Thứ Hai, 18 tháng 8, 2025

When the Night is Over

Alice Munro có một truyện ngắn tên là Gấu trèo về qua núi. Truyện này nằm trong tập Ghét, thân, thương, yêu, cưới được dịch và in ở Việt Nam cách đây gần 10 năm rồi, hồi bà mới đoạt giải Nobel. Mặc dù đã đọc vài tập khác của bà và ca ngợi bà hết lời, tôi mới chỉ đọc tập này gần đây thôi, chính xác là sau khi đọc một cuốn gì đó quá dày, tôi muốn thoát ra, thay đổi không khí đọc cái gì đó ngăn ngắn, tôi nghĩ truyện của Munro sẽ phù hợp. Điều kỳ lạ là tôi không thấy Munro thấm thía như trước nữa. Có thể không phải tập này kém hơn so với các tập kia - nó vẫn được coi là một tập truyện tiêu biểu của bà - có thể chỉ là do tôi khác đi. Nói ngay tôi không bị ảnh hưởng bởi scandal liên quan tới vụ bà đối xử với con gái mình. Đó là một cách ứng xử không chấp nhận được, nhưng tôi luôn tách bạch văn với người. Tập này, tôi chỉ đọc được bốn, năm truyện là thấy đủ và dừng lại; trong số đó tôi chỉ thích truyện được lấy làm tựa cho tập Ghét, thân, thương, yêu, cướiGấu trèo về qua núi. Nhưng thích là thích khi đọc, là thích  cái ấn tượng hai truyện ấy mang đến cho tôi lúc đó, chứ sau thì cũng không nhớ nữa. Nói đúng ra thì tôi nhớ một chút về cái mối tình oái oăm và trò tinh nghịch tai quái của hai cô bé trong Ghét, thân, thương, yêu, cưới, nhưng Gấu trèo về qua núi viết về cái gì thì tôi hoàn toàn không nhớ cho đến khi mở cửa sổ trên máy tính ra và viết những dòng này. Tất nhiên khi bắt tay gõ thì chỉ cần vài cái nhấp chuột đơn giản tôi đã được "nhắc" lại nội dung truyện, biết rằng Trần Ngọc Hiếu đã đăng một bản dịch truyện này trên blog của bạn ấy. Chỉ mong sau này tôi không bị Alzheimer. 

***

Tôi vẫn còn nợ các bạn tôi một lời giải thích về tư duy tiểu thuyết là gì. Số là trong một chuyến đi gần đây, chủ đề tiểu thuyết được đưa ra bàn thảo, và tôi đã trót đưa ra là lời nhận xét là nhà văn X đó có tư duy tiểu thuyết. Gần như vừa nói xong là tôi biết sẽ bị vặn vẹo ngay tư duy tiểu thuyết là gì. Quả thưc như thế, các ông bạn tôi không buông tha cho tôi. Điều bí mật là mặc dù đã đọc nếu không đến số nghìn, thì cũng đã hàng trăm tiểu thuyết rồi, tôi có biết tư duy tiểu thuyết là gì đâu. Hoặc nói đúng hơn, tôi có biết, nhưng diễn đạt cho ra đầu ra đũa thì là một vấn đề khác. Câu buột miệng của tôi cần được giải thích bằng một tiểu luận, các bạn cho tôi khất, nhưng tiểu luận không phải nghề của tôi. 

***

Cái chết là nghề của tôi là tên một tiểu thuyết của nhà văn Pháp Robert Merle, Trần Dần dịch, viết về một trong những cai ngục của một trại tập trung dân Do Thái của Đức Quốc xã. Anh ta không phải là kẻ ác độc. Anh ta chỉ muốn làm tốt nhiệm vụ được giao. Nỗi bận tâm của anh ta là làm thế nào giết được nhiều người nhất mà tốn ít công sức nhất. Anh ta coi việc làm cho người ta chết là một công việc, và vì đó là công việc, và vì anh ta là có thái độ làm việc chuyên nghiệp, nên anh ta tìm mọi cách để nâng cao hiệu suất công việc của mình. Giết bằng súng thì quá tốn đạn, lại còn phải lo cho có đủ người thực hiện việc bắn, mà số người cần phải giết thì quá nhiều. Đó là lý do anh ta nghĩ tới dùng hơi ngạt và lò thiêu.

