Wednesday, 14 December 2011
Có bạn
Thursday, 26 August 2010
A tale of two cities
Saturday, 19 June 2010
Vừa đi đường, vừa kể chuyện (VI)
Tuesday, 15 June 2010
Vừa đi đường, vừa kể chuyện (III)
***
Nhiều lúc tôi nghĩ, số phận của thơ thật hẩm hiu, nhất là khi so với văn xuôi. Khi đọc một tản văn, một truyện ngắn, hay một tiểu thuyết, người ta có thể nói văn hay văn dở, nhưng tuyệt nhiên không ai bảo đấy không phải là văn, mà là thơ! Ngược lại, khi đọc một bài thơ, thậm chí chưa đọc xong một bài thơ, bất kỳ ai cũng có thể hùng hồn tuyên bố đấy không phải là thơ, mà là văn xuôi. Thấy chưa, người ta còn không buồn gọi đấy là thơ dở. Người ta từ chối gọi sản phẩm của nhà thơ là thơ, mặc dù khi bị hỏi ngược lại thế nào mới là thơ, thường sẽ không có câu trả lời rành mạch.
Thơ phải có vần ư? Một vạn lần không phải thế, mặc dù thơ từng có vần và không ai cấm các nhà thơ tiếp tục làm thơ có vần. Nhưng nếu chỉ vần mà thành thơ thì đây hẳn là tuyệt cú: “Trên đường Nguyễn Thị Minh Khai/ Thế nào cũng có một vài ô tô.”
Có người nhao nhao: Thơ phải có hình ảnh, phải có nhạc điệu. Nhưng than ôi, có thể dẫn ra vô vàn ví dụ tản văn, truyện ngắn hay tiểu thuyết đầy ắp hình ảnh và nhạc điệu mà chẳng ai nhầm với thơ cả.
Thế thì thơ phải hàm súc! Nghe có vẻ thuyết phục, nhưng rất khó coi những bài thơ của nhà thơ rất được nhiều người, đặc biệt thanh niên miền Bắc, yêu mến - Lưu Quang Vũ - là những bài thơ hàm súc. Ngược lại, Lưu Quang Vũ luôn nhiều lời, quá nhiều lời là đằng khác. Khi làm thơ, Lưu Quang Vũ nói nhiều như một… nhà viết kịch! Đấy là chúng ta còn chưa nói đến thơ văn xuôi hay tân hình thức.
Vậy thì thế nào là thơ? Sao phải nhọc công đi tìm định nghĩa mà không chịu tin nhà thơ lấy một lần: Thơ là cái nó là khi nhà thơ gọi nó là thơ. Tước mất quyền của nhà thơ gọi tác phẩm của họ là thơ, chẳng khác gì tước quyền đặt tên con của những ông bố bà mẹ. Tương tự như những đứa trẻ, bài thơ ra đời khi nhà thơ đẻ ra nó. Giây phút nào nhà thơ hoàn tất bài thơ chúng ta có thơ. Nhà thơ phải có toàn quyền đối với tác phẩm của mình mà quyền lớn nhất và cần được tôn trọng nhất là quyền khai sinh.
***
Tôi trao đổi một phần những suy nghĩ trên với một nhà thơ. Nhà thơ này biết uống cà phê (và nhiều thứ khác). Bằng vào số vết trầy trên đuôi xe, có thể đoán nhà thơ có khá nhiều người hâm mộ.
****
Nhà thơ dẫn tôi vào một quán cà phê trước cổng có treo hình con heo toòng teng. Nói ngắn gọn, đấy là quán cà phê con heo. Nói đầy đủ, quán cà phê có tên Con Heo Tiểu Tư Sản (Bourgeoisie Pig). Thực đơn ở đây chỉ có sandwich và salad, ừm, thật ra còn có cả soup. Tuy nhiên, các loại sandwich được gắn những cái tên hết sức mỹ miều sặc mùi tiểu tư sản, chẳng hạn Mặt Trời Vẫn Mọc, Gatsby Vĩ Đại hay Bắt Trẻ Đồng Xanh. Vừa được nhà văn không biết uống cà phê tuyên truyền cách đó không lâu The Sun Also Rises là cuốn hay nhất của Hemingway, nên tôi gọi ngay một cái sandwich Mặt Trời Vẫn Mọc, vừa gặm vừa loay hoay xem mặt trời mọc hướng nào. Nhà thơ gọi một món không tiểu tư sản lắm là salad Ceasar. Ceasar, Ceasar, salad toàn thịt gà, vừa khô vừa cứng. Bữa trưa lúc 4 giờ chiều làm dịu cơn đói của giai cấp tiểu tư sản, sau một ngày vất vã đi lùng sách cũ.
