Thứ Tư, 15 tháng 10, 2025

Những ngày nắng đẹp

Sau bốn năm liên tục đi Hà Giang, thì kể từ sau dịch Covid năm 2021, tôi chưa có dịp quay lại vùng đất này - vùng đất duy nhất ở Việt Nam mà tôi đã đến nhiều lần nhưng không chán. Lòng mê Hà Giang của tôi chắc đã lan sang hai bạn nhỏ (thật ra bây giờ không còn nhỏ lắm nữa). Hôm nọ làm cuộc phỏng vấn bỏ túi với hai bạn, nơi nào ở Việt Nam hai đứa muốn quay lại nhất, thật bất ngờ khi cả hai đều chọn Hà Giang. 

Hà Giang thật ra có Đông Hà Giang và Tây Hà Giang. Đông Hà Giang là Quản Bạ, Yên Minh, Phố Cáo, Du Già, Đồng Văn, Mèo Vạc, Lũng Cú - khách Tây hay gọi là Hà Giang Loop. Hà Giang Loop có đèo Mã Pí Lèng trứ danh, có dinh vua Mèo, nhà Chuyện của Pao (nơi quay bộ phim này), cột cờ Lũng Cú, sông Nho Quế, hẻm vực Tu Sản. Hà Giang Loop nổi tiếng đến nỗi hầu như khách Tây nào đi bụi ở Việt Nam đều biết. Hôm cưỡi ngựa trên thảo nguyên Kyrgystan, tình cờ gặp một cặp đôi người Pháp và Ý, hóa ra cả hai đều từng du lịch Việt Nam và đã đi Hà Giang Loop. Tây Hà Giang là Hoàng Su Phì nổi tiếng về ruộng bậc thang. Đường vào Hoàng Su Phì gần như là độc đạo, đi vào Hoàng Su Phì chỉ có thể đi tiếp Xín Mần rồi quay đầu ra, chứ không kết nối với các điểm đến khác của Hà Giang. Dường như từ Xín Mần có thể sang được Lào Cai, nhưng đường đi có thuận lợi không thì tôi không rõ. 

Năm nay, dôi ra mấy ngày nghỉ, tôi muốn đi Hoàng Su Phì và chỉ ở lại Hoàng Su Phì mà thôi. Tôi muốn xem Hoàng Su Phì khác phần còn lại của Hà Giang như thế nào, nhân tiện, leo Tây Côn Lĩnh và và đỉnh núi có tên rất thơ mộng là Chiêu Lầu Thi, chứ còn ruộng bậc thang thì tôi đã no mắt với Mù Căng Chải, Tà Xùa, Ngọc Chiến nên cũng không thật sự quan tâm lúa đã gặt chưa. Tôi chỉ quan tâm tới thời tiết. 

Trước khi đi 10 ngày, bão Matmo đổ vào miền Bắc, gây ngập lụt lớn ở thành phố Hà Giang. Đợi vài ngày khi trời đã êm bão đã tạnh mưa đã dứt lũ đã rút, tôi gọi nhà nghỉ ở Hoàng Su Phì hỏi thăm, họ khuyên tôi không đi vì bão 11 hay Bualoi sắp vào. Kỳ nghỉ thì có thể dời, nhưng nếu dời thì mất tiền vé máy bay, nên tôi cứ ngần ngừ xem thế nào. Mấy hôm ấy, tôi gần như thành chuyên gia thời tiết, theo dõi sát sao tình hình mưa gió, từ các chuyên trang thời tiết, các KOL thời tiết, các trang nhóm du lịch, tới việc tải app Windy là app chuyên sâu thời tiết dành cho các hoạt động thể thao ngoài trời. Kiểm tra chéo nhiều nguồn thông tin, tôi chắc hơn 90% mưa sẽ tạnh hai ngày trước ngày bay, và những ngày lưu trú ở Hoàng Su Phì sẽ nắng, nên tới giờ chót tôi quyết định vẫn lên đường. Vấn đề còn lại là sau mưa thì đường có thể sạt lở - đặc sản của vùng núi Đông và Tây Bắc, nhưng nhớ lại năm 2018, sau bão Sơn Tinh tôi còn đích thân đánh lái lên Mèo Vạc, rồi từ Mèo Vạc vần vò mấy trăm cây số đường đèo sang Cao Bằng, lần này đi xe khách sợ gì, nên cứ đi thôi.