***

Tôi đang bắt đầu đọc Gia đình bé mọn của Dạ Ngân. Cuốn này ra đời cũng hai mươi năm rồi, tôi có nghe tên nhưng chưa bao giờ chú ý. Gần đây, bạn Lê Hồng Lâm nồng nhiệt giới thiệu trên Facebook nên tôi mua về đọc. Tôi thường đọc khoảng hơn chục cuốn cùng lúc, có cuốn sẽ đọc cho xong, có cuốn bỏ dở nửa chừng, không hẳn vì dở mà vì chưa phải thời điểm thích hợp để nhập vào cuốn đó. Một lý do nữa là tôi thường xuyên rinh sách mới về nhà, cuốn nào mới được mang về cũng nhủ thầm sẽ đọc cho xong mớ này, nhưng cũng thường xuyên chuyện đó không bao giờ xảy ra. Thỉnh thoảng tôi xem lại những tấm ảnh mình chụp sách mới mua post trên FB tầm cách đây chục năm, nhận ra mình mới đọc xong chừng hai, ba cuốn trong đống sách mua hồi đó. Hôm trước gặp Bảo Chân, Chân tặng tôi hai cuốn bạn dịch, rồi nhắc tới cuốn của Khải Đơn và Phan Thúy Hà, thế là tôi lại lọ mọ đặt mua, sách tới nhà hôm qua. Vậy là tôi đọc cuốn của Khải Đơn và Gia đình bé mọn cùng một lúc. Đọc Gia đình bé mọn được mấy mươi trang, chưa thể nói gì về nó, nhưng có sự thú vị trong việc nhặt ra những từ lạ hoặc hiếm dùng: "nôn nang", "ươn yếu", "cụ bị".... "Cụ bị" thì tôi hiểu gần như là "chuẩn bị", còn hai từ kia tôi gặp lần đầu, trong ngữ cảnh có thể đoán lờ mờ nhưng chưa thật sự rõ nghĩa. Sự lấn át của văn học dịch so với văn học trong nước hai chục năm qua, cái hay thì không nói làm gì, nhưng cái dở rõ là làm cho ngôn ngữ ngày càng nghèo đi. Ngôn ngữ phải sinh sôi bởi các nhà văn chứ không phải các dịch giả. Lệ thuộc vào bản gốc, dịch giả dẫu có tài hoa bay bổng cách mấy khó lòng đi khỏi cái khuôn do bản gốc quy định. Ấy là chưa kể đa số bản dịch trên thị trường chỉ ở mức tầm tầm. Đọc tiếng Việt của các nhà văn giỏi vẫn có niềm khoái thú riêng, trước hết là ở cách họ dùng từ, chơi đùa với tiếng mẹ đẻ như thế nào. Nói đi cũng nói lại, ở thì hiện tại, không quá nhiều nhà văn Việt Nam khiến tôi khâm phục về ngôn ngữ. Cuốn của Khải Đơn tôi vừa đọc được ba truyện. Truyện thứ nhất hãy còn mang dáng dấp của một tản văn - trước đây cô cũng ra hai tập tản văn rồi, mà tản văn thì tôi không đọc, nói chung ai viết tôi cũng không đọc, đó không phải văn chương nghiêm túc. Truyện thứ hai và thứ ba trong tập Con rối hát ngoài rừng xa thì đáng chú ý hơn nhiều. Trong cả hai truyện, Khải Đơn tạo được một không khí mập mờ. Liệu đây có phải là không khí chủ đạo cho cả tập hay không thì phải đọc được hết cả tập mới biết. Trong truyện Sâu của biển, chỉ trong vài trang tôi nghĩ Khải Đơn mang đến ấn tượng sâu đậm hơn nguyên cuốn tiểu thuyết đình đám cùng đề tài, Thuyền, của Nguyễn Đức Tùng. Cuốn Thuyền hỏng về nhịp, mặc dù tác giả là nhà thơ. Thuyền được nhiều người ca ngợi vì đề tài, nhưng đề tài (alone) có bao giờ làm nên tác phẩm đâu?