Có một tiệm sách cũ tên là Open Books. Tiệm này nằm ở một vùng nào đó của Chicago. Xuất phát từ đại lộ Michigan chúng tôi cuốc bộ về hướng Nam độ hai chục block nhà thì rẽ sang hướng Tây cuốc chừng mười block rồi đi mười hai block về hướng Bắc rồi thêm chin block rưỡi về hướng Đông thì tới. Đại khái với sự trợ giúp của mobile internet và sau khi hỏi đường chừng hai chục người chúng tôi tới đích.
Open Books là tiệm sách cũ phi lợi nhuận. Nguồn sách ở đây hoàn toàn do mọi người hiến tặng. Nhân viên làm việc không lương. Toàn bộ lợi nhuận của tiệm sách được dành vào việc gây quỹ cho trẻ em nghèo (chú ý: mục đích thiện nguyện có thể khác, nhưng khi bước chân vào tiệm sách tôi chỉ nhìn sách chứ không để ý những thông tin khác nên những gì tôi viết ở đây có thể hoàn toàn sai.)
Cũng như mọi tiệm sách cũ và mới khác ở Chicago, sách ở đây được sắp xếp theo từng thể loại, và trong từng thể loại, theo thứ tự tên tác giả. Riêng phần tiểu thuyết chiếm năm dãy kệ, có mặt hầu hết các tác giả tên tuổi từ Auster, Bolano, Calvino ở đầu bảng chữ cái đến Roth, Updike, Vonnegut phần cuối bảng. Giá trung bình một cuốn khoảng 5-6 đô. Nếu may mắn, bạn có thể tìm thấy những cuốn rất ra trò, dày, bìa cứng, và khá mới trong đống sách đổ lộn xộn trong hai thùng các-tông to với giá chỉ một đô một cuốn. Rabbit at rest của John Updike nằm trong số này.
Hôm trước đó, tôi còn có dịp (hai dịp) vào lục lọi tiệm sách cũ Powell’s ngay gần khuôn viên trường đại học Chicago. Nói là sách cũ – thường do sinh viên trường bán lại – nhưng nhiều cuốn còn gần như mới nguyên. Có cả những cuốn tinh tươm hẳn là sách tồn kho của các nhà xuất bản bán với giá chỉ một phần tư giá gốc, điển hình là tập Other Colors của Orhan Pamuk, bìa cứng, mới cứng, giá 6.95 đô, trong khi giá gốc là 28 đô. Diện tích của tiệm Powell’s không quá lớn, nhưng sách chất trùng trùng điệp điệp, từ sàn đến trần nhà. Theo ước lượng của tôi, chỉ riêng phần sách lịch sử Trung Quốc đã chừng trăm cuốn, tổng số đầu sách lịch sử các nước trừ Mỹ khoảng ba, bốn nghìn. Tôi áng chừng gom tất cả đầu sách của tất cả các nhà sách của Fahasa và Phương Nam ở Sài Gòn lại cũng không bằng số đầu sách của tiệm sách cũ Powell’s này, chưa nói tới sự phong phú về thể loại.
Với ba lần ghé thăm hai tiệm sách cũ, tôi đã có dịp gần như hoàn thiện bộ sưu tập Paul Auster của mình, bổ sung kha khá vào hai bộ Hemingway và Roth, và hẳn là đang bắt đầu hai bộ Coetzee và Pamuk. Ngoài ra, tôi còn tóm được những cuốn tôi đang tìm kiếm lâu nay như Franny and Zooey của Salinger hay Ho Chi Minh – The Missing Years của Sophie Quinn-Judge. Nhà thơ biết uống cà phê còn nhiệt tình giới thiệu, tặng và chuyển giao cho tôi khá nhiều cuốn của các tác giả các nước nhỏ như Pakistan, Hong Kong, Nigeria, Haiti, kèm theo lời trách cứ Giò Trắng sao trên blog chỉ giới thiệu các nhà văn nước lớn.