Các bạn tôi nói ngày trước muốn đi Hoàng Su Phì thì phải đi xe tuyến Hà Giang, xuống xe ở Bắc Quang và bắt xe ôm vào. Bây giờ, tìm trên mạng thì đã có vài nhà xe đi thẳng Hoàng Su Phì. Tôi tìm ra nhà xe Vũ Hán, nhà xe này còn có cả app hẳn hoi, rất chuyên nghiệp, nên đặt vé xe qua app. Xe khởi hành từ bến xe Mỹ Đình, rất buồn cười trên xe chỉ có hai chúng tôi là khách đặt qua app và đi suốt tuyến, ngoài ra chỉ có một khách khác sẽ xuống xe ở Tuyên Quang. Anh tài xế vừa lái xe, vừa thấy ai đứng ven đường là lại rao, đi Hà Giang, Hoàng Su Phì không. Cứ như thế, trừ mấy chục cao số đường cao tốc, còn thì ai vẫy anh cũng dừng xe, ai không vẫy anh cũng ghé lại hỏi thăm. Quả nhiên là một kinh nghiệm khác lạ so với xe khách trong Nam, vốn từ lâu chỉ đón trả khách tại những điểm cố định.

Từ ngã ba Tân Quang, xe theo DT 177 qua đèo Cổng Trời vào Hoàng Su Phì. Đường tráng nhựa đẹp đẽ, trời khô ráo nên không vấn đề gì, tuy vẫn còn dấu vết rất rõ những đoạn sạt lở vừa mới được dọn xong. Ngồi trên xe, tôi còn vào các group du lịch để cập nhật tình hình đường sá cho chúng sinh. Tôi làm vậy bởi tôi thương chúng sinh, nhiều người vào group chỉ để hỏi thăm đường sá, nắng mưa thế nào mà bị chửi té tát vuốt mặt không kịp, những là chúng mày không có não à, đang bão lũ sạt lở không ở nhà còn đi đâu, những là chúng mày định làm khổ bộ đội, cứu hộ à. Ơ hay, người ta chỉ hỏi thăm thôi, gì mà toxic thế. Mà thật ra toxic là trạng thái mặc định trên mạng xã hội, ở đó, những công dân nặc danh chính tả chưa thông từ vựng kém cỏi mặc nhiên cho mình quyền chửi mắng người khác vô tội vạ. Tiên sư chúng nó.

Nơi chúng tôi nghỉ là một khu resort trong thôn Tả Sử Choóng nằm trên những ngọn đồi cao vút. Ở đây, mỗi bungalow nằm biệt lập một góc, cách nhau vài trăm mét đường dốc rất gắt, nhưng bungalow nào cũng có thể nhìn xuống những thửa ruộng bậc thang đang bắt đầu vào mùa gặt hoặc nhìn sang những ngọn đồi khác. Nhà ăn cũng nằm trên đồi nhưng ở vị trí thấp hơn nhiều so với các bungalow, nên leo xuống nhà ăn rồi leo lên phòng nghỉ đã là bài tập rất tốt cho dân chạy trail rồi. Tả Sử Choóng cách những điểm đến có tiếng khác của Hoàng Su  Phì như Thông Nguyên, Bản Luốc, Bản Phùng...vài chục cây số đường núi, nên sau khi hỏi thăm, chúng tôi quyết định chỉ đi leo núi, trekking, đi bộ khám phá quanh bản chứ không sang các bản khác. Chúng tôi muốn tận hưởng không khí nơi đây, sự yên tĩnh không có được ở đâu khác, thay vì phải lao lên xe, phi ra đường, cho dẫu dọc những con đường núi quang cảnh cũng đẹp và vắng, chứ không nhếch nhác ồn ào như dưới xuôi. 