***

Nhưng hai tuần qua, tôi không thật sự đọc ra đầu ra đũa cuốn sách nào, ngược lại xem được rất nhiều phim hay. Cái này nhờ ơn bạn Kỳ đã chỉ tôi cách cài app lậu lên TV. Tôi không ưa xem phim trên máy tính, mà ở VN muốn xem được phim hay chỉ có cách xem phim lậu. Nay cài được app lậu lên TV thật là sung sướng. Có một thời gian tôi đăng ký Mubi đàng hoàng, nhưng kho phim của Mubi cũng hạn chế. Nhờ app lậu tôi coi được một loạt phim hay: The Good, the Bad and the Weird; The Dreamers; Lust, Caution (xem lại mà như xem lần đầu), Stand by Me, We Need to Talk about Kevin; The Handmaiden; Oldboy - toàn phim lâu lắc nhưng phim nào cũng hay, mỗi cái hay một kiểu. Xem Stand by Me xong mới biết cậu bé trong phim là diễn viên River Phoenix, anh của Joaquin Phoenix rất nổi tiếng, mỗi tội River Phoneix nổi sớm mà chết cũng sớm, lúc mới 23 tuổi, vì ma túy quá liều.

***

When the Night is Over là một bài hát của Lord Huron. Dạo này tôi nghe ban này nhiều. Bỏ Spotify chuyển qua Apple Music khiến tôi có hứng thú nghe nhạc trở lại. Chất lượng âm thanh của Apple Music tốt hơn mà nó cũng recommend nhạc tốt hơn Spotify. Con AI của Spotify ngày càng lởm. Thời đầu dùng Spotify, tôi cứ nhong nhóng chờ sang tuần để xem nó giới thiệu gì trong mục Weekly Discovery; về sau, nó giới thiệu toàn bài chán oặt, hay có cái kiểu mình thích bài nào thì nó giới thiệu những bản cover lại chính bài ấy, mà kém hơn. Dùng Apple Music, nếu muốn chuyển những playlist đã tạo ở Spotify, có thể dùng một cái app tên là Songshifter. 

***

Là người đọc tiểu thuyết ở thì hiện tại, Việt Nam hay bất kỳ đâu, thể nào ta cũng đọc ít nhất một cuốn của Haruki Murakami. Thật khó mà cưỡng nổi sức hút của tiểu thuyết của ông nhất là những cuốn thời kỳ đầu: Rừng Na uy, Biên niên ký chim vặn dây cót, Kafka bên bờ biển... Về sau, tiểu thuyết ông không còn mới mẻ nữa, tôi nghĩ cũng không sao. Không thể đòi hỏi quá nhiều. Kể cả không còn cuốn hút bởi tiểu thuyết của ông nữa, khi đọc lại những cuốn non-fiction như Mình nói gì khi nói về chạy bộ, hay đọc cuốn mới được dịch của ông, Nghề viết tiểu thuyết, tôi vẫn đồng cảm và quý mến con người nhà văn. Tất nhiên, một phần tôi là người chạy bộ: về chuyện này thì ông truyền cảm hứng ghê gớm. Kể cả không chạy bộ thì cuốn sách về chạy bộ của ông cũng chứa đựng nhiều thứ hay ho và, chắc một số người sẽ thích, hữu ích. Đọc Nghề viết tiểu thuyết, tôi quý ông ở chỗ thành thực và không cao đạo - về chỗ này thì tôi thấy lắm người thành tựu thì chả có gì mà đi đứng nói năng lúc nào cũng như ông kễnh, rất buồn cười. Ông cho ta cảm tưởng là viết tiểu thuyết dễ lắm, ai viết cũng được, có khi tôi cũng thử cầm bút lên mà viết một cuốn. Tôi còn quý ông ở chỗ là ông nói luôn ông là người không yêu nước - về chỗ này thì tôi giống ông, theo ý nghĩa là không có tự hào dân tộc. Tôi luôn thấy tự hào dân tộc là một tình cảm kệch cỡm. Tự hào dân tộc quá lố thì còn ngu xuẩn nữa. 

Murakami còn là người rất chuyên nghiệp và kỷ luật. Ông mô tả cách viết của ông thế này: mỗi ngày ông viết 4-5 tiếng, được đúng 10 trang. Một tháng ông viết 300 trang. 6 tháng ông viết 1800 trang. Nghe dễ không! Bản thảo đầu tiên cuốn Kafka trên bờ biển là 1800 trang, sau đó ông sẽ sữa chữa 4- 5 vòng, mỗi vòng 1 tháng hoặc vài tuần, đưa cho vợ đọc, sửa tiếp, gửi cho biên tập viên, sửa tiếp. Tôi cũng áp dụng cách làm này khi dịch sách. Tất nhiên thì tôi dịch rất ít và cũng lâu lâu mới dịch một cuốn. Nhưng nếu dịch, thì tôi cũng đặt ra chỉ tiêu cho mình mỗi ngày 1-2 trang gì đó, cuốn tuần gấp 3. Nói gì thì nói, dịch là một việc mang tính kỹ thuật hơn, kiểu gì có thời gian thì cũng dịch được, không như viết là công việc đòi hỏi sáng tạo. Đặt ra chỉ tiêu mỗi ngày viết 10 trang mà duy trì suốt 6 tháng đều đặn như thế thì thật kinh khủng.