Trong mọi tình yêu luôn có mầm mống khổ đau, không loại trừ tình yêu sách. Hành lý từ Việt Nam sang của tôi chỉ có 15kg. Khi bay từ Chicago sang San Jose, vali của tôi cân nặng 70 pounds (khoảng 32kg). Southwest cho phép hành khách gửi hai kiện hành lý, mỗi kiện 50 pounds (23kg). Tôi chỉ có một vali, nhưng Southwest không cho tôi nhét cả vào một vali, mà phải lấy bớt sách ra, cho đến khi vali nặng đúng 50 pounds mới thôi. Số sách dôi ra tôi phải xách tay. Thế là với đôi vai gầy guộc nhỏ và đôi cánh tay khẳng khiu, tôi mòn mõi lê bước từ quầy check in qua cổng kiểm tra an ninh đến cổng ra máy bay dưới sức nặng của…sách.
Sunday, 13 June 2010
Vừa đi đường, vừa kể chuyện (II)
Saturday, 12 June 2010
Vừa đi đường, vừa kể chuyện (I)
5.23 sáng 10/6/2010
Tom Hanks là diễn viên yêu thích của vợ tôi. Hình như tất cả phụ nữ Việt Nam chân chính và có xem phim Mỹ đều thích Tom Hanks. Họ nói anh ấy tuy không đẹp trai lắm, nhưng đóng hay và đặc biệt, không lăng nhăng. Hậu quả của việc vợ tôi, một trong số những phụ nữ Việt Nam chân chính, yêu thích Tom Hanks là thỉnh thoảng tôi xem phim có anh. Vì đang ngồi ở sân bay nên tôi nhớ đến phim The Terminal.
Trong The Terminal, Tom Hanks đóng vai một hành khách có quốc tịch một quốc gia X. Khi Tom Hanks vừa đến Mỹ, thì ở quê nhà của anh xảy ra đảo chính, chính phủ cũ bị lật đổ, chính phủ mới lên thay. Chính phủ này không được sự công nhận của quốc tế (i.e. Mỹ), nên hộ chiếu anh cầm không được công nhận. Thế là anh không được vào Mỹ, mà cũng không ra được Mỹ. Ngày này qua ngày khác anh sống tại sân bay, ăn uống, yêu đương, làm việc kiếm tiền ở đấy. Kết thúc phim thế nào tôi không nhớ. Đối với một trí nhớ suy tàn như trí nhớ của tôi nhớ đến đây đã khá lắm rồi. Đại khái anh ta sống ở sân bay khá lâu, lâu lắm, không chết, đến cuối phim vẫn không chết.
Nhưng tôi cá rằng nếu anh ta mắc kẹt ở một sân bay giống cái sân bay mà tôi đang ngồi chờ giờ khởi hành, chắc anh ta sẽ không tồn tại được ba ngày, không, ý tôi nói ba giờ. Anh ta sẽ chán đến chết, chết trước khi thưởng thức những rắc rối và sinh động của một cuộc đời không tổ quốc.
***
Tôi đến sân bay sớm. Hiển nhiên là vì tôi phải bay sớm. 3 giờ sáng, tôi đã phải dậy, sau chỉ 3 tiếng ngủ, vì tối hôm trước phải sửa soạn hành lý và soạn nốt cái hợp đồng dang dở. Phải gửi hợp đồng cho khách trước khi đi, nếu không sếp có thể gõ đầu tôi. Hôn từ biệt hai con chó con đang ngủ say và người phụ nữ Việt Nam chân chính yêu thích Tom Hanks, tôi kéo vali xuống nhà gọi taxi. Đường vắng, chốc lát tôi đã đến sân bay.
Làm thủ tục xong, vẫn còn gần tiếng mới tới giờ bay. Tôi leo lên tầng lầu, định vào một trong những quán cà phê trên đó để uống một chút gì và vào internet. Thế nhưng, tất cả quán hãy còn đóng cửa im ỉm. Lúc đó khoảng 4 giờ rưỡi sáng.
Gần cổng lên máy bay, tôi tìm thấy một quán mở cửa. Lúc tôi phát hiện ra quán, chị bán hàng – khoảng ngoài năm mươi tuổi, mặc đồng phục SASCO – đang đôi co với hai cô khách nước ngoài. Hai cô khách kia có vẻ muốn mua mấy chai nước suối, đang xòe ra mấy tờ tiền Việt Nam. Tôi nghe lóm nội dung là bọn tao còn ngần này tiền Việt Nam. Chị bạn hàng thì cứ lắp đi lặp lại nhõn “one more, one more” – ý là chưa đủ tiền. Hai cô khách bỏ đi. Chị bán hàng cất lại 4 chai nước suối vào tủ.
