Tuesday 31 May 2011

Don't take this serious!

Tôi đặt phòng tại một khu resort ở Mũi Né. Để giữ chỗ người ta yêu cầu tôi điền vào một mẫu đơn với các thông tin cá nhân và thẻ tín dụng.  Tờ đơn này hoàn toàn bằng tiếng Anh, trong đó có đoạn lưu ý như sau:


 Note: Please show the passport or ID when check in at reception. Under Vietnamese Family & Marital Law Decree number 4.8.11 all foreigners staying in the same room as Vietnamese Nationals must present a marriage certificate on check-in. Failure to do so will result in the resort being unable to register you as a guest; alternatively you may reserve a second room at the time of booking.

Nghĩa là người nước ngoài muốn ở cùng phòng với người Việt thì phải có giấy đăng ký kết hôn.  Tôi có thắc mắc:

1) Không biết resort này lấy đâu ra quy định người nước ngoài và người Việt chung phòng phải có giấy kết hôn, bằng không thì phải đặt thêm phòng nữa. Quy định này thật lạ lẫm và quái đản đối với tôi.  Tôi xem qua các quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình và Luật Cư trú nhưng không thấy quy định này.  Chắc tại mắt tôi kèm nhèm.

2) Nếu hai người, một người nước ngoài một người Việt Nam, cùng giới tính với nhau muốn ở chung phòng thì họ có đòi xem giấy đăng ký kết hôn không?  Trong phần Note, họ không liệt kê bất cứ ngoại lệ nào.

3) Họ yêu cầu "a marriage certificate", điều này có nghĩa là bất cứ giấy chứng nhận kết hôn nào của bất kỳ ai cũng được chấp nhận có đúng không?  Ví dụ như anh A người Mỹ đi với cô B người Việt thì hai người có thể xuất trình giấy chứng nhận đăng ký của cô B với anh C, hoặc của anh A với cô D, hoặc của anh C với cô D?

4) Tất nhiên là tôi không thể tìm được văn bản nào tên là "Vietnamese Family & Marital Law Decree number 4.8.11" để tìm hiểu thêm về quy định nói trên, nên thắc mắc như trên.

Ngoài lề: Trong lúc xem Luật Hôn nhân và Gia đình, tôi đọc thấy điều khoản này:

"Điều 18. Tình nghĩa vợ chồng


Vợ chồng chung thủy, thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững."

Điều này có nghĩa là những ai đã có vợ có chồng, không "chung thủy" với nhau là vi phạm luât đã đành, mà nếu không "giúp đỡ" nhau, và không "xây dựng" được "gia đình no ấm" cũng vi phạm pháp luật nốt.  Cũng có nghĩa là hơn ba triệu hộ nghèo đều vi phạm Luật Hôn nhân  Gia đình tất.  Ai bảo nghèo!


11 comments:

  1. đoạn cuối anh "bẻ từ chặt ngữ" quá đi :))

    ReplyDelete
  2. Humm, botay.com. chả trách du lịch của nhà mình cứ đì đẹt là phải.

    mà bố tây cũng không hiểu nghĩa cái đoạn tiếng Anh trên là gì.

    ReplyDelete
  3. "alternatively you may reserve a second room at the time of booking"

    ==> funny! Đọc vế đầu tưởng resort chống làm tình, ví dụ hôn nhân ngoài luồng hay là ăn cơm trước kẻng, mạnh hơn là gái gú! Đến vế sau thì liên tưởng tới... làm tiền!

    ReplyDelete
  4. Marriage certificate thường người ta cất ở nhà chứ có ai mang theo khi đi du lịch đâu. Kiểu này em với ông xã em có đi đâu trong nước chắc phải mang theo cho chắc ăn quá hả anh :(

    Khoái comment của anh Lừng :p Đến bố tây cũng đành bó tay =)

    ReplyDelete
  5. Luật Việt Nam buồn cười nhỉ. Nghe chả có vẻ gì là luật cả, cứ như bài học trong sách đạo đức lớp 5.

    À còn chuyên resort không cho người nước ngoài ở cùng người VN thì cũng không phải ít đâu. Ở Thái Lan cũng có nhiều khách sạn yêu cầu nếu người nước ngoài ở cùng người Thái thì phải có giấy chứng nhận hôn nhân. Mục đích là để chống mại dâm. Nhưng viện dẫn luật ra như thế là vớ vẩn.

    ReplyDelete
  6. Đọc cái này thấy buồn vãi đái nhỉ. Đến một nơi nghỉ dưỡng cao cấp mà không được mang theo người yêu vào chung phòng thì chỉ biết hun cột giường. Nếu Luật Việt Nam mà đúng luật thì chắc bây giờ mấy bạn comment ở trên không được làm người Việt Nam nữa rồi !

    ReplyDelete
  7. luật mùi mẫn thế vì luật sư thì lõang mạn quá mà, cứ đọc blog của luật sư thì biết ;)

    ReplyDelete
  8. luật có mà của luật sư thì chắc cũng đỡ được mấy phần í nhỉ chị so nhỉ

    ReplyDelete
  9. Đây, google có cái thông tư này: :-D

    Mục 8.5 phần IV Thông tư 02/2001/TT-BCA ngày 4/5/2001 về trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề có điều kiện cụ thể như sau:

    - Có sổ đăng ký khách tạm trú và phải ghi đầy đủ các cột mục trong sổ.

