Thứ Hai, 19 tháng 5, 2025

Không còn tình yêu - Javier Marías

Truyện ngắn của Javier Marías


Rất có thể mục tiêu chính của các hồn ma, nếu họ vẫn tồn tại, là ngăn cản mong muốn của những người còn sống, hiện ra khi sự có mặt của họ không được chào đón và lẩn biến đi nếu có ai trông chờ hay đòi hỏi. Tuy vậy, các tài liệu mà Ngài Halifax và Ngài Rymer thu thập được trong những năm 1930 cho ta biết, đôi khi, có những thỏa thuận giữa ma và người.


Một trong những trường hợp khiêm nhượng và cảm động nhất là chuyện về một bà cụ sống ở thị trấn Rye, khoảng năm 1910: một nơi chốn phù hợp cho những mối quan hệ lâu bền, vì cả Henry James lẫn E.F. Benson đều từng sống ở Rye độ vài năm trong cùng ngôi nhà có tên là Lamb House, (họ sống ở đó trong những quãng thời gian khác nhau, Benson thậm chí còn trở thành thị trưởng), hai nhà văn rất mực bận rộn với những chuyến viếng thăm và sự trông đợi, hay có lẽ, niềm hoài nhớ ấy. Thời trẻ, bà cụ này (nhũ danh Molly Morgan Muir) là người hầu cho một quý bà cao tuổi, giàu có; Molly giúp việc cho bà, gồm cả việc đọc tiểu thuyết để bà dịu nỗi buồn chán vì bà chẳng có nhu cầu gì mấy mà lại gánh chịu cảnh góa phụ từ sớm và không thể tránh khỏi: theo người dân trong thị trấn, bà Cromer-Blake đã phải chịu đựng sự thất vọng ngang trái thi thoảng trong tình yêu sau cuộc hôn nhân ngắn ngủi, và có lẽ điều này - hơn là cái chết của ông chồng ít được hay hoàn toàn không được nhớ tới - đã khiến bà có vẻ cáu bẳn và thu mình vào cái tuổi mà những phẩm chất ấy ở một phụ nữ không còn hấp dẫn hay duyên dáng hay là đối tượng đùa cợt nữa. Sự chán nản khiến bà uể oải đến nỗi bà gần như không thể tự mình đọc cái gì một mình trong im lặng, vì vậy bà sai người hầu đọc to cho bà nghe những chi tiết về các chuyện tình và cảm xúc mà với mỗi ngày trôi qua - và chúng trôi qua rất nhanh và đơn điệu - dường như càng xa cách hơn căn nhà ấy. Bà luôn lắng nghe thật lặng lẽ, tuyệt đối đắm chìm trong câu chuyện, và thảng hoặc lắm mới yêu cầu Molly Morgan Muir đọc lại một đoạn hay một mẩu đối thoại mà bà không muốn giã từ mà trước hết không cố tỏ ra lưu luyến. Mỗi khi Molly đọc xong, nhận xét duy nhất của bà là: “Molly, giọng của cô thật dễ thương. Với chất giọng đó cô sẽ tìm thấy tình yêu.”


Chính trong những buổi đọc ấy hồn ma của ngôi nhà xuất hiện: mỗi tối, khi Molly đang đọc những câu văn của Stevenson, Jane Austen, Dumas hay Conan Doyle, cô có thể nhận ra hình dáng một chàng trai trẻ, thuần hậu, một anh chàng vững chải. Lần đầu thấy anh, đứng tì hai khuỷu tay trên lưng ghế bà già đang ngồi, như thể anh ta đang chăm chú lắng nghe truyện cô đang đọc, cô suýt rú lên vì sợ hãi. Nhưng chàng trai trẻ ngay lập tức nhấc một ngón tay lên môi trấn an, ra hiệu cô cứ tiếp tục và đừng tiết lộ sự có mặt của anh. Anh có một gương mặt hiền lành, và một nụ cười bẽn lẽn thường trực trong đôi mắt giễu cợt, thỉnh thoảng nhường chỗ cho, giữa những đoạn u sầu, vẻ nghiêm túc ngây thơ và đầy cảnh giác của một người không rành rọt cách phân biệt giữa cái có thực và cái tưởng tượng. Cô gái nghe theo, cho dù trong ngày đầu tiên đó, cô không thể không ngước lên quá thường xuyên nhìn qua cái chỏm trên đầu bà Cromer-Blake, người cũng nhìn lên theo, như thể tự hỏi một cái mũ giả định nào đó đang bị lệch hay như thể đèn không đủ sáng. “Gì thế, cô bé?” bà nói, hơi bực mình. “Sao cô cứ ngước nhìn cái gì hoài vậy?” “Không có gì ạ,” Molly Muir đáp, “chỉ là cách cháu cho mắt nghỉ ngơi trước khi quay lại cuốn sách thôi. Đọc lâu thế này làm cháu mỏi mắt.” Chàng trai khăn quấn quanh cổ khẽ gật đầu và cử chỉ đó có nghĩa là cô gái sau này có thể tiếp tục thói quen ngước nhìn và nhờ đó ít ra có thể thỏa mãn con mắt tò mò của mình. Vì, kể từ đó, đêm nào cũng thế, trừ rất ít ngoại lệ, cô đọc cho bà già mà cũng là đọc cho anh, mà bà già chưa bao giờ ngoảnh lại hay khám phá ra sự hiện diện của chàng trai trẻ.