Chiều ngày đầu tiên, chúng tôi đi lang thang trong bản mà không ai theo cùng. Đường trong bản vắng hoe, mấy mươi mét mới có một nếp nhà, thảng hoặc mới có chiếc xe máy chạy ngang. Nghênh ngang ngắm cảnh, chụp hình một đỗi, chúng tôi ghé một tiệm tạp hóa mua một chai nước và ba bịch bánh to đùng, tất cả hết 26.000 đồng. Bác chủ tiệm mời chúng tôi ngồi uống trà nói chuyện. Bác có hai cậu con trai, đã lớn hết và đi làm xa. Bác nói chúng nó xuống xuôi, đi làm công nhân, tháng được 10 triệu đồng, chứ ở đây thì biết làm gì. Làm lúa cả năm được hai tấn thóc, chỉ được 14 triệu đồng thôi. 

Lúc nào tôi cũng mang theo một hai cuốn sách trong những chuyến đi. Kể cả có đọc được hay không, có sách bên mình khiến tôi yên tâm, không sợ phí những khoảng thời gian trống. Chuyến này, do đã sẵn dự định ở yên một chỗ suốt bốn ngày, nên tôi mang theo những năm cuốn sách. Chắc chắn không đọc hết đâu, nhưng nếu lỡ chán cuốn này, có cuốn khác thay vào ngay. Cuốn đầu tiên tôi giở ra trong những cuốn mang theo là Thành phố và những bức tường bất định của Haruki Murakami, mà một số con trời cứ suồng sã gọi là Haruki. 

Nhiều năm rồi tôi mới đọc một tiểu thuyết của Murakami, tuy thi thoảng vẫn đọc truyện ngắn của ông, gần nhất là các truyện trong tập Những người đàn ông không có đàn bà, đọc lại nhân xem xong Drive my car. Trước cuốn này là cuốn gì? Hình như cuốn gì không màu và những năm tháng hành hương, cuốn ấy thì chán; rồi đến Giết chỉ huy đội kỵ sĩ cũng chán nốt, tôi bỏ dở sau đâu đó trăm trang. Vì sao tôi lại quyết định đọc cuốn này? Vì ngay trang đầu tiên đã gặp những câu văn dịu dàng, u hoài. Nói gì thì nói, bất chấp một số khiếm khuyết, Murakami vẫn là một tay kể chuyện đại tài. Tôi nhớ mình từng say mê Biên niên ký chim vặn dây cót hay Kafka bên bờ biển như thế nào. Nhưng hai cuốn ấy tất nhiên không có giọng văn dịu dàng như thế này, cả Rừng Nauy hay Phía Nam biên giới, phía Tây mặt trời cũng không có. Tôi đọc Thành phố và những bức tường bất định và như thấy có mình trong đó. Tôi là chàng trai mười bảy tuổi lang thang cùng cô bạn mười sáu tuổi dọc bờ sông, tôi thấy mình như ngửi được cả mùi cỏ gà và hoa dại. Tôi cũng là gã đàn ông trung niên nhiều năm sau lội dọc sông, càng ngược dòng thì càng trẻ đi, da căng hồng hào, thớ thịt săn chắc, như một khát vọng quay về tuổi trẻ đã xa. Tôi sống trong cuốn tiểu thuyết. Có một buổi tối, sau bữa ăn rất tươi ngon mà Vân và Minh, hai bạn  người H'mông phục vụ ở resort đã chuẩn bị cho chúng tôi, và sau một ca rượu ngô nửa lít, chúng tôi về phòng và thay phiên đọc cho nhau nghe những trang trong cuốn sách. Chúng tôi khen nhau là đọc hay lắm, nhưng chẳng nhớ mình đọc gì, và chỉ ít phút là lăn ra ngáy khò khò. 