Tôi gọi một tách cà phê sữa nóng, chị bảo 3 đô. Tôi đưa chị 60.000 đồng, chị cất tất vào ngăn kéo và đưa tôi tách cà phê. Và chỉ thế. Cứ như cà phê vỉa hè, dù giá gấp 10. Không biết làm thế nào để SASCO biết được chị đã bán cho tôi một tách cà phê và đã thu 60.000 đồng
Không có tín hiệu wifi chùa, tôi giở sách ra đọc. Everyman của Philip Roth. Đây là cuốn đầu tiên của Roth tôi đọc. Nhưng, thật khó tập trung khi thỉnh thoảng thông báo của sân bay lại vang lên, ong óng vào tai. Dù sao cũng nghe được một thông tin mới là không được mang cà phê trong hành lý xách tay vì lý do an ninh. Chắc người ta sợ bom làm bằng bột cà phê. Cũng may, nếu cái vali cỡ nhỏ của tôi không bị chuột gặm thì tôi đã dùng nó cho hành lý xách tay và sẽ nhét cà phê trong đó. Chẳng những bị chuột gặm, nó còn gãy càng, thế là tôi chỉ mang một cái ba lô nho nhỏ theo người, còn cà phê và sách cho những người ở bển tôi cho vào hành lý kỷ gửi cả.
Không internet, đọc sách không xong, không muốn dùng iPod, tôi gõ những dòng này giết thời giờ.
Thursday, 28 January 2010
Tuổi trẻ băn khoăn (III)
***
“Analysis destroys wholes. Some things, magic things, are meant to stay whole. If you look at their pieces, they go away”.
Robert James Waller
(The bridges of Madison County)
Nhiều năm trước đây, tôi cũng từng đọc Những cây cầu ở quận Madison, bản tiếng Việt. Tôi cũng từng xem phim này. Tôi biết nhiều người thích cả truyện và phim, nhưng tôi không nằm trong số nhiều người đó. Phim, tôi không nhớ gì, chắc là không ấn tượng. Truyện, tôi thấy khô không khốc, văn như văn của học trò, không rõ do người dịch hay do tác giả. Tôi không mang theo cuốn này, nên tôi không thể mở ra và đọc lại xem ấn tượng của tôi có gì thay đổi không. Biết đâu, bây giờ, khi đã già hơn một chút, tôi sẽ thấy chuyện tình già ở quận Madison kia rung động hơn, lãng mạn hơn, sâu sắc hơn. Biết đâu, có khi tôi còn thấy lòng xôn xao, còn chớp chớp mi, còn nhỏ một giọt nước mắt. Hoặc hai. Dù thế nào đi nữa, tôi cũng cảm thấy khó nghĩ khi Demian có thể tìm thấy được điều gì tâm đắc trong cuốn sách và chép lại. Mà cái câu kia, đứng một mình nó, có vẻ cũng thấm thía ra phết đấy chứ. “Phân tích làm hỏng tổng thể. Có những thứ, những thứ huyền diệu, phải được nhìn trong tổng thể. Nếu bạn cứ săm soi từng phần của nó, nó chả còn gì.”
Không nhớ trong truyện, câu này đứng ở chỗ nào, và có ví dụ nào minh họa. Thường trước hay sau một câu tổng quát thế này, thế nào cũng có ví dụ. Ví dụ có thể như thế này: Có những gương mặt, nếu nhìn từng phần ta chỉ thấy tóc hơi cháy nắng, tai hơi vểnh, mũi hơi khoằm, mắt hơi gian, răng hơi đen, nhưng cứ tích phân như thế ta sẽ làm hỏng tổng thể khuôn mặt. Nếu lùi lại một bước, hai hoặc ba bước càng tốt, và ngắm lại khuôn mặt ấy từ xa, có khi ta lại thấy khuôn mặt ấy trông… cũng được.
***
Mỗi lần tôi sắp xếp lại một kệ sách hay một hộc tủ trong nhà, việc lẽ ra chỉ cần khoảng nửa giờ thì tôi mất đứt nguyên buổi sáng hoặc có khi trọn ngày. Tôi không kiềm chế được việc ngắm nghía những đồ vật trong hộc tủ, nghĩ đến việc từng có nó như thế nào, nó làm tôi vui hay buồn, hả hê hay giận dữ, bây giờ nên giữ lại hay vứt đi, hay xếp vào một chỗ nào khác.