***

Thỉnh thoảng tôi thấy một vài nhà văn hồ hởi share lại bình luận về tác phẩm của mình trên Facebook. Thật lòng tôi thấy thương thương. Đã viết ra được tác phẩm, tôi nghĩ nhà văn hãy nên kiêu ngạo một chút. Cái mình cần viết, muốn viết, mình đã viết rồi. Khen, chê, bình luận là chuyện của người khác. Hãy đứng bên ngoài nó. Vả chăng, tôi nghĩ nhà văn không nên lên Facebook, cái chốn ấy chỉ tổ làm hỏng người. Nếu vẫn muốn lên FB, thì hãy tách bạch khỏi thân phận nhà văn của mình. Nếu không lập được một cái profile khác, chí ít đừng nói gì tới văn chương trên ấy. 

***

Tôi đọc xong tập Con rối hát ngoài rừng xa rồi, mất nhiều thời gian hơn dự tính. Cuốn sách hơn 200 trang một chút, gồm 14 truyện ngắn, có truyện chỉ ba bốn trang. Vậy mà đọc khá lâu mới xong. Thứ nhất là không đọc nhanh được. Khải Đơn viết cô đọng và tương đối tiết chế, mắt phải dừng lại ở mỗi câu, chữ lâu hơn. Thứ hai, mỗi truyện đọc xong phải đọc lại một lượt, đâm ra bằng đọc hai cuốn. Nói chung, tôi nghĩ Khải Đơn thành công với tập truyện này, mặc dù đây mới là lần đầu tiên cô thử sức với văn chương hư cấu. Sâu của biển chắc là truyện xuất sắc nhất tập. Tôi cũng thích truyện Khung trời vô cực, nhưng nếu là biên tập viên, tôi sẽ đề nghị cắt gọt đi chút xíu, bớt kể lại, cất bớt thông tin để truyện ép-phê hơn. Nguyễn Ngọc Tư là người rất nghề với thao tác này. Các truyện ngắn của Tư về sau này gần như không thừa từ nào, chi tiết nào.

***

Xem phim Drive My Car xong khiến tôi muốn đọc lại truyện, nhưng tìm khắp nhà không ra tập Những người đàn ông không có đàn bà, thế là đành đặt mua lại. Sách tới hôm qua, tôi đọc lại truyện Drive My Car và hai truyện khác mà đạo diễn có mượn một vài chi tiết đưa vào phim là Kino và Scheherazade. Đạo diễn tên gì không nhớ dựng phim này quá giỏi, từ một truyện không quá đặc sắc như Drive My Car (tôi thấy hai truyện kia còn ấn tượng hơn) mà có thể dựng nên một phim quá đỗi day dứt. Anh diễn viên chính diễn bằng mắt thật xuất sắc, nhất là ở cảnh khi cô vợ ngồi trên người anh vừa làm tình vừa kể chuyện, còn anh nằm ngửa gửi ánh nhìn vào hư vô - không hẳn là bàng quan hay sao nhãng, mà như kiểu vừa tự vấn vừa chất chứa một nỗi bất an đang được kiềm nén. Phim dài ba tiếng nhưng xem có cảm giác qua thật nhanh. 




Thứ Năm, 7 tháng 8, 2025

Tìm lại mặt người

Trích dịch từ bài Individual language and mass language của David Grossman trong tập Writing in the Dark.


Trong thế giới mà tôi đã mô tả, văn chương không có những đại diện có ảnh hưởng tại các trung tâm quyền lực, và tôi thấy khó có thể tin rằng văn chương có thể thay đổi được điều đó. Nhưng nó có thể đề xuất những cách khác để sống trong thế giới ấy. Sống với một nhịp điệu nội tại và một tiếp diễn nội tại đáp ứng nhu cầu cảm xúc và tinh thần của chúng ta cần nhiều hơn rất nhiều so với những gì các hệ thống bên ngoài áp đặt thô bạo lên chúng ta.