Đôi khi tôi thấy mình trong sách, đôi khi tôi lại thấy sách trong tôi. Ấy là ngày hôm sau khi leo Chiêu Lầu Thi, giữa những vạt sim tím và những con suối róc rách, trong khi hổn hển leo lên những con dốc, thì tôi thấy cảnh trong cuốn Gối đầu lên cỏ của của Soseki hiện về. Cái anh chàng họa sĩ leo núi trong Gối đầu lên cỏ chính là tôi phút giây này chăng? Đọc nhiều tiểu thuyết để làm gì? Chẳng để làm gì cả. Chỉ là để đôi lúc ta sống ở đây mà không ở đây, hoặc sống hẳn ở một thế giới khác, hoặc nhìn thấy một cảnh quan này lại nhớ đến vài trang trong cuốn nào đó. Cuộc sống thế mà đẹp. Tất nhiên tôi hoàn toàn ý thức cái đẹp này có thể hoàn toàn xa xỉ đối với nhiều người. 

Những ngày ở Hoàng Su Phì, tôi được làm những việc mình thích nhất: sống trong một ngôi nhà trên núi cao yên tĩnh, đi trekking và đọc sách. Nếu được, tôi hoàn toàn có thể ở đây một tháng hay ba tháng, đọc sách, đi bộ, ngắm núi rừng và không cần giao tiếp với thế giới bên ngoài. Tôi nhớ tới Núi thần của Thomas Mann. Đi chuyến này về, tôi nhất định phải bắt tay vào đọc cho xong cuốn này. 

Ngày cuối, tôi lại hẹn xe Vũ Hán đến đón. Gần đến giờ thì bác tài nhắn xe hỏng, không chạy, nên chúng tôi đành nhờ Sáng và Minh đưa ra ngã ba Tân Quang để bắt xe khác về Nội Bài. Chạy đâu được hơn hai mươi cây số thì nghe tiếng bùm: cái lốp xe cũ mèm của chiếc Vitara cũ mèm lại hay chạy đường xấu đã nổ. Tôi nhảy xuống xe mà băn khoăn, không biết khi nào hai cậu này mới thay xong lốp xe, và ra tới Tân Quang thì có đón được xe nào kịp giờ bay hay không. Thời may, một chiếc xe con trờ tới hỏi thăm, rồi cho chúng tôi đi nhờ xe ra ngã ba Tân Quang. Tuyên, tên cậu tài xế xe con, đang trên đường về Hàm Yên. Tuyên nhiệt tình gọi cho một nhà xe, xe ấy đang trên đường về Hà Nội nhưng đã đi qua khỏi ngã ba Tân Quang rồi, hẹn sẽ chờ bọn tôi. Tuyên lái xe con đuổi theo, hết cả huyện Bắc Quang, sau năm bảy cuộc gọi mà không thấy xe khách kia đâu. Ắt đợi bọn tôi lâu quá nên họ đi rồi. Lúc ấy, tôi định nhờ Tuyên thả dọc đường, chỗ nào đông đúc để chúng tôi bắt xe khách hoặc cùng lắm taxi về Nội Bài. Qua khỏi Hàm Yên trời đã hơi tối, Tuyên bảo thôi để em đưa anh chị về tới Nội Bài luôn. Thế là một người không quen đã chở chúng tôi thẳng tới Nội Bài như Uber, chúng tôi nằn nì mãi Tuyên mới nhận một ít tiền xăng, rồi sau đó Tuyên sẽ lái 3 tiếng nữa về thẳng nhà ở tận Lạng Sơn. Chúng tôi bay về Sài Gòn, tới nhà đã 2 giờ sáng. 7 rưỡi sáng, tôi vào văn phòng, lại nhập vào guồng quay bất tận, để lại sau lưng những ngày nắng đẹp. Chuyến đi này, chỉ tiếc đường lên Tây Côn Lĩnh vẫn còn sạt lở nhiều không leo được, đành hẹn một lần khác trở lại Hoàng Su Phì. 



Thứ Ba, 23 tháng 9, 2025

Chia động từ

Có thể nào viết về sự thấu cảm bằng một lối viết giàu lý tính được không? Được. Go, Went, Gone của Jenny Erpenbeck là một bằng chứng. Đây là cuốn thứ hai tôi đọc của bà, sau Kairos. Tôi cũng đang đọc Hạc trắng xòe cánh của Yoko Tawada, nhà văn Nhật sáng tác bằng cả tiếng Nhật lẫn tiếng Đức.

