Khi Quý nghỉ chân
Có lần trả lời phỏng vấn, Nguyễn Trương Quý nói, anh chọn tản
văn vì khả năng càn lướt hiện thực của nó. Không rõ Quý chọn tản văn hay tản
văn chọn Quý, mà nhắc đến các cây bút tản văn hiện thời, không thể không nhắc đến
cái tên Nguyễn Trương Quý. Quả thực, trong thể loại tản văn, Nguyễn Trương Quý
hiển nhiên đã xây dựng được một "thương hiệu". Là chủ nhân của bốn tập
tản văn, trong đó có tập tản văn đầu tiên được xây dựng như một tác phẩm concept
với một hình tượng chung, một chủ đề nhất quán - Tiếu ngạo xe máy,
Nguyễn Trương Quý đã chứng tỏ anh có khả năng dùng tản văn để "càn lướt"
hiện thực điệu nghệ như thế nào. Những tính từ thường được dùng để mô tả tản
văn của anh là "hóm hỉnh" và "duyên dáng". Tôi thêm chữ
"ngoa".
Tuy nhiên, lần này, con người của tản văn ấy đã rời bỏ thể
loại quen thuộc, để bước chân sang một địa hạt mới, mà ở đó số tác giả đã nhiều
gần bằng số người từng cầm bút! Viết chỉ để có truyện đăng báo thì không khó.
Viết để chính bản thân mình hài lòng, để để lại một dấu ấn, thực sự là một
thách thức. Tôi chợt nhớ đến gã khổng lồ công nghệ Intel, ông vua sản xuất chip
cho máy tính cá nhân, cũng đã chấp nhận thách thức thế nào khi bước chân vào địa
hạt chip cho máy tính bảng và điện thoại!
Không khó để nhận ra nhân vật trong truyện ngắn của Quý là
ai. Hầu hết họ chính là giới nhân viên văn phòng, trí thức trẻ thành thị từng
được (hay bị?) Quý đem ra bóc tách, cười cợt trong các tản văn, đặc biệt trong Ăn
phở rất khó thấy ngon. Điểm khác biệt là, nếu trong tản văn, họ xuất hiện
như một nhóm người chia sẻ những phong cách, thói quen chung, thì ở đây họ xuất
hiện thành những cá nhân, có tên, có gương mặt, có gia đình con cái, có yêu có
ghét cụ thể. Họ quen nhau qua mạng, họ ngoại tình, họ lãng đãng, họ vô tâm, họ
sỉ diện, họ hèn, họ tinh tế vặt, gỉ gỉ gì gi đi nữa, nhưng nhìn chung thì họ
đáng thương. Đã thế, có lần, họ bị còn bị bỏ rơi: Trong "Câu chuyện bắt đầu
từ tầng 10", anh nhà văn Mạc Vũ Huân trong một lần tìm tứ cho truyện đã
trượt chân lao từ tầng mười xuống, không chết nhưng nằm mắc lửng lơ trong một
đám dây nhợ bùng nhùng. Kêu chẳng ai nghe vì phố xá quá ồn, cố tình gây chú ý bằng
cách nhổ nước bọt thì cũng bị hai bà ăn bún ngan xơi mất, anh đành nằm trên đống
dây gánh chịu tình cảnh bị bỏ rơi. Nếu như anh nằm mãi trên đống dây, thì câu
chuyện sẽ mang màu sắc phi thực, kiểu Kafka hay Gabriel Garcia Marquez, nhưng
tác giả lại cho anh được xuống đất. Đó là một cú twist dí dỏm. Cách xử
lý của Nguyễn Trương Quý trong truyện này cho thấy anh mang được nét hài hước -
thế mạnh của anh từ tản văn sang truyện ngắn.
Cái nên mang thì Quý đã mang, còn cái không thì Quý để lại.
Ngôn ngữ Quý sử dụng cho truyện ngắn đã có độ tiết chế đáng kể so với tản văn.
Nếu như khi viết tản văn, Quý hơi "ngoa" (nhưng đây là nét hấp dẫn của
tản văn của anh), thì trong các truyện ngắn, ngôn ngữ của Quý có độ lùi, tỉnh
táo, để câu chuyện tự nó được kể, mà tác giả hiếm khi can thiệp vào, bình bình
xét xét.
Tôi chú ý đến những câu kết truyện
của Quý. Những câu ấy, thay vì kết lại, thì lại hay gợi ra một cái gì đó, rất
có thể là một thứ hoàn toàn khác. Ví dụ: "Ngón tay út cong lên dài vút như
khiêu khích." (Tiệc Tây); "Dòng xe máy bị tắc lúc nãy giờ rùng rùng
chuyển động phía sau." (Chị Xít); "Sân trường ngoài kia ngùn ngụt hơi
nóng bốc lên làm những dãy nhà phía xa biến dạng như ảo ảnh." (Đồ án tốt
nghiệp); "Có lẽ anh sẽ đi khám da liễu, tình trạng này kéo dài không biết
rồi sẽ ra sao." ("Vết đâm"); "Tiếng phát thanh viên dự báo
chiều nay bão sẽ về." ("Rừng mái rừng mơ").
Với nhiều người viết khác, tản văn là
một quãng nghỉ chân giữa các tiểu thuyết hay truyện ngắn. Với Nguyễn Trương
Quý, ngược lại, truyện ngắn có thể lại là một quãng nghỉ chân giữa các tập tản
văn. Nhưng cũng có thể, chính tập truyện này lại mở ra một hướng đi hoàn toàn
khác. Như những câu kết truyện của Quý. Hay như Intel xông pha vào thị trường
máy tính bảng và điện thoại!