Chàng trai không nấn ná hay xuất hiện vào bất cứ lúc nào khác, do đó trong suốt bao năm trời Molly Muir chưa bao giờ có cơ hội nói chuyện với anh hay hỏi anh là ai hay từng là ai hay tại sao anh lại nghe cô đọc sách. Cô ngẫm tới khả năng anh biết đâu là nguyên do của sự thất vọng trong tình yêu bị cấm đoán mà bà chủ của cô gánh chịu đâu đó trong quá khứ, nhưng bà chủ chưa bao giờ chia sẻ bí mật nào, bất chấp những lời bóng gió của những trang sách được đọc to ấy và của chính Molly trong những cuộc trò chuyện chậm rãi, trong đêm suốt cả nửa cuộc đời. Có lẽ tin đồn là không đúng và bà chủ chẳng có gì đáng để kể lại, ấy là lý do tại sao bà đòi nghe những câu chuyện xa xôi nhất, lạ lẫm nhất và khó xảy ra nhất. Hơn một lần, Molly có ý định làm điều tử tế, nói cho bà nghe chuyện gì diễn ra sau lưng bà để bà chia sẻ với cô niềm hào hứng nho nhỏ hằng ngày, kể cho bà nghe về sự hiện diện của một người đàn ông giữa những bức tường vô tính, trầm tư trong đó chỉ có tiếng vọng, đôi khi nguyên cả ngày đêm, của giọng họ; giọng của bà chủ ngày càng già hơn, lẫn thẫn hơn, còn giọng của Molly Muir, mỗi sáng, bớt đẹp đi một tí, yếu ớt hơn và nhợt nhạt hơn, và trái ngược với dự đoán, không mang đến tình yêu cho cô, ít nhất không phải là một thứ tình yêu sẽ ở lại, một thứ tình yêu có thể cầm nắm được. Nhưng bất cứ khi nào cô định đầu hàng sự quyến rũ đó, cô sẽ đột nhiên nhớ lại cử chỉ ra hiệu im lặng của chàng trai - ngón tay trên môi, thỉnh thoảng lặp đi lặp lại với ánh nhìn hơi có vẻ trêu chọc - và thế là cô giữ im lặng. Cô không muốn chọc giận anh chút nào. Có lẽ ma cũng dễ chán chường như góa phụ. 


Sau khi bà Cromer-Blake mất, Molly vẫn ở trong ngôi nhà ấy, buồn và mất phương hướng nên cô ngừng đọc sách mất mấy ngày: chàng trai không xuất hiện. Tin rằng chàng trai quê muốn có được học vấn mà chàng rõ ràng là đã thiếu trong cuộc đời, nhưng cũng sợ rằng không phải vậy mà sự hiện diện của chàng gắn một cách bí ẩn với bà già mà thôi, cô quyết định đọc to trở lại để gọi anh về, lần này cô không chỉ đọc tiểu thuyết, mà còn cả sách về lịch sử và khoa học tự nhiên. Mất ít lâu chàng trai mới xuất hiện trở lại - có lẽ ma cũng để tang, họ có lý do làm điều ấy hơn ai hết - nhưng cuối cùng chàng cũng xuất hiện trở lại, có lẽ bị thu hút bởi những nội dung mới, mà chàng tiếp tục lắng nghe với cùng vẻ chăm chú, nhưng lần này chàng không đứng, tì vào lưng ghế, mà thoải mái ngồi hẳn xuống ghế bành, thỉnh thoảng vắt chân chữ ngũ, cầm tẩu thuốc trên tay, như một vị trưởng tộc mà anh không bao giờ trở thành.