Vì sao tôi chọn đọc Jenny Erpenbeck, Yoko Tawada, Yoko Ogawa hay Rachel Cusk mà không phải là những người như Jane Austen, Virginia Woolf? Thực ra họ đâu có loại trừ nhau? Có những lúc ta trở về cổ điển, với những giá trị đã được hình thành, xác nhận. Nhưng có những lúc ta cần sống ở thì hiện tại, hít thở không khí của thì hiện tại. Austen, Woolf đâu có viết về vấn đề nhập cư, hay ô nhiễm môi trường, lão hóa dân số. Muốn đọc những vấn đề đương đại, nhất định phải đọc những nhà văn ở thời chúng ta rồi.

Go, Went, Gone đề cập một trong những vấn đề thách thức của xã hội châu Âu hiện đại: vấn đề tỵ nạn . Một mặt, sau tất cả những bài giảng về nhân văn, nhân đạo, châu Âu liệu có thể nào làm ngơ, bỏ mặc người tỵ nạn - những người đang chạy trốn đói nghèo, chiến tranh, bạo lực; một mặt, cho họ một chỗ ở thì nước sở tại sẽ gánh chịu những gánh nặng nào về mặt kinh tế, những rạn nứt và bất ổn nào về mặt xã hội? Đó là một tình thế tiến thoái lưỡng nan. 

Jenny Erpenbeck, tất nhiên không phải chính trị gia, không phải nhà làm chính sách, không có tham vọng giải quyết vấn đề hóc búa này trong tiểu thuyết của mình. Nhưng với tư cách là một nhà văn, bà cho thấy một con người châu Âu cụ thể, trong tác phẩm này là Richard, một giáo sư Hy La về hưu, có thể gần gũi và cảm thông với những người châu Phi tỵ nạn như thế nào. Richard đã giúp rất nhiều cho những người châu Phi kém may mắn đó, dành cho họ thật nhiều thời gian. Có thời điểm, có thể một trong những người được ông giúp đã phản bội sự tốt bụng của ông, nhưng ông không quá bận tâm về việc ấy. Lòng tốt của ông dành cho những con người xa lạ là vô điều kiện, đến mức ta phải đặt câu hỏi: vì sao lại tốt đến như thế được? 

Nhưng dẫu ông và bạn bè mình có thể là những người tốt, họ không thể nào giải quyết được câu chuyện nhập cư cho tới nơi tới chốn. Người giải quyết phải là chính quyền, là chính sách, luật pháp. Và những thể chế ấy, tức là nước Đức, đặt ra vô số rào cản để những người châu Phi kém may mắn kia có thể nhập cư một cách hợp pháp. Có lẽ đó là câu trả lời chính thức của châu Âu?

Bình thường, khi đọc phải những câu văn thừa thãi cảm xúc, tôi hay gào lên làm ơn tiết chế lại. Đọc Jenny Erpenbeck, tôi rơi vào thái cực ngược lại. Cách viết quá tiết chế của bà khiến tôi bức xúc! Làm ơn thêm một chút tình cảm vào, làm ơn đãi bôi một chút, viết gì mà khô như ngói thế này, đầu óc tôi cứ kêu gào như thế. Tuy văn Erpenbeck có thể kém hấp dẫn, nhưng dù sao vẫn dễ chịu. Kể cả vậy, sau Kairos và cuốn này, thì tôi nghĩ đọc bà như thế là đủ rồi.

Thứ Ba, 16 tháng 9, 2025

Into Thin Air

Bên Rubik Books gửi tặng tôi cuốn Into Thin Air vừa phát hành. Không nhầm thì đây là bản dịch thứ hai của cuốn này. Trước kia tôi sẽ không quan tâm lắm đến đề tài leo núi, nhưng giờ thì khác. Tôi nhớ lần leo đỉnh Mentok Kangri ở Ladakh bất thành năm 2023. Chuyến đi đó được kể lại ở đâyNăm đó chỉ vừa bay tới Leh ở độ cao 3500m thì vài tiếng đồng hồ sau tôi đã cho chó ăn chè liên tục và đầu đau như búa bổ. Uống thuốc vào giúp tôi hồi phục chút ít. Nhưng sau đó khi trekking từ độ cao 4500m đến base camp ở độ cao 5200m tôi đã đi như zombie, chỉ bằng 1/10 sức lực bình thường, và đấy là trong điều kiện thời tiết tốt, nắng ấm, gió nhẹ, hoàn toàn chưa phải đối đầu với băng, tuyết, chưa phải đụng tới kỹ năng leo núi tuyết.

