Thứ Bảy, 30 tháng 5, 2009

"Khuôn mặt em phi điên cuồng"

Những thời điểm khác nhau tôi bị ám bởi những câu thơ khác nhau. Hôm nay đang bị ám bởi câu này "Khuôn mặt em phi điên cuồng". Câu này thuộc loại đọc một cái thì giật mình, lắc đầu, nếu cầm bút chỉ muốn bẻ bút (cũng may tôi đã tự bẻ bút từ lâu!), còn nếu tác giả ở ngay trước mắt thì sẽ sụp xuống lạy luôn mấy lạy. Tôi không diễn tả được nó hay như thế nào, chỉ biết đọc xong thì choáng váng mặt mày, chỉ chực té lăn quay ra đất. Ngôn ngữ ngày xưa gọi những câu thế này là tuyệt cú, là thần bút.

Đây là một câu thơ của Lãng Thanh, một nhà thơ tài hoa bạc mệnh, sinh 1977, mất 2002 vì bị một người bà con nghiện ma túy sát hại. Thơ của Lãng Thanh chỉ được in ra sau đã mất. Chỉ với một tập thơ vỏn vẹn 14 bài đã in, Lãng Thanh đã để lại theo tôi không dưới chục câu thơ thuộc loại thất kinh bạt vía như câu thơ trên. Tài cao đỏan số, thật đúng trời ghen. Người đáng sống thì chết sớm, ngừơi đáng chết lại sống nhăn răng.

Tết Đoan Ngọ ngày hôm kia. Nhiều người rủ nhau đi trừ sâu bọ. Năm nào cũng trừ vậy mà vẫn nhan nhản sâu bọ đội lốt người.

Thứ Tư, 27 tháng 5, 2009

Viết cho Đơn Dương



Tôi sinh ra và lớn lên ở thị trấn Dran, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng.

Nhắc tới Lâm Đồng, người ta thường chỉ biết đến Đà Lạt. Đà Lạt quá nổi tiếng rồi, dù rằng cũng như rất nhiều trường hợp nổi tiếng khác, nổi tiếng chưa chắc đã có nghĩa là “hay”.

Đơn Dương ít người biết đến, trừ những người sinh ra và lớn lên ở…Đơn Dương. Nổi tiếng nhất ở Đơn Dương có lẽ là đập thủy điện Đa Nhim. Thời lâu lắm rồi, thủy điện Đa Nhim, vốn được người Nhật xây để bồi thường chiến tranh, được xếp vào hàng lớn thứ ba cả nước. Sau này, với sự ra đời của Trị An, Hòa Bình, Ya Li..., Đa Nhim không biết được xếp hạng thứ mấy. Dẫu sao Đơn Dương vẫn được coi là quê điện. Điều đó không ngăn cản quê điện bị cúp điện thường xuyên, có khi đến ba ngày một tuần, chắc là để nhường cho những thành phố lớn, Sài Gòn chẳng hạn, lấp lánh ánh đèn hoa lệ hằng đêm.

Thị trấn Dran là “thủ phủ” của Đơn Dương. Giống như người Sài Gòn gọi quận I là Sài Gòn, người Đơn Dương gọi Dran là Đơn Dương. Điều này có nghĩa ở Thạnh Mỹ (kiểu như Gò Vấp), Ka Đơn (kiểu như Bình Chánh) mà muốn ra Dran, người ta sẽ rủ nhau: “Đi Đơn Dương chơi không?”. Trong bài viết này kể từ đây trở đi, khi nói tới Đơn Dương bạn sẽ hiểu tôi đang nói tới Dran, “thủ phủ” của Đơn Dương, nơi có ba con đường (Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Hai Bà Trưng) và một cái bùng binh (mà dân địa phương khi chạy xe không bao giờ đánh vòng quanh), sau này được bổ sung thêm một số tên đường cho dù không có con đường nào mới mở.

Ai hỏi Đơn Dương ở đâu, tôi sẽ chỉ đường như thế này: Anh/chị/bạn đi Đà Lạt chưa? Thế này nhé, từ Sài Gòn đi Đà Lạt, khi còn cách Đà Lạt khoảng 25 cây số, sẽ có một ngã ba tên là ngã ba Finom. Thay vì rẽ hướng lên Đà Lạt, anh/chị/bạn rẽ hướng kia, đi khoảng 25, 26 cây số sẽ tới Đơn Dương. Đơn Dương rất nhỏ, nên bạn đừng đi nhanh quá coi chừng vuột mất. Đi thẳng đường đó, bạn sẽ đổ đèo Ngoạn Mục xuống Song Pha rồi Phan Rang.