Làm phiền tôi hơn cả là những tấm thiệp. Tôi đọc lại những lời chúc trên đó – bản thân việc này mất kha khá thời gian – và sau khi đọc xong thì lâm vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan: tôi không nỡ vứt chúng đi, mà giữ lại – làm sao có thế giữ lại được tất cả những tấm thiệp đã nhận được trong đời. Tương tự, là những bức thư tay. Tôi từng có khá nhiều thư tay, chủ yếu là thư của bạn bè cả thân lẫn chưa biết mặt - tất nhiên đấy là thư từ cái thời chưa có email và internet, và điện thoại chưa phổ biến như bây giờ. Thư tình cũng có vài cái; nhưng thư tình thì tôi không đọc lại, nhất là những thể loại thư sướt mướt.
Mất thời gian hơn cả là việc xếp sách. Khi sắp sách lên kệ lần đầu, tôi thường cố ghép chúng vào một trật tự nào đó: văn học Việt Nan, văn học nước ngoài, trinh thám, ngôn ngữ, lịch sử, kinh tế, chính trị, luật v.v. Nhưng sau một thời gian, cái trật tự kia bị phá vỡ, nên thỉnh thoảng tôi phải xếp lại. Phải đưa tất cả các Hemingway lại gần nhau và đảm bảo đứng gần ông là Steinbeck, đưa Dos lại gần Lev Tolstoi và Ivan Bunin, đẩy Tạ Duy Anh ra phía Nguyễn Huy Thiệp, và sách nấu ăn thì không thể chung hàng với sách kinh tế, đại để như thế. Nhưng nếu chỉ xếp thôi, thì cũng không mất quá nhiều thời gian. Lẽ nào cầm sách lên mà không lật vài trang, và nhỡ gặp chuyện gì thú vị, thì làm sao có thể dừng lại sau vài trang.
Riêng đám sách của Demian là một ngoại lệ: chúng chỉ tạm trú trên kệ sách nhà tôi, nên tôi cho phép chúng đứng gần nhau, lộn xộn trong phạm vi cho phép. Kể ra, đám sách ấy cũng làm xấu kệ sách tôi một chút: phần lớn trong đó là sách cũ, giấy đen, có cuốn long cả bìa.
Demian, cái cuốn sổ của cậu ta, tôi vẫn đang chép lại đây, nhưng tôi quyết định không chép từ đầu đến cuối nữa. Bất kỳ lúc nào tôi rảnh, tôi sẽ mở một trang bất chợt. Tôi đang thử xem mình sẽ mở trúng trang nào.
Cũng nói thêm, khi viết những dòng này, tôi không còn ở nới cái resort biển ấy nữa. Tôi chỉ ở đấy có hai ngày, mà từ hôm đấy đến nay đã hơn hai tuần còn gì. Đúng như dự đoán, chuyến đi đó, tôi không thể nào nhúng chân được xuống biển. Ôi biển, hẹn sẽ quay trở lại để tắm táp phơi nắng thỏa thuê, chứ không phải để chui vào những phòng họp lạnh ngắt đầy mùi nấm mốc.
***
“Cậu bé bẽn lẽn, nhút nhát như con gái, nghịch ngầm và ưa sạch sẽ ngày xưa đã biến thành một người lầm lì, khinh đời, biết đủ thứ trên đời và dễ nổi quạu. Một người rất thông minh, can đảm, trầm lặng và ưa giễu cợt”.
(Bác sĩ Zhivago)
Bác sĩ Zhivago (tiếng Nga: Доктор Живаго, từ Живаго có nghĩa đen là "cuộc sống") là tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn Nga–Xô viết Boris Leonidovich Pasternak (1890–1960).
Nhân vật chính của truyện là Yuri Zhivago, một bác sĩ y học và nhà thơ. Truyện kể cuộc đời của bác sĩ Zhivago qua những éo le tình ái của ông cùng hai phụ nữ trong bối cảnh chung quanh cuộc cách mạng Nganăm 1917.
Truyện này được dựng thành phim năm 1965, do David Lean đạo diễn, tài tử chính là Omar Sharif và Julie Christie.