Vậy mới biết leo núi thực thụ kinh khủng như thế nào. Một so sánh dễ hình dung, như Jon Krakauer đã chỉ ra trong cuốn sách này: leo đỉnh Everest nghĩa là leo tới độ cao ngang ngửa một máy bay dân sự. Ở độ cao đó, mức oxy chỉ bằng 1/3 so với ở mực nước biển. Người leo núi dễ dàng gặp các chứng phù não, phù phổi, ảo giác, ấy là chưa kể muôn vàn hiểm nguy từ cái lạnh, tuyết lở, băng rơi, bão tuyết. Kể cả là một nhà leo núi lão luyện, không có gì đảm bảo 100% khi leo những đỉnh núi cao sẽ trở về. Ở độ cao 8000m, không ai biết được những gì có thể xảy ra. Ở độ cao 8000m, nếu chinh phục thành công và trở về, cũng khó thuật lại chính xác những gì đã xảy ra. Và câu nói ám ảnh tôi nhất khi đọc cuốn sách này: ở độ cao 8000m, không thể nói tới chuyện đạo đức - đây là câu của một nhà leo núi người Nhật giải thích cho việc nhìn thấy một nhà leo núi khác gặp nguy hiểm nhưng không cứu, vì không thể cứu, vì không có sức lực để cứu, vì nếu cứu có nghĩa là bản thân có thể chết.
Muôn vàn hiểm nguy như thế khi chinh phục những đỉnh núi cao nhưng vì sao người ta vẫn leo núi? "Bởi vì ngọn núi ở đó." Nếu chỉ có thể ngồi nhà chăn ấm nệm êm lướt TikTok thì hãy bớt mở miệng chỉ trích những người có tinh thần phiêu lưu mạo hiểm. Văn minh nhân loại đã được thúc đẩy biết bao bởi những người có tinh thần phiêu lưu và ai cũng biết người Việt có cống hiến như thế nào cho văn minh nhân loại.
Into thin air là hồi ký của của nhà báo, nhà leo núi người Mỹ Jon Krakauer về thảm hoạ xảy ra trong cuộc chinh phục Everest năm 1996 cướp đi sinh mạng của 12 nhà leo núi, trong đó có những nhà leo núi kỳ cựu. Bản dịch mới do Rubik Books thực hiện.

Thứ Hai, 18 tháng 8, 2025

When the Night is Over

Alice Munro có một truyện ngắn tên là Gấu trèo về qua núi. Truyện này nằm trong tập Ghét, thân, thương, yêu, cưới được dịch và in ở Việt Nam cách đây gần 10 năm rồi, hồi bà mới đoạt giải Nobel. Mặc dù đã đọc vài tập khác của bà và ca ngợi bà hết lời, tôi mới chỉ đọc tập này gần đây thôi, chính xác là sau khi đọc một cuốn gì đó quá dày, tôi muốn thoát ra, thay đổi không khí đọc cái gì đó ngăn ngắn, tôi nghĩ truyện của Munro sẽ phù hợp. Điều kỳ lạ là tôi không thấy Munro thấm thía như trước nữa. Có thể không phải tập này kém hơn so với các tập kia - nó vẫn được coi là một tập truyện tiêu biểu của bà - có thể chỉ là do tôi khác đi. Nói ngay tôi không bị ảnh hưởng bởi scandal liên quan tới vụ bà đối xử với con gái mình. Đó là một cách ứng xử không chấp nhận được, nhưng tôi luôn tách bạch văn với người. Tập này, tôi chỉ đọc được bốn, năm truyện là thấy đủ và dừng lại; trong số đó tôi chỉ thích truyện được lấy làm tựa cho tập Ghét, thân, thương, yêu, cướiGấu trèo về qua núi. Nhưng thích là thích khi đọc, là thích  cái ấn tượng hai truyện ấy mang đến cho tôi lúc đó, chứ sau thì cũng không nhớ nữa. Nói đúng ra thì tôi nhớ một chút về cái mối tình oái oăm và trò tinh nghịch tai quái của hai cô bé trong Ghét, thân, thương, yêu, cưới, nhưng Gấu trèo về qua núi viết về cái gì thì tôi hoàn toàn không nhớ cho đến khi mở cửa sổ trên máy tính ra và viết những dòng này. Tất nhiên khi bắt tay gõ thì chỉ cần vài cái nhấp chuột đơn giản tôi đã được "nhắc" lại nội dung truyện, biết rằng Trần Ngọc Hiếu đã đăng một bản dịch truyện này trên blog của bạn ấy. Chỉ mong sau này tôi không bị Alzheimer. 