Cô gái, ngày càng già đi, càng nói chuyện thân mật hơn với anh, nhưng chưa bao giờ được trả lời: ma không phải lúc nào cũng nói được, mà cũng không phải lúc nào cũng muốn nói. Và như thế mối liên kết đơn phương ấy phát triển, năm tháng cứ thế trôi qua, cho đến một ngày nọ chàng trai không hiện ra, rồi cả những ngày và tuần kế tiếp cũng không thấy chàng đâu. Cô gái, giờ đã khá già, thoạt tiên lo lắng như một người mẹ, sợ một tai nạn hay chuyện không may nghiêm trọng nào đó đã xảy ra với anh, không nhận thức được rằng những chuyện ấy chỉ có thể xảy ra với người sống, chứ ai không còn sống thì lại an toàn. Hiểu ra điều này, nỗi lo lắng của bà chuyển sang tuyệt vọng: tối tối, bà nhìn chằm chằm vào cái ghế bành trống rỗng và nguyền rủa sự im lặng, hỏi những câu hỏi đau buồn với hư không, ném những lời trách móc vào không gian vô hình, bà băn khoăn không biết mình đã phạm phải lỗi lầm gì và bà háo hức tìm những cuốn sách mới có thể khơi dậy lòng hiếu kỳ của chàng trai để khiến chàng quay trở lại, những thể loại mới và tiểu thuyết mới, và bà nôn nao chờ đợi từng kỳ truyện Sherlock Holmes mới, vì bà tin tưởng kỹ năng và văn chương của ông hơn bất kỳ món mồi khoa học hay văn chương nào khác. Bà tiếp tục đọc to mỗi ngày, để xem chàng trai có đến hay không.


Một tối nọ, sau nhiều tháng sầu muộn, bà phát hiện ra cái đánh dấu sách kẹp trong một cuốn của Dickens mà bà đã kiên nhẫn đọc cho chàng trai trong khi chàng vắng mặt không còn ở chỗ bà đánh dấu nữa, mà đã được dời sang chỗ khác cách đó nhiều trang. Bà cẩn thận đọc trang chàng đánh dấu, và rồi, cay đắng bà hiểu ra và gánh chịu nỗi thất vọng vốn có thể đến trong mọi cuộc đời, cho dù cuộc đời ấy kín đáo hay tĩnh lặng đến thế nào chăng nữa. Trong trang sách ấy, có một câu như thế này: “Và khi cô già đi và nhăn nheo, chất giọng mờ đục của cô không còn làm chàng vui sướng nữa.” Ngài Rymer nói rằng bà già ấy trở nên phẫn uất như một người vợ bị từ chối, và rằng, hoàn toàn không chấp nhận phán xét này và không chịu câm lặng, bà lớn tiếng mắng mỏ khoảng không: “Ngươi không công bằng. Ngươi không già đi và ngươi cứ muốn có những giọng đọc trẻ trung, tươi tắn, ngươi muốn ngắm những gương mặt đầy căng rạng rỡ. Đừng nghĩ là ta không hiểu ngươi, ngươi trẻ trung và vẫn mãi trẻ trung. Nhưng ta đã dạy dỗ ngươi, giải khuây cho ngươi bao nhiêu năm nay, nếu nhờ ta mà ngươi học được bao nhiêu điều, kể cả học đọc, thì cũng đừng tới mức mà ngươi để lại cho ta những lời nhắn phũ phàng qua chính cuốn sách mà ta luôn chia sẻ với ngươi. Hãy nhớ rằng khi bà mất đi, ta có thể dễ dàng đọc trong im lặng, nhưng ta đã không làm vậy. Ta biết ngươi có thể đi tìm những giọng nói khác, không có gì ràng buộc ngươi với ta và đúng là ngươi chưa từng đòi hỏi gì ở ta, nên ngươi chẳng nợ nần gì ta. Nhưng nếu ngươi có chút lòng biết ơn nào, ta yêu cầu ngươi ít nhất một tuần một lần đến nghe ta đọc và hãy kiên nhẫn với giọng của ta, cho dù giọng ta không còn đẹp đẽ và không còn làm ngươi vui sướng, bởi vì giờ đây nó sẽ không bao giờ mang tình yêu đến cho ta. Ta sẽ cố tiếp tục đọc tốt hết sức mình. Nhưng hãy tới, bởi vì giờ đây ta đã già, ta mới là người cần ngươi đến đây giải khuây cho ta.”