Bối cảnh truyện Bác sĩ Zhivago nằm vào khoảng 1910 - 1920, nhưng Pasternak hoàn tất vào khoảng 1956. Vì ông có vấn đề với chính phủ Xô viết lúc bấy giờ nên truyện này không được xuất bản. Năm 1957 bản thảo của truyện được tuồn ra ngoài Liên Xô và in ra sách tiếng Nga tại Ý (nhà xuất bàn Feltrinelli). Năm sau có ấn bản tiếng Ý và tiếng Anh. Pasternak nhờ đó mà được đề nghị nhận giải Nobel văn chương năm1958, nhưng chính quyền Xô viết bấy giờ ép ông phải từ chối nhận giải thưởng này. Mãi đến 1988, sách truyện Bác sĩ Zhivago mới được cho in và xuất bản tại Nga.
Khởi đầu truyện là phần giới thiệu Yuri Andreievich Zhivago lúc 10 tuổi đi đám tang của mẹ. Sau đó Yuri học y khoa, bắt đầu làm thơ, rồi cưới vợ tên là Tonya. Truyện sau đó giới thiệu Larisa Fyodorovna (Lara) ởtuổi dậy thì, sống với bà mẹ góa phụ khi bà này làm công cho chủ hãng may tên Komarovsky. Komarovsky dụ dỗ và hiếp dâm Lara. Trong cơn tủi nhục cuồng nộ, nàng lấy súng bắn Komarovsky tại một buổi tiệcgiáng sinh nhưng không may lại bắn trúng một người khác. Nàng sau đó kết hôn người tình đầu của mình là Pavel Pavlovich (Pasha).
Kế đến truyện dẫn vào thời kỳ chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Yuri tòng quân với tư cách bác sĩ quân y. Pasha rời vợ và con gái (Tanya) theo quân đội và bị mất tích. Lara tình nguyện làm y tá với hy vọng tìm kiếm tông tích chồng. Khi Yuri vào thăm vợ khi nàng sanh đứa con trai đầu lòng thì gặp cô y tá Lara. Hai người có ý thầm yêu nhau nhưng không dám tỏ lời. Vào lúc này phong trào cách mạng bắt đầu nổi dậy tại Petersburg.
Chiến tranh bùng nổ khắp nơi, Yuri và Lara được bổ nhiệm công tác chung tại một nhà thương ở tỉnh nhỏ xa xôi. Yuri bị thôi thúc bởi những cảm tình cho Lara. Chàng tâm sự với Tonya và Tonya nghi ngờ rằng Yuri cùng Lara đã ngoại tình. Mùa đông đến, đời sống trở nên chật vật vì thiếu thức ăn và dịch lỵ lan tràn. Sau cuộc chiến, Yuri trở về chức vị bác sĩ cũ tại nhà thương ở Moskva. Vì cá tính lãng mạng chàng thường bị các đồng nghiệp bolshevik bài bác là thiếu logic và tinh thần cách mạng. Giữa các cuộc xung đột chống chủ nghĩa Marx nổ ra, Yuri cùng gia đình dời về Urals. Trên xe lửa của chuyến đi này, Yuri nhận thức được nỗi khổ của nông dân và tù binh, những nạn nhân của cuộc chiến cách mạng. Chàng yêu chuộng tự do và bình quyền, nhưng bất mãn với những hành động hay ý kiến quá cứng rắn và thiếu tình người của những người theo cách mạng.
Tại Urals, Yuri cùng gia đình khai đất làm ruộng. Chàng trở lại sở nguyện làm thơ. Tại thư viện làng, chàng gặp lại Lara. Hai người ngoại tình và cùng sống cuộc đời vụng trộm yêu đương tột đỉnh. Lara lúc bấy giờ biết Pasha còn sống và hiện là một tay trùm Đỏ khét tiếng với tên mới Strelnikov. Yuri muốn trở vế với vợ để thú tội ngoại tình nhưng không may bị một nhóm quân cách mạng bắt cóc và phải phục vụ như bác sĩ của nhóm này. Sau vài năm, Yuri trốn thoát và trở lại với Lara. Để tránh không bị điềm chỉ, cặp tình nhân bỏ trốn sang một nông trại khi xưa gia đình Yuri từng canh tác. Yuri tiếp tục làm thơ - bày tỏ tâm sự của chàng về những thăng trầm của đời sống, những lo sợ và lòng can đảm trong chiến tranh và hơn hết là tình yêu dành cho Lara. Trong khi đó có tin vợ Yuri là Tonya và con gái chàng bị bắt đuổi ra khỏi Nga. Chẳng bao lâu sau đó, Komarovsky, kẻ đã từng hãm hiếp Lara khi xưa, xuất hiện. Hắn hăm dọa rằng quân cách mạng đang truy lùng Yuri và Lara và sẽ giết cả hai nếu bắt dược. Hắn hứa giúp đưa Yuri và Lara trốn ra nước ngoài. Yuri đắn đo một hồi lâu và kết cuộc vì vấn đề an toàn cho Lara, chàng quyết định để Lara ra đi một mình. Yuri ở lại Nga và bắt đầu say sưa uống rượu giải sầu.