Đà Lạt cao 1,500 mét so với mặt nước biển. Đơn Dương thấp hơn 500 mét, nghĩa là vẫn cao khoảng 1000 mét so với mặt nước biển. Nhờ đó, Đơn Dương có một khí hậu tuyệt vời. Mùa Đông, nhiệt độ sáng sớm và tối khoảng 15 độ, ban ngày khoảng 20-22 độ C. Mùa hè, giữa trưa, nhiệt độ trong nhà ít khi vượt quá 28 độ. Ở Sài Gòn, buổi tối đi ngủ tôi mở máy lạnh ở mức 27 độ C. Từ khi có con, tôi mở mức 28 độ C vì sợ bé nhiễm lạnh. So sánh thế để biết, Đơn Dương là một cái máy lạnh khổng lồ, chẳng những không tốn điện, mà còn hết sức “sinh thái”, phù hợp với với những tiêu chuẩn văn minh nhất về môi trường. Cái máy lạnh ấy có cái nhiệt độ tự nhiên của trời đất, có cái gió rì rào triền miên của những đồi thông vây quanh.

Đơn Dương là một thung lũng. Đứng bất cứ chỗ nào ở Đơn Dương, nhìn đi hướng nào bạn cũng thấy đồi thấy núi. Những đồi thông, những đồi thông. Khi còn bé, tôi thường theo anh leo lên một trong những đồi thông quanh thị trấn lấy củi. Chúng tôi không bao giờ mang giày. Vào những năm 80 ấy, giày là một khái niệm xa lạ đối với trẻ con và phần đông người lớn. Chúng tôi đi chân không trên những đoạn đường nhựa nóng bỏng, trên những đoạn đường đất nho nhỏ men chân đồi lấp xấp cỏ ống, cỏ gà, cỏ mực, lội qua một con suối rồi trèo lên một, hai, ba, hoặc bốn con dốc. Chúng tôi tìm những thân cây đã gãy khô, chặt ra một đoạn vừa sức vác rồi mang đi. Đi trong núi, tôi có những cảm giác kỳ lạ mà mãi mãi về sau này tôi không bao giờ có được. Thông cứ reo rì rào như lúc nào cũng có ai đó đang nói chuyện, mùi nhựa thông phảng phất, bước chân chúng tôi trệu trạo trên lá thông khô, trên đá dăm. Đá dăm có thể găm vào gót chân chúng tôi, những gót chân bao giờ cũng nứt nẻ, có khi bật máu vào mùa đông. Ấy là mãi sau này khi đã thành người thành phố có gót chân mịn màng tôi mới nhớ lại, chứ ngày ấy tôi không để ý. Má tôi cũng không để ý. Chẳng ai để ý cả, vì hầu như gót chân ai cũng nẻ.

Những đồi thông bây giờ vẫn còn đấy, nhưng cây đã trở nên thưa nhiều vì năm nào cũng cháy rừng, rồi người ta phá rừng làm rẫy, làm nhà. Bây giờ chẳng mấy ai nấu củi nữa, nhà nào cũng xài bếp ga hay điện, trẻ con không còn phải đi lên núi. Thay vào đó, chúng đi chơi game. Chơi game, nếu không nghiện cũng không có gì xấu. Chỉ có điều chúng không có cơ hội leo núi, không được đứng giữa đồi thông để nghe thông rì rào, không được nằm trên thảm lá thông để ngắm nắng lọt qua tán cây, và cũng không bị đá dăm găm vào chân. Chúng có mơ mộng như tôi không?