Theo Ngài Rymer, hồn ma thanh xuân thuần hậu vĩnh hằng đó không phải là hoàn toàn không  hiểu biết và chàng đã nghe rõ lý do hay ít ra cũng hiểu biết ơn nghĩa là gì: từ đó, cho đến khi chết, Molly Morgan Muir hào hứng và sốt sắng đợi đến mỗi thứ Tư, ngày mà tình yêu câm lặng và không chạm tới được của bà chọn để trở về với quá khứ của thời của chàng, mà thực ra, ở đó không có quá khứ và không có thời gian. Và người ta nghĩ rằng chính điều ấy đã khiến bà sống thêm nhiều năm nữa, tức là, với một quá khứ và một hiện tại và cả một tương lai hay có lẽ chỉ là niềm hoài nhớ.


Dịch từ truyện "No More Loves" trong tập When I was Mortal của Javier Marías, theo bản tiếng Anh của Margaret Jull Costa 


Thứ Sáu, 16 tháng 5, 2025

William Faulkner trả lời phỏng vấn

Trong các bài phỏng vấn các nhà văn nhà thơ của The Paris Review, bài phỏng vấn Faulkner có lẽ nằm trong một vài bài ấn tượng nhất mà tôi đã đọc. Bài phỏng vấn này thực hiện năm 1956. Một số điểm cần nhớ:

+ Tác phẩm mới quan trọng, tác giả thì không, nếu không có người này thì người khác sẽ viết. Quan trọng là Hamlet Giấc mộng đêm hè đã được viết, chứ không phải là Shakespeare hay ai đó khác đã viết những vở kịch ấy. "The artist is of no importance. Only what he creates is important, since there is nothing new to be said."

+ Quan điểm rất buồn cười về tiểu thuyết gia, có lẽ nhiều phần tự trào: làm thơ không được, nên mới viết truyện ngắn, mà ông cho là "the most demanding form after poetry", và viết truyện ngắn không xong mới viết tiểu thuyết. Ai lý giải được vì sao nước Nam là cường quốc thơ mà tiểu thuyết gia đếm trên đầu ngón tay? và tất cả nhà văn đều viết truyện ngắn?

+ Làm thế nào để trở thành một tiểu thuyết gia nghiêm túc?: Cần chín mươi chín phần trăm tài năng, chín mươi chín phần trăm kỷ luật, chín mươi chín phần trăm lao động. "An artist is a creature driven by demons." Người nghệ sĩ hoàn toàn vô luân, ăn cắp ăn trộm gì cũng được miễn là xong việc. " He is completely amoral in that he will rob, borrow, beg, or steal from anybody and everybody to get the work done." Trách nhiệm duy nhất của nhà văn là đối với nghệ thuật của mình. "The writer's only responsibility is to his art." Nếu cần, thì trấn lột cả mẹ mình. " If a writer has to rob his mother, he will not hesitate."

+ Trả lời câu hỏi "what would be the best environment for a writer", Faulkner bảo không quan trọng, chỗ nào cũng được, miễn là có "peace" và "solitude". Ông còn bảo công việc lý tưởng nhất cho ông là làm chủ nhà thổ: không sợ đói, có nhà để ở, sổ sách thì đơn giản có tú bà lo hết, chỉ cần hối lộ cảnh sát là xong, buổi sáng thì yên tĩnh tha hồ viết lách, buổi tối nếu buồn chán thì sẵn có "social life"!

+ Nhà văn có cần tự do về kinh tế không? Trả lời: không, chỉ cần giấy và bút chì. "Good art can come out of thieves, bootleggers, or horse swipes.... Nothing can destroy the good writer. The only thing that can alter the good writer is death. Good ones don't have time to bother with success or getting rich."  Nhà văn tồi thì sẽ than vãn nếu như không có ruồi (câu này tôi thêm vào.)