Strelnikov, chồng của Lara lúc bấy giờ đang chạy trốn vì bị chính phủ cách mạng truy lùng. Y tìm ra Yuri và sau khi biết chuyện Lara ngoại tình, bèn tự sát.
Yuri trở lại Moskva và sinh sống cùng một phụ nữ tên Marina và kiếm sống bằng cách viết sách. Em của chàng tìm cho chàng một chức vụ bác sĩ nhưng trên đường đi làm, chàng bị đứng tim mà chết. Lara, từ Irkutsk lên Moskva và tình cờ đi tới nhà liệm thấy xác Yuri còn nằm đó. Sau đó vài ngày, nàng mất tích, có người cho rằng nàng bị bắt đi trại tập trung cải tạo.
Đoạn trong ngoặc kép phía trên là đoạn tôi chép lại từ sổ tay của Demian, người đã chép đoạn đó tất nhiên từ cuốn Bác sĩ Zhivago; còn đoạn chữ màu xanh tôi chép từ Wiki. Nếu bạn đã đọc Bác sĩ Zhivago rồi, bạn có thế bỏ qua đoạn đó, còn nếu chưa, hoặc đọc rồi nhưng đã quên sạch như tôi, thì đoạn tư liệu từ Wiki có thể giúp bạn hình dung hoặc nhớ lại đôi nét về cuốn sách.
Cuốn này, tôi đọc trên một chuyến tàu Bắc Nam cách đây mười năm. Đi tàu là thời gian thích hợp để đọc những cuốn nhiều chữ như cuốn này. Thú thật, tôi đã quên hoàn toàn nội dung cuốn sách, đó là lý do tôi phải nhờ đến Wiki. Điều tôi chắc chắn là, với một câu chuyện như thế, nếu muốn chép lại đôi đoạn trong cuốn sách, hẳn phải có nhiều đoạn hay để chép, mà cái câu trên kia chẳng có vẻ gì hay lắm. Nó không có dáng vẻ triết lý như nhiều đoạn khác mà Demian chép trong sổ, cũng không phải là những đoạn văn bay bổng hoặc đau thắt, chi tiết hay hài hước, thông thái hay gợi dục, gợi mở hay dâng trào. Bằng cái trí nhớ suy tàn của tôi, tôi không nhớ cậu bé được nhắc đến trong đoạn văn kia là cậu bé nào, tôi chỉ đoán, và khá tin vào cái sự đoán của mình, cậu bé ấy chính là Demian, hay nói cách khác, Demian thấy mình được miêu tả bằng câu văn ấy. Đấy, những ghi chép trong một cuốn số tay mà chép nhiều hơn ghi cũng có thể cho ta biết về tính cách của một con người. Tôi biết Demian hiện giờ cũng gần giống những gì được tả trong đoạn văn kia: thông minh, trầm lặng, và ưa giễu cợt. Can đảm thì không chắc lắm, vì tôi biết cậu ta sợ ngỗng. Tôi đang hình dung ra một câu bé Demian lúc chín mười tuổi: bẽn lẽn, nhút nhát như con gái, sạch sẽ và nghịch ngầm. Lúc đó chắc mặt Demian chưa nhiều tàn nhang như bây giờ.
-
Từ điển Bắc - Nam Những ai đã từng sống ở cả Sài Gòn (tiêu biểu cho miền Nam) và Hà Nội (tiêu biểu cho miền Bắc) sẽ không khó mà nhận ra ...
-
BẠN BÈ CŨNG LÀ MỘT TÀI SẢN Tôi có người bạn viết ba cuốn sách vài trăm nghìn chữ mất 7 năm, lấy tựa chung “Bất hạnh là một ...
-
Chỉ có đọc lại mới đáng kể - một nhà nào đó đã nói về việc đọc sách, chính xác lại là "đọc lại sách", như thế. Một nhà nào đó k...