Khi đọc một cuốn sách hay, tôi trải nghiệm một sự sáng rõ bên trong: cảm thức về sự duy nhất của bản thân trở nên rõ ràng. Cái giọng nói đều đặn, chính xác chạm tới tôi từ bên ngoài làm sống dậy những giọng nói bên trong tôi, một số trong đó có lẽ đã im lặng cho đến khi giọng nói kia, hay cuốn sách cụ thể này, đến và đánh thức chúng. Và ngay cả khi cùng một thời điểm hàng ngàn người cùng đọc cuốn sách mà tôi đang đọc, thì mỗi người đều đơn độc đối diện với nó. Với mỗi người, cuốn sách ấy là một loại giấy quỳ hoàn toàn khác nhau.

Một cuốn sách hay — và số lượng như thế không nhiều, vì văn chương, tất nhiên, cũng chịu ảnh hưởng của những cám dỗ và rào cản từ truyền thông đại chúng — có thể cá nhân hóa và kéo người đọc đơn lẻ ra khỏi đám đông. Nó cho người đó một cơ hội để cảm nhận cách mà những nội dung tinh thần, ký ức, và những khả thể hiện sinh có thể nổi lên, trồi dậy từ bên trong anh ta, từ những nơi chốn xa lạ, và chúng là của riêng anh ta. Là trái ngọt từ chính cá tính của anh ta  mà thôi. Là kết quả của những tinh luyện thầm kín nhất. Và trong văn hóa đại chúng của đời sống thường nhật, trong sự ô nhiễm toàn diện của ý thức chúng ta, thật khó để những nội dung hồn ấy có thể trồi lên từ sâu thẳm nội tâm và trở nên sống động.

Ở trạng thái tốt nhất, văn chương có thể kết nối chúng ta với số phận của những con người xa lạ và khác biệt. Đôi khi, nó có thể tạo ra trong ta một cảm giác kinh ngạc khi nhận ra rằng ta đã thoát khỏi số phận của những người lạ ấy trong đường tơ kẽ tóc, hoặc khiến ta buồn bã vì đã không thực sự gần gũi với họ. Vì đã không thể vươn tay ra chạm tới họ. Tôi không nói rằng cảm xúc ấy lập tức thúc đẩy chúng ta hành động theo một hình thức nào đó, nhưng chắc chắn rằng nếu không có nó, thì sẽ không thể có bất kỳ hành động nào mang tính thấu cảm, dấn thân hay trách nhiệm.

Ở trạng thái tốt nhất, văn chương có thể tử tế với chúng ta: nó có thể làm dịu đi cảm giác bị xúc phạm vì sự phi nhân hoá mà ta phải chịu đựng khi sống trong những xã hội toàn cầu rộng lớn, vô danh. Sự xúc phạm khi ta bị mô tả bằng ngôn ngữ thô lỗ, bằng sáo ngữ, khuôn mẫu và định kiến. Sự xúc phạm khi ta trở thành — như Herbert Marcuse từng nói — con người một chiều.”

Văn chương cũng mang lại cho ta cảm giác rằng vẫn có cách để chống lại sự tùy tiện tàn nhẫn đã định đoạt số phận ta: ngay cả khi cuối Vụ án, Joseph K. bị chính quyền bắn “như một con chó”; ngay cả khi Antigone bị hành hình; ngay cả khi Hans Castorp cuối cùng cũng chết trong Núi thần — thì ta, kẻ đã đồng hành cùng họ qua những cuộc đấu tranh, vẫn khám phá ra sức mạnh của cá nhân trong việc giữ gìn phẩm giá làm người ngay cả trong những hoàn cảnh khắc nghiệt nhất. Đọc văn chương là hành vi khôi phục phẩm giá của chúng ta, khôi phục khuôn mặt nguyên sơ của ta, những khuôn mặt người, những khuôn mặt từng hiện hữu trước khi bị xóa nhòa giữa đám đông. Trước khi chúng ta bị trưng thu, bị quốc hữu hóa, và bị bán sỉ cho kẻ trả giá thấp nhất.

 

 


Thứ Ba, 5 tháng 8, 2025

Hư cấu - Một đối thoại

Dịch từ bài Fiction  - A Dialogue trong tập More Matter của John Updike.