Đon Dương, mùa mưa. Đã bao nhiêu năm rồi tôi không về Đơn Dương vào mùa mưa? Hỏi là để nhớ. Nhớ năm nào tháng chín, cứ vào mùa tựu trường là mưa dai mưa dẳng. Mưa một tuần, mưa hai tuần thậm chí cả tháng liền, hầu như không dứt. Mưa lúc to, lúc nhỏ, rỉ rả suốt ngày, rả rich suốt đêm. Đất đỏ từ những triền đồi chảy khắp mặt đường, những con đường bẩn và hẹp càng trở nên bẩn hơn, hẹp hơn. Ai ra đường cũng quần xắn quá gối, lùng nhùng trong một đống áo mưa. Đơn Dương ngày trước nhiều nhà làm bằng gỗ, mưa thấm vào gỗ sau nhiều ngày toát ra mùi hăng hắc. Cái mùi ấy theo tôi cả đời. Ngay lúc này đây, nhắm mắt lại, hít vào nhè nhẹ, là tôi hình dung ra mùi ấy ngay. Mùi của một ngôi nhà, mùi của một vùng quê, đã thấm vào người không bao giờ dứt được. Hình dung ra mùi ấy tôi cũng hình dung ra gương mặt ba má, anh chị tôi , rồi thầy cô, bạn bè cũ. Rồi hình dung ra cái hồ xi măng chứa nước mưa sau nhà, ra cái máng xối nghẹt đầy lá vú sữa, ra con mương trước nhà nước tràn be, đỏ quạch. Lần gần đây nhất về nhà con mương ấy đã được lấp xi măng rồi, không biết bây giờ trời mưa nước chảy đi đâu.

Đơn Dương, mùa đông, mùa đẹp nhất năm khi hơi lạnh treo trên từng hơi thở, khi đầu ngọn cỏ lóng lánh sương, bầu trời xanh trở nên khoáng đạt, nắng óng như rơm. Và hoa quỳ vàng. Hơn một người đã phải lòng cái màu vàng của hoa quỳ miền cao nguyên vốn chỉ nở rực vào những ngày lạnh nhất... tháng mười một, tháng mười hai. Càng lạnh hoa càng rực rỡ. Tháng mười hai qua, hoa rụi dần. Để rồi Tết đến, khi trăm ngàn loại hoa khác đua nhau khoe sắc, thì những cụm hoa quỳ ven triền đồi chỉ còn trơ lõi, xấu xí, thảm hại. Hoa quỳ là sứ giả của mùa đông cao nguyên. Mùa đông không có nhiều sứ giả, nên hoa quỳ là sứ giả hiếm hoi và độc đáo. Du khách đến trầm trồ đã đành, dân bản xứ tha hương, cứ những ngày tiết trời se se lạnh lại bồi hồi nhớ cái màu vàng ấy. Cái màu vàng bàng hoàng những triền đồi. Ngày xưa, có anh chàng sinh viên đi học đại học ở Sài Gòn, hứa với một cô bạn rằng về quê ăn Tết xong sẽ mang hoa quỳ vào, nhưng Tết xong thì làm gì còn hoa quỳ. Anh chàng đâm ra thơ thẩn:

“Khi anh về hoa quỳ thôi nở
Còn biết tìm đâu quà tặng em
Anh xoa tay cho ấm mùa nắng vỡ
Ngủ trong mây một áng trăng mềm”

Đơn Dương, tôi đã đi xa nhiều năm rồi. Mỗi năm trở về thấy đường phố nhiều ổ gà hơn, bụi nhiều hơn, cả thị trấn mòn đi, cũ đi. Người trẻ đi xa, người già ở lại. Cái rạp xi-nê duy nhất của thị trấn, luôn đông nghẹt người những năm tám mươi bị bỏ hoang, khai ngáy. Thị trấn không còn hiệu sách, không còn sân banh, công viên thì chưa bao giờ có. Tôi đứng trước sân nhà, mắt nhìn về phía núi, cố nhìn ra những con dốc mình đã leo ngày xưa. Tôi đã đi và leo nhiều con dốc khác trong cuộc đời, tuy chưa đến đỉnh nhưng chắc chắn không còn trong thung lũng. Mắt tôi nhìn bốn phía không còn bị chắn bởi những đồi những núi, nhưng lòng tôi sao vẫn mãi hoang mang?

Tháng 5/2009

Thứ Ba, 26 tháng 5, 2009

Rõ đầu, rõ mặt, rõ hai tai

1. Trích Nghị định 34/2008/NĐ-CP ngày 25/3/2008 của Chính phủ về điều kiện để một người nước ngoài có thế làm việc tại Việt Nam:

1. Đủ 18 tuổi trở lên;

2. Có sức khỏe phù hợp với yêu cầu công việc;

3. Là nhà quản lý, giám đốc điều hành hoặc chuyên gia theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 2 của Nghị định này;

4. Không có tiền án về tội vi phạm an ninh quốc gia; không thuộc diện đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, đang chấp hành hình phạt hình sự theo quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật nước ngoài.

5. Có giấy phép lao động do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam cấp, trừ các trường hợp không phải cấp giấy phép lao động quy định tại khoản 1 Điều 9 Nghị định này.


