỳ, sau Atatürk) tại buổi khai trương một phòng tranh, ông mỉm cười kể tôi nghe về một bữa ăn tối tại dinh tổng thống ở Ankara mà cha tôi khi đó mới hai mươi tuổi có tham dự; khi Ismet Pasha chuyển sang đề tài văn chương, cha tôi đặt câu hỏi, “Tại sao chúng ta chẳng có tác giả nổi tiếng thế giới nào?” Mười tám năm sau khi tôi xuất bản tiểu thuyết đầu tiên, cha tôi có phần ngượng ngùng trao cho tôi một cái va li nhỏ. Tôi biết rất rõ tại sao khi tìm thấy trong đó nhật ký, những bài thơ, ghi chép và những viết lách văn chương của ông tôi cảm thấy bất an: Đó là hồ sơ - là bằng chứng - của một đời sống nội tâm. Ta không muốn cha chúng ta là những cá nhân, ta muốn họ chồng khít vào cái hình mẫu lý tưởng của ta về họ.
Tôi thích những khi ông dẫn tôi đi xem phim, và tôi thích thú lắng nghe ông bình luận về những bộ phim chúng tôi xem với những người khác; tôi yêu thích những lời nói đùa của ông về những kẻ ngu ngốc, xấu xa và không có tâm hồn cũng ngang bằng sự thích thú khi nghe ông nói về một loại trái cây mới, một thành phố ông đã viếng thăm, tin tức mới nhất, hay cuốn sách mới nhất; nhưng trên cả tôi thích được ông ôm tôi vào lòng âu yếm. Tôi thích được ông chở đi chơi bằng ô tô, bởi vì ngồi cùng nhau trong xe, ít nhất trong một lát tôi có cảm giác tôi không đánh mất ông. Khi ông lái xe, chúng tôi không thể nhìn vào mắt nhau nên ông nói chuyện với tới như với một người bạn, động đến những vấn đề khó khăn tinh tế nhất. Sau một lúc, ông dừng lại để kể chuyện tiếu lâm, dò sóng radio, rồi nói chuyện về bất cứ thứ âm nhạc nào lọt đến tai chúng tôi.
Nhưng tôi thích nhất là được gần gũi ông, sờ nắn ông, ở ngay bên cạnh ông. Khi còn là học sinh trung học, và ngay cả những năm đầu đại học, trong những ngày chán nản nhất, bất chấp bản thân, tôi mong ông đến nhà để ngồi xuống với tôi và mẹ, và nói gì đó để vực tinh thần chúng tôi dậy. Khi còn nhỏ, tôi thích trèo lên lòng ông hay nằm cạnh ông, ngửi mùi của ông, và sờ nắn ông. Tôi nhớ khi còn rất nhỏ ông dạy tôi bơi trên đảo Heybeliada: Khi tôi chìm xuống đáy, vùng vẫy kịch liệt, ông sẽ tóm lấy tôi khiến tôi mừng vui, không chỉ vì tôi có thể hít thở lại mà còn vì tôi có thể vòng tay ôm lấy người ông, và kêu khi không muốn chìm lại xuống đáy, “Bố ơi, đừng bỏ con!”
Nhưng ông có bỏ rơi chúng tôi. Ông đi xa, đến những quốc gia khác, những nơi chốn khác, những xó xỉnh trên thế giới xa lạ với chúng tôi. Khi ông duỗi người trên sofa đọc sách, có lúc ánh mắt ông sẽ trượt ra khỏi những trang sách và ý nghĩ của ông sẽ vẩn vơ. Đó là khi tôi biết bên trong người đàn ông mà tôi biết là cha tôi, có một con người khác mà tôi không với tới, và đoán chừng ông đang mơ mộng về một cuộc đời khác, tôi trở nên bất an. “Cha như viên đạn được bắn khỏi nòng không nguyên cớ,” đôi khi ông nói thế. Tự nhiên điều này làm tôi nổi giận. Có khá nhiều điều khác có thể làm tôi nổi giận. Tôi không biết ai đúng. Có lẽ đến lúc đó chính tôi cũng mong muốn đào thoát. Nhưng tôi vẫn thích thú khi ông bật băng Giao hưởng số 1 của Brahms, say sưa chỉ huy một dàn nhạc tưởng tượng bằng một cây đũa tưởng tượng. Tôi chỉ bực mình khi sau một đời tìm kiếm thú vui và lảng tránh âu lo, ông lại than thở rằng sống buông thả thì chẳng mang lại ý nghĩa gì ngoài bản thân nó và bắt đầu kiếm cớ chỉ trích người khác. Những năm hai mươi tuổi, có khi tôi tự nhủ, “Đừng để mình theo gót ông ấy.” Có những thời điểm khác tôi lại phiền muộn vì mình không thể vui vẻ, thoải mái, vô tư và đẹp trai như ông.
Mãi về sau này, khi gác tất cả những điều ấy lại, khi giận dữ và ghen tuông không còn che mờ cách tôi nhìn về người cha chưa bao giờ la mắng tôi, chưa bao giờ cố áp đặt tôi, tôi từ từ nhìn thấy - và chấp nhận - nhiều điểm tương đồng không tránh khỏi giữa tôi và ông. Nên bây giờ, mỗi khi tôi càu nhàu về một kẻ ngốc nào đó, hay phàn nàn với người hầu bàn, hay cắn môi trên, hay quẳng mấy cuốn sách đọc dở vào góc nhà, hay hôn con gái, hay móc tiền khỏi túi, hay đón chào ai đó bằng một lời nói đùa nhẹ nhàng, tôi nhận thấy mình bắt chước ông. Điều này không bởi vì tay, chân, cổ tay tôi hay nốt ruồi trên lưng tôi giống ông. Mà là điều gì đó khiến tôi hoảng sợ - thậm chí kinh sợ - và nhắc nhở tôi về những ngày thơ ấu khi tôi mong muốn được giống ông nhiều hơn. Cái chết của mỗi con người khởi đầu từ cái chết của cha họ.