BỐI CẢNH: Một think tank (chả hiểu think tank ở đây là gì, tạm để nguyên) vô trùng giữa sa mạc California. Những bức tường trắng cong được chia thành các hình chữ nhật bởi những hàng đinh tán hầu như không thề nhìn thấy, treo các thiết bị máy tính với dây cáp và phụ kiện; những bản in  tác phẩm của Klee, Mondrian và Escher được đóng khung; cùng những bó hoa sa mạc tí hon, mới hái, sáng lấp lánh cắm trong các bình mạ vàng gắn trên giá treo tường. Tham gia cuộc trò chuyện, một sự kiện do một nhánh đặc biệt của NASA tổ chức nhằm giải thích nền văn minh Mỹ cho sinh vật ngoài hành tinh, là Farquhar, một cây bút tạp văn ít tên tuổi từ  Indiana tới, và Chokchög, một sứ giả đến từ Sao Hỏa. Chokchög có màu nâu đỏ, bề mặt ánh kim, hình dáng giống kiến, duy chỉ nhiều chân hơn. Hệ thần kinh đã được phát triển qua hàng thiên niên kỷ để điều phối số lượng chân phong phú ấy (mỗi chân có nhiều khớp gối xoay linh hoạt) cùng ba chiếc ăng ten linh hoạt mọc ra từ đầu sinh vật ngoài hành tinh này, theo các nhà tiến hóa học, là lời giải cho trí tuệ phi thường của nó; ở loài Homo sapiens, sự phát triển tương ứng có thể được truy về ngón cái đối kháng, tầm nhìn hai mắt và tư thế đứng thẳng.

Farquhar ngồi trên một chiếc ghế hình cầu bọc da nhân tạo Naugahyde; Chokchög thì ở trên sàn, trừ khi thảo luận trở nên đặc biệt sôi nổi. Cả hai đều đeo micro và tai nghe truyền tải bản dịch tức thời. Vì sinh vật Sao Hỏa không có tai, tai nghe của nó được cắm vào một ổ cắm điện bốn chấu khoan trực tiếp vào hộp sọ, nơi không có dây thần kinh.

CHOKCHÖQ: Hãy giải thích lại cho tôi, hỡi anh bạn Trái Đất hiếu khách, về văn chương hư cấu. Có phải nó là chuyện về những người chưa từng tồn tại nhưng lại thường rất giống với những người mà tác giả từng biết rõ?

FARQUHAR: Không hẳn vậy, bạn ngoài hành tinh của tôi. Nói thế này đi: Nhân vật hư cấu là sự khách thể hóa những ấn tượng có thực về cuộc sống do tác giả tiếp nhận. Bởi vì họ không có thực, tác giả tự do xâm phạm sự riêng tư của họ và thuật lại cho ta những suy nghĩ, cảm giác của họ, bất kể thoáng qua hay vụn vặt thế nào. Do vậy ông ta – hay bà ta, vì giống cái của loài chúng tôi có khả năng sản xuất văn chương hư cấu một cách xuất sắc – cung cấp cho độc giả hình ảnh của cuộc sống gần gũi và sống động hơn bất kỳ thể loại nào bị ràng buộc bởi thực tại, chẳng hạn lịch sử, xã hội học, hay ngay cả tự truyện, có thể mang tới. Văn chương hư cấu còn thật hơn cả thật, ta có thể nói vậy.

CHOKCHÖQ: Ta có thể nói vậy nếu ta chấp nhận lượng hóa thứ không thể định lượng.

FARQUHAR: Xin lỗi, chúng ta hơi phải phụ thuộc vào máy dịch ở đây. Hãy xem một vài ví dụ. (Các kỹ thuật viên của think tank vận bộ áo liền quần màu xám dịch chuyển các sợi dây cáp và nạp vào hệ thần kinh của Chokchög  văn bản số hóa cuốn Ulysses của James Joyce và Chiến tranh và Hòa bình của Bá tước Leo Tolstoy. Tín hiệu truyền đi, kèm theo tiếng tích nhẹ, mất mười bảy giây. Mí mắt của Chokchög, dịch chuyển theo chiều ngang, chớp hai lần.)

CHOKCHÖQ: Napoleon này là người thật à? Dublin này là thành phố thật à?

FARQUHAR: Đúng vậy, nhưng cả Napoleon lẫn Dublin đã được tái tạo lại; vấn đề không phải là thông tin. Văn chương hư cấu hướng đến các nơ-ron phức tạp hơn các nơ-ron thu thập dữ liệu. Văn chương hư cấu nhằm tạo ra ảo giác về trải nghiệm, nhờ vậy ta biết sống là như thế nào.

