+ Hôm nay Sài Gòn lạnh như mùa đông, nằm trên sofa đọc Tuyết của Pamuk mà cứ nghèn nghẹn. Thò tay định kéo chăn lên cho đỡ lạnh chân phát hiện ra chả có cái chăn nào, lại giật đứt ngay một sợi lông chân mình, tiếc ơi là tiếc:)
+ Như đã hứa hẹn, sẽ tiễn biệt tháng 10 bằng một bài nữa trong tập Other Colors của Orhan Pamuk, rồi xin chừa:). Hy vọng bài này đủ dài để làm lương khô cho một ngày mưa lười ra đường, hoặc nơi nào không mưa xem như lương khô cho kỳ nghỉ cuối tuần.
+ Tên entry dài thế kia để chứng minh rằng tôi cũng có thể rất... dài khi muốn:))
----------------------------
Mario Vargas Llosa và văn chương Thế giới Thứ ba
Có không cái gọi là văn chương Thế giới Thứ ba? Liệu có thể xác định đâu là những phẩm chất căn bản của văn chương của những quốc gia cấu thành cái mà ta gọi là Thế giới Thứ ba - mà không sa vào chỗ dung tục hoặc chủ nghĩa địa phương hẹp hòi? Khi được diễn đạt một cách tinh tế nhất - ví dụ như trong lý luận của Edward Said - khái niệm văn chương Thế giới Thứ ba là nhằm làm nổi bật sự phong phú và trình độ của dòng văn chương bên lề và quan hệ giữa chúng với chủ nghĩa dân tộc và căn tính phi phương Tây. Nhưng khi một người như Fredric Jameson khẳng định rằng “Văn chuơng Thế giới Thứ ba mang tính cách là những dụ ngôn dân tộc” thì ông chỉ đơn giản bày tỏ sự thờ ơ lịch thiệp với sự giàu có và phức tạp của văn chương từ thế giới bên lề. Borges viết các tiểu luận và truyện ngắn của ông vào những năm 1930 tại Argentina - nhưng vị trí của ông ngay giữa lòng văn chương thế giới là không thể tranh cãi.
Dù vậy, rõ ràng là có một loại tiểu thuyết trần thuật đặc thù đối với các nước thuộc Thế giới Thứ ba. Tính độc đáo của nó không liên quan nhiều đến nơi chốn của nhà văn mà liên quan hơn đến thực tế là nhà văn nhận thức rằng anh ta đang viết từ cách xa các trung tâm văn chương thế giới và anh ta cảm nhận được khoảng cách này trong chính bản thân. Nếu có gì đó tách biệt văn chương Thế giới Thứ ba, thì đó không phải là nghèo khổ, bạo lực, chính trị, hay bất ổn xã hội của quốc gia từ đó văn chương xuất phát mà chính là nhận thức của nhà văn rằng tác phẩm của mình theo một cách nào đó xa cách những trung tâm nơi lịch sử của môn nghệ thuật này - tức nghệ thuật tiểu thuyết - được mô tả, và anh ta phản ánh khoảng cách này trong tác phẩm của mình. Điều cốt lõi ở đây là cảm quan bị lưu đày khỏi những trung tâm văn chương thế giới của các nhà văn thuộc Thế giới Thứ ba. Một nhà văn thuộc Thế giới Thứ ba có thể lựa chọn rời quê hương và tái định cư ở một trong những trung tâm văn hóa của châu Âu - như Vargas Llosa đã làm. Nhưng cảm quan về bản thân thì không thể thay đổi, vì “sự lưu đày” của một nhà văn Thế giới Thứ ba không hẳn là vấn đề địa lý mà là trạng thái tinh thần, một cảm quan về sự bị loại trừ, về việc là người nước ngoài vĩnh cửu.
Cùng lúc đó, cảm quan là người ngoài cuộc này giải phóng anh ta khỏi những âu lo về tính độc đáo. Anh ta không bị ám ảnh về việc chạy đua với những bậc cha chú hoặc người đi trước để tìm ra giọng của riêng mình. Vì anh ta khai phá những địa hạt mới, đề cập những chủ đề chưa từng được bàn thảo trong nền văn hóa của anh ta, và thường hướng tới lớp người đọc rõ rệt và đang trỗi dậy, chưa từng thấy trước đây trong quốc gia của anh ta - điều này khiến văn của anh ta có tính chân thực và độc đáo riêng biệt.
Trong bài điểm sách thời trẻ cuốn Những hình ảnh đẹp của Simone de Beauvoir, Vargas Llosa đề xuất những nguyên tắc định hướng cho một sự nghiệp như thế có thể là gì. Ông ca ngợi de Beauvoir không chỉ vì đã viết một cuốn tiểu thuyết chói sáng mà còn vì khước từ những mục đích của trào lưu tiểu thuyết mới đang là thời thượng khi đó (thập niên 1960). Theo Vargas Llosa, thành tựu lớn nhất của Simone de Beauvoir là việc đã lấy hình thức tiểu thuyết và kỹ thuật viết của các nhà văn như Alain Robbe-Grillet, Nathalie Sarraute, Michel Butor và Samuel Beckett và sử dụng vào những mục tiêu hoàn toàn khác.