Cũng trong Nghị định này “Nhà quản lý, Giám đốc điều hành’’ được định nghĩa là những người trực tiếp quản lý doanh nghiệp nước ngoài đã thành lập hiện diện thương mại tại Việt Nam, chỉ chịu sự giám sát hoặc chỉ đạo chung từ hội đồng quản trị hoặc các cổ đông của doanh nghiệp hoặc cấp tương đương; quản lý doanh nghiệp bao gồm việc chỉ đạo doanh nghiệp đó hoặc một phòng, ban hoặc một đơn vị trực thuộc. Còn "Chuyên gia“ người có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao về dịch vụ, thiết bị nghiên cứu, kỹ thuật hay quản lý (bao gồm kỹ sư hoặc người có trình độ tương đương kỹ sư trở lên; nghệ nhân những ngành nghề truyền thống) và người có nhiều kinh nghiệm trong nghề nghiệp, trong điều hành sản xuất kinh doanh và những công việc quản lý.


Như vậy, theo luật hiện hành, chỉ những người nước ngoài nào là nhà quản lý, giám độc điều hành hay có trình độ chuyên gia mới được phép làm việc ở Việt Nam. Những người này phải xin giấy phép lao động. Hồ sơ xin giấy phép lao động cũng được quy định chi tiết trong Nghị định 34, bao gồm đơn, lý lịch tư pháp, lý lịch tự thuật, giấy khám sức khỏe, bản sao giấy chứng nhận về trình độ chuyên môn hoặc xác nhận về kinh nghiệm, và 3 ảnh màu. Quy định về ảnh cũng hết sức chặt chẽ: kích thước 3x4cm, đầu để trần, chụp chính diện, rõ mặt, rõ hai tai, không đeo kính, phông ảnh máu trắng, ảnh chụp không quá sáu tháng kể từ ngày nộp hồ sơ. Tất cả các hồ sơ này nếu cấp tại nước ngoài điều phải được công chứng, chứng thực, hợp pháp hóa lãnh sự và dịch ra tiếng Việt. (Thực tế, phải mất từ hai đến ba tháng để hoàn chỉnh một bộ hồ sơ xin giấy phép lao động. Nếu suông sẻ, Sở Lao động sẽ cấp giấy phép lao động trong vòng 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận hồ sơ, tức 3 tuần. Thực tế, thời gian này thường kéo dài hơn, và Sở Lao động có thể yêu cầu thêm hồ sơ).


Điều 18.4 của Nghị định 34 giao cho Sở Lao động Thương binh xã hội các tỉnh thành trách nhiệm kiểm tra, thanh tra việc thực hiện các quy định của Nghị định 34.


Điều 15.3 của Nghị định cũng quy định rằng sau 06 (sáu) tháng làm việc tại Việt Nam nếu người lao động nước ngoài không có giấy phép lao động thì Sở Lao động - Thương binh và Xã hội đề nghị Bộ Công an ra quyết định trục xuất khỏi Việt Nam.


  1. Trích Báo cáo của Chính phủ gửi Quốc hội về vấn đề bauxite:


Phần xây dựng Nhà máy luyện alumin (gói thầu EPC): chủ yếu do lao động của nhà thầu Chalieco, Trung Quốc thực hiện, một phần do lao động Việt Nam thực hiện. Số lượng lao động Trung Quốc tại công trường nhà máy alumin hiện nay (tháng 5 năm 2009) khoảng 600 người, lao động Việt Nam khoảng 350 người.


Câu hỏi 1: Phải chăng lao động của nhà thầu Chalieco, lực lượng chủ yếu xây dựng Nhà máy luyện alumin, đều là nhà quản lý điều hành, giám đốc điều hành, chuyên gia theo quy định của Nghị định 34?


Câu hỏi 2: Liệu 600 lao động Trung Quốc hiện đang tại có mặt tại công trường đều có giấy phép lao động theo quy định của Nghị định 34?


Câu hỏi 3: Nếu 600 lao động này không có giấy phép lao động, liệu họ có bị trục xuất theo quy định tại Nghị định 34?


Câu hỏi 4: Nếu câu trả lời cho tất cả 3 câu hỏi trên là KHÔNG, thì câu hỏi phải đặt ra là gì?