CHOKCHÖQ: Lạ nhỉ. Trên Sao Hỏa, chúng tôi biết chắc rằng mình đang sống ngay khi các điều dưỡng mớm cho chúng tôi  món cháo đã được nữ hoàng nhai qua,  khi còn đang ở giai đoạn ấu trùng.

FARQUHAR: Chính xác.  Văn chương hư cấu là trải nghiệm đã được ai đó nhai qua rồi. Tiểu thuyết là trải nghiệm đã được ai đó nhai lại rồi. Đây, hãy thử những món này để có ý niệm về kích cỡ. ( Middlemarch Bà Bovary của Flaubert được nạp. Mười hai giây tiếng tích nhẹ như lông vũ).

CHOKCHÖQ:  Tôi hiểu rồi. Văn chương hư cấu viết về những khó khăn của việc làm phụ nữ. Ở Sao Hỏa, chỉ các nữ hoàng của chúng tôi mới được phép có cái tôi. Chúng tôi thấy rằng nhiều hơn một nữ hoàng cho mỗi một triệu công nhân và điều dưỡng làm mất cân bằng xã hội.

FARQUHAR: Khoan đã, anh bạn -  văn chương hư cấu cũng có thể viết về đàn ông mà. Để xem – (Robinson Crusoe, Đi tìm thời gian đã mất Vụ án được chuyển qua đầu tiếp nhận của người Sao Hỏa. Tròn bốn mươi giây tích tắc, trong thời gian đó cậu ta nhấp nháy nhanh hơn và cái ăng ten nhiều khúc của cậu ra thò ra để ngắt một bó hoa sa mạc trên tường.)

CHOKCHÖQ: Tôi hiểu rồi. Thật lắm lo âu. Sự bất ổn của đàn ông trong vũ trụ là đề tài ở đây.

FARQUHAR: Tôi ghét phải tỏ ra tranh cãi, anh bạn biết đấy, nhưng thực ra văn chương hư cấu không chỉ có một đề tài đâu – nó nói về tất cả và không gì cả cùng một lúc. Nó là lời khẩn cầu với linh hồn toàn thể. Nó hiện sinh, nó mang tính bản thể, nó ngẫu nhiên, nó siêu việt. Nó trải rộng như cuộc đời, vừa cao lại vừa sâu, vừa nông cạn vừa đắng cay  thậm chí lại còn tăm tối nữa. Đây, hãy thay đổi nhịp độ một chút. Người Pháp gọi những món này là nouvelles. (Toàn bộ truyện ngắn của Anton Chekhov, Katherine Mansfield, Guy de Maupassant, Machado de Assis và Ernest Hemingway được tải trong hai mươ mốt giây. Bằng một cử chỉ  bất khả ngăn chặn đầy bất ngờ, Chokchög nhét những bông hoa sa mạc vào mặt và bắt đầu nhai. Cái hàm của cậu ta, cũng như mí mắt, di chuyển theo chiều ngang. Mũi cậu ta cứng và có hình lưỡi cày, từ việc đào các thành phố dưới lòng đất.)

CHOKCHÖQ: Thật nhiều tính người. Nhân loại dường như là một giống loài trong vũ trụ không bao giờ chán việc ngắm mình trong gương.  Một tấm gương khá mềm, trong trường hợp văn chương hư cấu. Nó thể hiện rất ít quá trình tiêu hóa, các quy luật vật lý, và hoạt động lao động sản xuất của giai cấp vô sản, nhưng lại chú tâm bất thường đến chuyện trăng gió và tán gẫu. (Ăng ten của cậu ta  đang định vị một bó hoa khác trên tường.)

FARQUHAR: Hượm đã, anh bạn. Yêu đương và chuyện gẫu thì có gì sai? Khiến cho thế giới xoay tròn, phải không?  Cái điều về văn chương hư cấu mà cậu không hiểu đó là, nó ngon lành.

CHOKCHÖQ: (vừa xơi xong bó hoa thứ hai; những đốm hồng và xanh lam của mô cây còn dính vào hàm dưới sáng bóng ánh kim): Ngon hơn, có lẽ, đối với người viết hơn là người đọc. Tôi được biết là cứ mỗi một người đọc trên hành tinh này lại có tới ba người viết tiềm năng.