+ Về kỹ thuật viết văn: "The young writer would be a fool to follow a theory. Teach yourself by your own mistakes; people learn only by error. The good artist believes that nobody is good enough to give him advice."

+ Tác giả đánh giá tác phẩm của mình bằng sự khách quan, trung thực và lòng can đảm. Ông cho rằng không tác phẩm nào của mình đáp ứng tiêu chuẩn của chính ông, và do đó, ông đánh giá tác phẩm của mình dựa trên tiêu chí tác phẩm nào khiến ông đau buồn nhất (grief and anguish), và đó là The Sound and The Fury.

+ "A writer needs three things: experience, observation, and imagination, any two of which - at times any one of which - can supply the lack of the others."

+ Khi được hỏi sao không đề cập inspiration, ông trả lời: "I don't know anything about inspiration because I don't know what inspiration is - I've heard about it, but I never saw it."

+ Faulkner đọc ai? Ông không đọc các tác giả cùng thời. Ông đọc đi đọc lại Cựu Ước, Dickens, Conrad, Cervantes, Flaubert, Balzac, Dostoyevsky, Tolstoy, Shakespeare. 

+ Về các nhà phê bình: Nghệ sĩ không có thời gian nghe nhà phê bình nói! "The ones who want to be writers read the reviews, the ones who want to write don't have the time to read reviews."

+ "Life is not interested in good and evil. Don Quixote was constantly choosing between good and evil, but then he was choosing in his dream state. He was mad. He entered reality only when he was so busy trying to cope with people that he had no time to distinguish between good and evil."

+ Về nghệ sĩ, nghệ thuật, sự hữu hạn và bất tử: "The aim of every artist is to arrest motion, which is life, by artificial means and hold it fixed so that a hundred years later, when a stranger looks at it, it moves again since it is life. Since man is mortal, the only immortality possible for him is to leave something behind him that is immortal since it will always move. This is the artist’s way of scribbling “Kilroy was here” on the wall of the final and irrevocable oblivion through which he must someday pass."

Thứ Tư, 14 tháng 5, 2025

Graham Greene trả lời phỏng vấn

Interviewer: Do you see much of your fellow authors?

Greene: Not much, they are not one's materials. A few of them are very dear friends of mine, but for a writer to spend much of his time in the company of authors is, you know, a form of masturbation. 

Một câu trả lời thật đích đáng. Nhà văn thực sự thì cần phải viết, chứ không cần đàn đúm. Đàn đúm chỉ tổ dẫn tới phê bình thù tạc. Nhớ tới mấy bài kiểu Sương Nguyệt Minh tán tụng Đất mồ côi của Cổ Viên Tạ Duy Anh mà chạnh lòng. Quả thực là masturbation - mutual masturbation

Đoạn phỏng vấn trên là trong bài phỏng vấn The Paris Review. Giờ đây, sau khi đã đọc kha khá sách của Graham Greene, tôi mới quay trở lại đọc bài ông trả lời phỏng vấn tạp chí này. Cảm giác của tôi là Greene có vẻ khó gần, không hề cởi mở. Ông trả lời có vẻ dè dặt và chủ động kết thúc bài phỏng vấn. Ông không chia sẻ, không nói nhiều như một số nhà văn khác, ví dụ như Faulkner (bài này rất đã) hay Baldwin. Không thu nhặt được quá nhiều thứ trong bài trả lời phỏng vấn của ông. Một vài điểm để nhớ:

+ Greene có một bộ sưu tập chai whiskey cỡ nhỏ (miniature). Không lạ nếu nhớ lại whiskey tràn ngập các tiểu thuyết của ông.

+ Người phỏng vấn nói rằng England Made Me là cuốn favorite của anh. Bản thân Greene cũng thích cuốn này. (Về sau thì ông nói ở đâu đó The Honorary Consul là cuốn ông thích nhất.) Để tìm đọc.

+ Greene không cho là Mauriac có nhiều ảnh hưởng lên ông.

+ Greene có xây dựng nhân vật từ đời thực không? Câu trả lời là không, "one never knows enough about characters in real life to put them into novels. One gets started and then, suddenly, one cannot remember what toothpaste they use, what are their views on interior decoration, and one is stuck utterly. No, major characters emerge; minor ones may be photographed."