  1. Trích phần trả lời phỏng vấn Vietnamnet của ông Lê Thanh Phong, Bí thư Đảng ủy Lâm Đồng:

VNN: Ông có thể nói gì về số lượng lao động phổ thông nước ngoài đang làm việc ở Tân Rai như vừa rồi báo chí đã mô tả?

LTP: Sơ sót ban đầu của TKV là không kí kết ràng buộc về sử dụng lao động VN với Chalieco. Theo con số chúng tôi nắm được, hiện có 643 lao động Trung Quốc ở dự án, trong đó cán bộ quản lý là 156 người. Công nhân làm việc trực tiếp (lao động phổ thông) là 487 người, trong đó có 47 nữ. Số người có hợp đồng lao động trên 3 tháng là 490 người. (...)

VNN: Với số lao động không hợp pháp này, các ông đã chấn chỉnh thế nào?

LTP: (...) Không trục xuất người ta ra ngay được, đuổi người ta đi đâu. Đã đưa vào rồi. Chỉ yêu cầu nhà thầu từ nay trở đi làm đúng quy định của VN. Không lí họ vào rồi, bằng hình thức này hình thức kia, còn quan hệ quốc tế giữa hai bên, không phải muốn làm gì cũng được. Vì thế, trong xử lý công việc cũng phải hết sức thận trọng, không phải làm sao cũng được

Hiện giờ chúng tôi đang làm, giao cho các ngành chức năng làm việc với chủ đầu tư và chủ đầu tư làm việc lại với họ. Bây giờ phải từng bước hạn chế và đi đến chấm dứt cái chuyện hợp đồng chui này, họ phải đưa công khai và theo quy định của pháp luật Việt Nam. Cái này chúng tôi nhắc nhở họ qua nhà đầu tư chứ bản thân Lâm Đồng cũng không làm việc trực tiếp với họ được.

VNN: Nhưng vừa rồi, một lãnh đạo của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội nói rằng, không chấp nhận lao động phổ thông là người nước ngoài?

LTP: Hợp đồng giữa tập đoàn TKV và nhà thầu Chalieco không đặt vấn đề lao động trong quá trình đó là ai. Khi trúng thầu rồi, nhà thầu vì lợi ích của người ta, vì mục tiêu của họ để hoàn thành các hạng mục công trình, họ có quyền thuê công nhân. Mình không bắt họ làm được vì trong hợp đồng không ràng buộc.

Câu hỏi 1: Hợp đồng và luật cái nào cao hơn? Hợp đồng phải theo luật hay luật phải theo hợp đồng?


Câu hỏi 2: Tại sao không trục xuất được khi Nghị định 34 đã quy định biện pháp chế tài này?


Câu hỏi 3: Tại sao Lâm Đồng không trực tiếp làm việc với họ được khi Nghị định 34 đã trao quyền kiểm tra việc thực hiện pháp luật lao động cho Sở Lao động, Thương binh và Xã hội các tỉnh trực thuộc Ủy Ban Nhân Dân tỉnh?


Câu hỏi 4: Ông Lê Thanh Phong giữ chức vụ gì ấy nhỉ?

Chủ Nhật, 24 tháng 5, 2009

Để những giấc mơ đẹp về...mì gói sẽ luôn bên em...

Có hai chương trình tivi mà cả nhà tôi thường xuyên theo dõi: thứ nhất là chương trình thời sự của VTV, và thứ hai là Chúc bé ngủ ngon của VTV3. Chả là vì nhà tôi có hai khán giả nhí, rất nhí: Alpha gần 3 tuổi, và Pi, 20 tháng tuổi.

Chúc bé ngủ ngon thường được phát khoảng 9 giờ tối hàng ngày. Chương trình có chị Kính Hồng mặc váy hồng và dĩ nhiên đeo kính hồng, có cậu bé Nam thần đồng ngoại ngữ và dịch thuật và hai bạn Thỏ Láu láu lỉnh và Heo Mập háu ăn, có bài hát “Bé ơi ngủ ngon đêm đã khuya rồi, để những giấc mơ đẹp sẽ luôn bên em”. Chương trình sinh động, nhiều màu sắc, giáo dục nhẹ nhàng, hai khán giả nhí nhà tôi rất mê. Tối tối, sau khi măm xong mỗi đứa một bình sữa, hai chị em nhảy phốc lên sofa, nghếch mắt lên tivi, chờ. Alpha nói rành rồi nên hay hỏi “Hôm nay có Chúc bé ngủ ngon chưa ba?”. Dạo này tất cả các câu hỏi của Alpha đều bắt đầu bằng từ “hôm nay”.