(Trích tập sách Những màu khác, Orhan Pamuk, Lâm Vũ Thao dịch từ bản tiếng Anh)

Friday 29 November 2013

Buổi tối với Charles Simic (II)

Một thế kỷ những đám mây quần tụ. Những chuyến tàu ma đến và đi. Biển sâu thẳm hơn, mênh mông hơn. Con vẹt trong chiếc lồng tre nói nhiều ngôn ngữ. Viên thuyền trưởng trên tấm kẽm tô đôi má đỏ. Ông mang từ miền nhiệt đới về một cô gái mình trần. Họ cứ xích cô trên tầng áp mái. Cả khi ông đã chết rồi. Về đêm cô phát ra những âm thanh nghe như tiếng hát. Viên thuyền trưởng kể về một giống người không có miệng chỉ sống nhờ hương hoa. Câu chuyện này khiến vợ và mẹ ông cất lời cầu nguyện để cứu vớt mọi linh hồn chưa rửa tội. Tuy nhiên, có một lần chúng tôi bắt gặp thuyền trưởng tháo bộ râu. Nó là đồ giả! Ở bên dưới ông còn một bộ râu nữa trông cũng kỳ cục y như thế.

Đó là thời những quả phụ bận rộn đi dạo. Những tử ngữ tình yêu vẫn còn được dùng, nhưng cũng rất nhiều im lặng, rất nhiều tiếng gào không thành tiếng thoát ra từ đỉnh phổi.



 
*** 



Những câu chuyện ma viết bằng phương trình đại số. Nhóc Emily bên bảng đen hoảng sợ. Những chữ X trông như nghĩa địa về đêm. Thầy giáo muốn em chọc vào chúng bằng một mẩu phấn nhỏ. Bọn trẻ thảy đều nín thở. Phấn trắng rít lên một lần giữa những dấu cộng và dấu trừ, rồi lại lặng như tờ.