FARQUHAR: Tóm được cậu rồi, anh bạn siêu âm lịch Ferdinand của tôi. Những lý thuyết phê bình mới nhất của chúng tôi cho thấy rằng sự phân biệt giữa người viết và người đọc hoàn toàn là ảo tưởng. Người viết chính là người đọc, đọc những gì mình viết khi anh ta viết, quan sát văn bản tự tạo ra, và người đọc trong khi đọc lại tạo ra câu chuyện ở những cảnh trí mình tưởng tượng ra, những gương mặt mình nhìn thấy: đó là câu chuyện cuộc đời anh ta! Không có gì giống như văn chương hư cấu về sự xuyên giao vi tế; nó mở rộng những cảm thông và cho ta sống nhiều cuộc đời hơn cuộc đời của chính mình. Đó là cuộc sống dưới kính hiển vi, từng lát một, nhưng cũng là cuộc sống trên thiên giới, giữa những vì sao. Này! (trở nên phấn khích) – nếu các cậu cũng có chút văn chương hư cấu trên Sao Hỏa thì các cậu đã ra khỏi các đường hầm nhếch nhác, lắm luật lệ từ lâu rồi, tới chỗ để chúng tôi có thể nhìn thấy các cậu, và các cậu đã không làm nổ tung cái máy dò Magellan năm nọ. Nói thật là các cậu sẽ không độc ác, bài ngoại và hoang tưởng đến vậy.

CHOKCHÖQ: (dùng hai chiếc xúc tu linh hoạt ôm chặt đầu Farquhar và há rộng cái miệng màu nâu đỏ của mình đến mức đáng sợ): Ngươi đã xúc phạm lối sống của người Sao Hỏa chúng ta! (Các kỹ thuật viên cảnh giác lập tức phóng ra các luồng điện cực mạnh, kéo dài sáu giây , qua cáp máy tính và làm sinh vật ngoài hành tinh choáng váng. Chokchög ngã ngửa ra, những chi thể yếu ớt vẫy vẫy, phát ra những âm thanh khò khè mơ hồ mà máy dịch thuật truyền tải thành:)  Ồ! Thứ văn hư cấu đó thật sự choáng thật đấy! Nhưng ta vẫn không chắc người Trái Đất các ngươi có thể xuất khẩu được nó.
 
 


Thứ Sáu, 1 tháng 8, 2025

Top 10 của John Updike

Tôi hầu như không đọc nổi tiểu thuyết của John Updike, tất nhiên với những cuốn tôi có dịp chạm tới. Tôi vui vẻ move on qua các tác giả chứ không cáu bẳn, phàn nàn gì. Chuyện tôi không đọc được ông là do tôi chứ không phải do ông. Ông hẳn nhiên là một tên tuổi lớn.

Nhưng các bài tiểu luận, điểm sách, tản văn, viết ngắn của ông thì tôi thích. Chúng hài hước và uyên bác. Tôi có cuốn More Matter của ông 900 trang, gồm vài trăm bài viết ngắn, về mọi thứ trên đời. Lâu lâu tôi đọc một chút, lâu lâu tôi thuổng một miếng.

Sau đây  là danh sách 10 tác phẩm văn học vĩ đại nhất thiên niên kỷ thứ hai, theo John Updike. 

1/ Summa Theologica của Thomas Aquinas, thế kỷ XIII;

2/ The Divine Commedy của Dante Alighieri, thế kỷ XIV, bản dịch tiếng Việt là Thần khúc, không rõ đã dịch hết chưa;

3/ Don Quixote của Miguel de Cervantes Saavedra, thế kỷ XVII, đã có ít nhất hai bản dịch tiếng Việt;

4/ Comedies, Histories, and Tragedies của William Shakespeare, thế kỷ XVII, dịch cũng nhiều nhưng chắc chưa hết;

5/ Candide của Voltaire, thế kỷ XVIII, đã có bản dịch;

6/ The History of the Decline and Fall of the Roman Empire, thế kỷ XVIII, hình như đã dịch vài tập. Không rõ tại sao Updike lại coi cuốn này là tác phẩm văn học;

7/ Chiến tranh và hòa bình của Leo Tolstoy, thế kỷ XIX, đã  có hai bản dịch;

8/ Lũ người quỷ ám của Fyodor Dostoevsky, thế kỷ XIX, đã dịch;

9/ Đi tìm thời gian đã mất của  Marcel Proust, thế kỷ XX, đã dịch được hai tập;

10/ Ulysses của James Joyce, thế kỷ XX, chưa dịch.

Ông cũng tự nhận là danh sách này Eurocentric.