Trong một tiểu luận khác về Sartre, Vargas Llosa khai triển ý tưởng của ông về việc “sử dụng” kỹ thuật và hình thức của các nhà văn khác. Những năm sau này, Vargas Llosa phàn nàn rằng tiểu thuyết của Sartre vắng bóng sự hóm hỉnh và bí ẩn, rằng tiểu luận của ông được viết rõ ràng nhưng rối rắm về chính trị, và rằng nghệ thuật của ông lạc hậu và sáo mòn; ông sẽ bày tỏ niềm thất vọng rằng trong thời kỳ Mác-xít của chính ông ông đã bị ảnh hưởng sâu sắc thậm chí bị hủy hoại bởi Sartre. Vargas Llosa ghi nhận ngày giải ảo tưởng Jean-Paul Sartre là ngày ông đọc một bài báo trên tờ Le Monde trong năm 1964. Trong bài báo tai tiếng này (gây phản kháng thậm chí ở Thổ Nhĩ Kỳ), Sartre đặt văn chương cạnh một đứa trẻ da đen đang chết đói ở một quốc gia thuộc Thế giới Thứ ba như Biafra, tuyên bố rằng chừng nào những đau khổ như thế còn diễn ra thì việc những nước nghèo mơ tưởng đến văn chương là điều “xa xỉ”. Ông thậm chí còn đi xa hơn khi cho rằng các nhà văn thuộc Thế giới Thứ ba sẽ không bao giờ thưởng thức được cái gọi là tính xa xỉ của văn chương với một lương tâm trong sạch, và kết luận rằng văn chương là việc của các nước giàu. Vargas Llosa thừa nhận vài khía cạnh nhất định trong tư tưởng của Sartre, cái logic cẩn thận của ông và việc ông khẳng định rằng văn chương quá quan trọng nên không thể là trò chơi đã chứng tỏ là “có thể dùng được” - chính nhờ Sartre mà Vargas Llosa tìm được đường đi qua khỏi những mê cung văn chương và chính trị - do vậy rốt cuộc, Sartre là một người dẫn đường “hữu ích”.
Để mãi mãi nhận thức được khoảng cách từ mình đến trung tâm, để bàn luận cơ chế của cảm hứng và cả những cách mà khám phá của các nhà văn khác có thể trở nên hữu ích, người ta phải sở hữu một sự ngây thơ sinh động (và theo Vargas Llosa thì trong Sartre chẳng có gì ngây thơ khờ khạo cả). Sự ngây thơ sinh động của riêng Vargas Llosa được phản ánh không chỉ trong tiểu thuyết mà còn cả trong phê bình, tiểu luận và các tác phẩm khác của ông.
Cho dù ông viết về sự dính líu của con trai ông với những người theo phong trào Rastafarni, hoặc trình bày hoạt cảnh chính trị về những người thuộc phong trào Mác-xít Sandinista ở Nicaragua, hay mô tả Cúp thế giới 1992, chưa bao giờ ông thôi lôi cuốn, chưa bao giờ ông rời bỏ chính mình; ông đặc biệt hay khi viết về Camus, người mà ông nhớ khi còn trẻ đã đọc một cách không hệ thống - vì ảnh hưởng của Sartre lên ông thời đó thật to lớn. Nhiều năm sau này, sau khi sống sót qua một trận tấn công khủng bố ở Lima, ông đọc Kẻ nổi loạn, luận văn dài của Camus về lịch sử và bạo lực, và quyết định ưa thích Camus hơn Sartre. Tuy vậy, ông vẫn ca ngợi cách tiểu luận của Sartre đi thẳng vào trọng tâm vấn đề, và cũng có thể nói như vậy về các tiểu luận của Vargas Llosa.
Sartre là một nhân vật phức tạp, có lẽ thậm chí là nhân vật có ảnh hưởng hàng đầu, đối với Vargas Llosa. John Dos Passos, người chịu nhiều ảnh hưởng của Sartre, cũng quan trọng đối với Vargas Llosa; ông ca ngợi John Dos Passos vì đã từ chối sự đa cảm dễ dãi và vì đã thử nghiệm các hình thức trần thuật mới. Như Sartre, Vargas Llosa sử dụng ghép mảnh, tương phản, lồng ghép, cắt dán, và các kỹ thuật trần thuật tương tự để tổ chức tiểu thuyết của mình.
Trong một tiểu luận khác, Llosa ca ngợi Doris Lessing vì là thể loại nhà văn “dấn thân” theo nghĩa của Sartre. Với ông một tiểu thuyết “dấn thân” là tiểu thuyết đắm chìm trong những tranh cãi, huyền thoại, và bạo lực của thời đại, mà những tiểu thuyết thiên tả thời kỳ đầu của Vargas Llosa là ví dụ tốt cho thể loại này. Nhưng cái tả khuynh mà chúng ta thấy trong những tiểu thuyết thời kỳ đầu này là một thứ tả khuynh giàu tưởng tượng và vui thú. Trong số các nhà văn mà Vargas Llosa bàn đến trong các tiểu luận của mình - trong đó có Joyce, Hemingway và Bataille - người mà ông chịu ơn nhiều nhất là Faulkner. Cái mà Vargas Llosa ca ngợi trong Nơi ẩn náu - sự tương phản giữa các phân cảnh và sự nhảy vọt về thời gian - thậm chí thể hiện rõ ràng hơn trong chính các tiểu thuyết của chính Vargas Llosa. Ông sử dụng thành thạo kỹ thuật này - sự giao cắt quyết liệt giữa các giọng điệu, câu chuyện và đối thoại - trong Cái chết trong dãy Andes.
[còn nữa, nhưng thôi post một nửa thôi, nửa kia xin giữ lại làm tin, hehe]
(Dịch từ bài Mario Vargas Llosa and Third World Literature trong tập Other Colors của Orhan Pamuk)