Chủ Nhật, 11 tháng 5, 2025

Our Man in Havana - Graham Greene


Graham Greene chia tiểu thuyết của mình thành hai nhóm: nhóm giải trí và nhóm nghiêm túc. Nhóm nghiêm túc xoay quanh các chủ đề đạo đức, chính trị, thần học mà The Quiet American (Người Mỹ trầm lặng) là đại diện quen thuộc. Ngoài ra thì cả The Power and the Glory và The End of the Affair đều đã được dịch ở Sài Gòn trước 75 nay là hàng rất hiếm. Nhóm giải trí là các cuốn gián điệp, Graham Greene tự cho đó là những cuốn light reading, nhẹ nhàng hơn, nhưng thật ra chất lượng viết vẫn rất cao. 

Our Man in Havana thuộc nhóm giải trí, đọc nhẹ hơn các cuốn khác thật, buồn cười mà châm chích tệ quan liêu rất sâu cay. Trong cuốn này, một anh người Anh chuyên bán máy hút bụi sống ở Havana, bị vợ bỏ và có cô con gái tuổi teen tiêu tiền như nước cuốn, được MI6 - cơ quan tình báo Anh tuyển dụng làm điệp viên, trở thành "our man in Havana".  Để moi tiền từ MI6, anh ta phịa ra mạng lưới tình báo của mình, phịa ra các báo cáo mà London tin sái cổ. Đặc sắc nhất là chuyện phịa ra một công trình quân sự, có bản vẽ hẳn hòi - anh đã tháo tung một cái máy hút bụi ra và  vẽ kết cấu của nó! Rồi đến ngày phát hiện ra anh nói xạo, thì các cấp trên của anh để khỏi phải bẽ mặt đành theo thế phóng lao: anh không những không bị trừng phạt mà còn được trao huân chương. 

Our Man in Havana  có tính giải trí cao nhưng vẫn mang một chút Kafkaesque trong đó - một Kafka hài chứ không bi. Văn của Greene thì vẫn đỉnh như mọi khi.

Thứ Tư, 7 tháng 5, 2025

Văn Cao nói về thơ

Ngoài việc viết bài hát, làm thơ, vẽ, Văn Cao còn viết tiểu luận về thơ. Mấy dòng dưới đây trích trong bài Mấy ý nghĩ về thơ, tôi lưu giữ lâu nay trong sổ tay, không nhớ bản gốc đăng ở đâu.


"Chúng ta đọc một nhà thơ như đi theo một dòng sông. Dù bắt đầu từ khúc nào, dù ghé vào bến nào, chúng ta đều phải nghĩ là ngược lên nguồn thì đường dài lắm, mà xuôi ra biển thì biển còn xa. Hai điểm đầu và cuối đó đều thấy vô cùng. Ai muốn khám phá xem con đường ngược và đường xuôi như thế nào còn có thể tiếp tục nhau khai thác được nhiều. Cuộc đời và Nghệ thuật của nhà thơ phải là những dòng sông lớn càng trôi càng thay đổi, càng trôi càng mở rộng . Mỗi chữ mỗi câu, mỗi bài thơ mở ra cái quãng ngược, quãng xuôi, những cái không nói tới mà người đọc càng tìm thấy mãi. Sự thất bại thường gặp trong bài thơ là sự khép lại : khép tất cả sự muốn nghĩ và muốn nói. Người ta đã đánh giá sai lầm về trí tuệ của đại chúng. Tôi nghĩ rằng trí tuệ ấy, sẽ phong phú bởi vì nó dần dần được tập trung hết kho tàng của dĩ vãng (trong đó có phần trí tuệ của nhà thơ).
Có người nói thẳng tới cái vô cùng tận của trời xanh, có người nói cái vô cùng tận của trời xanh qua cái rộng của biển, cũng có người thấy trời xanh vô cùng tận trong bát nước và cũng có người chỉ nói tới một giọt ánh sáng để tìm thấy cái vô cùng tận của trời xanh . Có người phải tìm con đường lớn mới thấy dấu xe mà có người tìm thấy dấu xe trong một hạt bụi. Đấy là những khác nhau giữa những nhà thơ. Sao nghệ thuật không biết tìm ở đấy sự phong phú ? Sao người làm thơ không biết tìm riêng lấy một cách thể hiện ?"
(Mấy ý nghĩ về thơ - Văn Cao)