Thường tôi trả lời con đợi một chút xúi nha, sắp có rồi đó. Hôm nay, hai đứa ngồi chóc ngóc trên sofa, mắt dán lên tivi, coi quảng cáo tạp chí truyền hình, quảng cáo phim mới, dầu gội đầu trị gàu, sữa, mì ăn liền, rồi lại sữa. Mí mắt cu Pi muốn sụp xuống, nhưng vẫn nghếch mặt nhìn tivi chăm chú. Alpha sốt ruột: “Sao lâu thế ba?”. Chữ “thế” luôn được nhấn mạnh và kéo dài. Tôi động viên, con ráng chờ chút xíu, chắc sắp có rồi đó. Thì có thiệt! Nhạc hiệu Chúc bé ngủ ngon nổi lên, có chiếc nón đủ màu quay quay. Alpha reo lên: “Có Chúc bé ngủ ngon rồi!’ Mắt cu Pi bừng sáng. Nhưng chỉ vừa hết nhạc hiệu thì lại tèng teng teng chương trình quảng cáo. Hai đứa lại phải ngồi coi mì gói, tã lót siêu thấm, sữa chúng tôi là những con bò. Tổng cộng hai khán giả nhí phải coi hơn chục mẩu quảng cáo trước và sau nhạc hiệu, tổng thời gian có lẽ dài hơn chương trình Chúc bé ngủ ngon vốn chỉ dài 5 phút.

Hôm nay có nghĩa là “dạo gần đây”. Dạo xa hơn một chút không đến nỗi tệ như thế. Chắc từ ngày chương trình thêm ăn khách, nhà đài mới tranh thủ nhồi nhét nhiều quảng cáo hơn, một cách hành xử rất quen thuộc và rất “thị trường”, bất kể đối tượng khán giả chương trình là các bà nội trợ mê phim Hàn Quốc hay trẻ con nói chưa sõi đều được đối xử bình đẳng trước …lợi nhuận. Chương trình nào chả là chương trình, phải không VTV? Chỉ tội các khán giả rất nhí, nhí đến nỗi đi tè có khi còn chưa biết gọi, nhiều lúc mắt mở không lên mà vẫn phải nuốt bao nhiêu mẩu quảng cáo trước khi được coi chương trình yêu thích của mình.

Bé ơi ngủ ngon đêm đã khuya rồi, để những giấc mơ đẹp về mì gói, tã lót, dầu gội đầu trị gàu.v.v. sẽ luôn bên em!

Đừng hỏi tại sao

Cải cách giáo dục là vấn đề trọng đại. Tính “trọng đại” của vấn đề này là hiển nhiên, không phải bàn cãi. Điều cần bàn cãi, là cải cách như thế nào thôi!


Theo dõi tin tức trên mạng vài ngày gần đây, tôi nảy ra một sáng kiến nho nhỏ, mong muốn đóng góp vào công cuộc cải cách giáo dục trọng đại và vĩ đại của nước nhà.


Tôi nhận thấy, học sinh từ tiểu học đến trung học phải học hàng chục môn, thế nhưng không môn nào dạy cho các em kỹ năng đặt câu hỏi cả. Không dưng tự nhiên mà chúng ta có từ “học hỏi”. Từ xưa đến nay, hỏi luôn đi kèm với học. Học là để hỏi, hỏi là để học. Không thể học nếu không hỏi. Không hỏi tức là không biết học. Học mà không hỏi tức là không học. Hỏi mà không học thì làm sao biết cách hỏi. Vậy nên tôi mới đặt vấn đề, phải dạy học sinh cách đặt câu hỏi.


Vì chưa được học cách đặt câu hỏi, nên chúng ta (nên nhớ tất cả chúng ta đều từng là học sinh) không biết cách đặt câu hỏi. Tệ hơn, chúng ta có thể hỏi không đúng chỗ. Hỏi không đúng chỗ làm sao người được hỏi trả lời được. Cho nên, rất mong Bộ Giáo dục và đào tạo chú trọng đến việc dạy kỹ năng hỏi trong nhà trường. Để sau này, không ai lại đi hỏi Bộ trưởng Bộ giáo dục cái câu “Tại sao trường học lại thiếu nhà vệ sinh?”. Hỏi như thế là không đúng chỗ.


Xem Đừng hỏi Bộ trưởng vì sao trường học thiếu nhà vệ sinh