    - Có nội quy bảo vệ của cơ sở niêm yết nơi dễ thấy, nội quy hướng dẫn khách hàng.

    - Có người thường trực tiếp nhận hướng dẫn khách nghỉ.

    - Thực hiện việc vào sổ trước khi khách vào phòng nghỉ và trình báo tạm trú với cơ quan Công an phường, xã, thị trấn sở tại trước 23 giờ trong ngày; sau 23 giờ nếu có khách vẫn phải vào sổ và trình báo vào hôm sau (kể cả khách nghỉ theo giờ).

    - Trường hợp khách mang theo vũ khí, súng săn, công cụ hỗ trợ phải yêu cầu khách xuất trình giấy phép sử dụng và phải gửi cơ sở cất giữ.

    - Khách đến nghỉ phải có giấy chứng minh nhân dân, hoặc giấy tờ tùy thân khác có dán ảnh, đóng dấu nổi hoặc dấu giáp lai (đối với người Việt Nam); hộ chiếu, giấy thông hành xuất nhập cảnh (đối với người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài).

    - Phải bố trí phòng nghỉ nam riêng, nữ riêng (trừ trường hợp là gia đình, vợ chồng).

    - Nghiêm cấm việc lợi dụng cơ sở để làm nơi sử dụng, tàng trữ, mua bán, vận chuyển ma túy; đánh bạc; chứa chấp, môi giới mại dâm; chứa chấp tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác.

    ReplyDelete
  10. man rợ nhỉ, rất may là quy định này đã bị thay thế bởi Thông tư 33/2010/TT-BCA. Quy định hiện hành như sau:

    "e) Cho thuê lưu trú

    - Có nội quy của cơ sở kinh doanh lưu trú niêm yết tại nơi dễ thấy.

    - Phải ghi đầy đủ các thông tin của khách lưu trú vào sổ trước khi khách vào phòng nghỉ và thông báo lưu trú với cơ quan Công an xã, phường, thị trấn sở tại trước 23 giờ trong ngày. Nếu khách đến lưu trú sau 23 giờ thì vào sổ và thông báo cho cơ quan Công an vào trước 8 giờ sáng ngày hôm sau (kể cả khách nghỉ theo giờ). Trường hợp có nghi vấn liên quan đến an ninh, trật tự phải báo cáo ngay cho Công an xã, phường, thị trấn.

    - Cơ sở kinh doanh nếu thông báo lưu trú cho cơ quan Công an qua mạng Internet thì phải lưu trữ đầy đủ thông tin về khách đã lưu trú tại cơ sở để phục vụ công tác quản lý.

    - Trường hợp khách mang theo vũ khí, công cụ hỗ trợ, chất nổ phải yêu cầu khách xuất trình giấy phép sử dụng do cơ quan Công an có thẩm quyền cấp và cơ sở kinh doanh phải có trách nhiệm bảo quản chặt chẽ.

    - Người đến lưu trú có trách nhiệm xuất trình một trong các loại giấy tờ sau: Chứng minh nhân dân; Hộ chiếu; các loại giấy tờ có dán ảnh do các cơ quan quản lý Nhà nước Việt Nam cấp; giấy xác nhận cử đi công tác của cơ quan, tổ chức; xác nhận của cơ quan đến liên hệ công tác; xác nhận của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú.

    Trường hợp khách đến lưu trú không có các loại giấy tờ trên thì khi cho khách vào lưu trú, chủ cơ sở phải thông báo ngay cho cơ quan Công an phường, xã, thị trấn.

    - Trường hợp khách đến lưu trú theo đoàn thì người đại diện hoặc trưởng đoàn làm các thủ tục lưu trú cho những người cùng đi nhưng phải xuất trình giấy tờ tùy thân để người tiếp nhận đối chiếu và ghi đầy đủ, chính xác thông tin về người lưu trú vào sổ quản lý lưu trú theo quy định. Trường hợp khách trong đoàn không mang giấy tờ tùy thân thì người đại diện hoặc trưởng đoàn phải viết giấy đề nghị cơ sở kinh doanh cho thuê lưu trú, nêu rõ lý do và cung cấp đầy đủ thông tin của những người cùng đi để cơ sở kinh doanh ghi vào sổ quản lý lưu trú theo quy định.

    - Người đến thăm khách lưu trú tại phòng nghỉ phải xuất trình giấy tờ tùy thân tại quầy lễ tân, cơ sở phải có sổ theo dõi và ghi rõ, đầy đủ các thông tin có liên quan.

    - Nghiêm cấm việc sử dụng cơ sở làm nơi chứa cấp tội phạm, sử dụng, tàng trữ, mua bán các chất ma túy, đánh bạc, chứa chấp, môi giới mại dâm và các hành vi vi phạm pháp luật khác.

    "

    ReplyDelete

BẠN BÈ CŨNG LÀ MỘT TÀI SẢN