***


Có ai đó lết quết ngang cửa phòng tôi thì thào: “Món ngỗng của chúng ta chín rồi!”

Lạ lùng chưa! Dao nĩa tôi đã sẵn sàng. Thậm chí khăn ăn tôi đã đeo quanh cổ, nhưng cái đĩa trước mặt vẫn trống rỗng.

Vậy mà, ai đó cứ thì thào ngoài cửa về một món ngỗng giả định nào đó, được cho là đã chín mà hắn tuyên bố là chung của chúng tôi.



 (Những bài này dịch từ tập The World Doesn't End)
 

Saturday 23 November 2013

Buổi tối với Charles Simic

Dạo này tôi đặt chỉ tiêu mỗi tối dịch một bài thơ của Charles Simic. Dưới đây là kết quả của mấy tối vừa rồi.

Tôi lười gõ lại bản tiếng Anh. Bạn nào thích đối chiếu thì search trên mạng thể nào cũng ra.


---------


M.

Tôi đi bộ đến M.
Không có ai ở M.



Tôi phải đi khe khẽ
Ngang ngôi nhà làm từ những quân bài
Cả một hàng như vậy
Toan sập xuống



Ở M. lúc tảng sáng.




***


Cái đầu con búp bê bằng sứ trăm năm tuổi sóng đánh dạt lên bờ biển xám. Người ta muốn biết câu chuyện. Người ta muốn bịa ra, bịa ra nhiều câu chuyện. Nó ở dưới biển đã quá lâu, mắt mũi đã bị xoá nhoà, nụ cười nhợt nhạt càng thêm nhợt nhạt. Khi đêm xuống, người ta muốn thấy mình đi dạo trên bờ biển quạnh và cúi xuống bên nó.


***

Tôi là người lính Napoleon cuối cùng. Gần hai trăm năm rồi tôi vẫn đang rút khỏi Mátxcơva. Hai bên đường trắng xoá bạch dương, còn bùn dâng tận gối. Người đàn bà chột muốn bán tôi con gà, mà thậm chí trên người tôi chẳng còn lấy một manh áo.

Người Đức đi một đường, tôi đi đường khác. Còn người Nga đi theo một con đường khác nữa và vẫy tay tạm biệt. Tôi có một thanh kiếm dùng trong nghi lễ. Tôi lấy nó cắt mái tóc dài một mét hai.



***

Người chết bước xuống từ bệ chém. Chàng cắp quả đầu máu me dưới cánh tay.

Lũ cây táo đương hoa. Chàng lần tới quán rượu trong làng trong lúc mọi người dõi theo. Ở đó, chàng ngồi xuống bên một cái bàn và gọi hai vại bia, một cho mình và một cho cái đầu. Mẹ tôi chùi tay lên tạp dề và phục vụ chàng.


Quá đỗi tĩnh lặng trong thế giới. Người ta có thể nghe thấy tiếng con sông xưa trong cơn bối rối đôi khi đãng trí chảy ngược dòng.

Tuesday 19 November 2013

Một cảm hứng tân thời

Có một kẻ chuyên nâng bi người khác, nâng rất thiện nghệ. Ngày nọ, khi được yêu cầng nâng bi chính mình, anh ta hốt hoảng, vì không tìm thấy bi của mình đâu cả. :)

Truyện rất ngắn trên đây bịa ra từ một truyện rất ngắn của Thomas Bernhard. Trong truyện ấy, Thosmas Bernhard kể chuyện một người bắt chước giọng đại tài, giọng ai cũng bắt chước được, nhưng khi được yêu cầu bắt chước giọng chính mình, anh ta không sao làm nổi.

BẠN BÈ CŨNG LÀ MỘT TÀI SẢN