***

Tôi vẫn còn nợ các bạn tôi một lời giải thích về tư duy tiểu thuyết là gì. Số là trong một chuyến đi gần đây, chủ đề tiểu thuyết được đưa ra bàn thảo, và tôi đã trót đưa ra là lời nhận xét là nhà văn X đó có tư duy tiểu thuyết. Gần như vừa nói xong là tôi biết sẽ bị vặn vẹo ngay tư duy tiểu thuyết là gì. Quả thưc như thế, các ông bạn tôi không buông tha cho tôi. Điều bí mật là mặc dù đã đọc nếu không đến số nghìn, thì cũng đã hàng trăm tiểu thuyết rồi, tôi có biết tư duy tiểu thuyết là gì đâu. Hoặc nói đúng hơn, tôi có biết, nhưng diễn đạt cho ra đầu ra đũa thì là một vấn đề khác. Câu buột miệng của tôi cần được giải thích bằng một tiểu luận, các bạn cho tôi khất, nhưng tiểu luận không phải nghề của tôi. 

***

Cái chết là nghề của tôi là tên một tiểu thuyết của nhà văn Pháp Robert Merle, Trần Dần dịch, viết về một trong những cai ngục của một trại tập trung dân Do Thái của Đức Quốc xã. Anh ta không phải là kẻ ác độc. Anh ta chỉ muốn làm tốt nhiệm vụ được giao. Nỗi bận tâm của anh ta là làm thế nào giết được nhiều người nhất mà tốn ít công sức nhất. Anh ta coi việc làm cho người ta chết là một công việc, và vì đó là công việc, và vì anh ta là có thái độ làm việc chuyên nghiệp, nên anh ta tìm mọi cách để nâng cao hiệu suất công việc của mình. Giết bằng súng thì quá tốn đạn, lại còn phải lo cho có đủ người thực hiện việc bắn, mà số người cần phải giết thì quá nhiều. Đó là lý do anh ta nghĩ tới dùng hơi ngạt và lò thiêu.

***

Tôi đang bắt đầu đọc Gia đình bé mọn của Dạ Ngân. Cuốn này ra đời cũng hai mươi năm rồi, tôi có nghe tên nhưng chưa bao giờ chú ý. Gần đây, bạn Lê Hồng Lâm nồng nhiệt giới thiệu trên Facebook nên tôi mua về đọc. Tôi thường đọc khoảng hơn chục cuốn cùng lúc, có cuốn sẽ đọc cho xong, có cuốn bỏ dở nửa chừng, không hẳn vì dở mà vì chưa phải thời điểm thích hợp để nhập vào cuốn đó. Một lý do nữa là tôi thường xuyên rinh sách mới về nhà, cuốn nào mới được mang về cũng nhủ thầm sẽ đọc cho xong mớ này, nhưng cũng thường xuyên chuyện đó không bao giờ xảy ra. Thỉnh thoảng tôi xem lại những tấm ảnh mình chụp sách mới mua post trên FB tầm cách đây chục năm, nhận ra mình mới đọc xong chừng hai, ba cuốn trong đống sách mua hồi đó. Hôm trước gặp Bảo Chân, Chân tặng tôi hai cuốn bạn dịch, rồi nhắc tới cuốn của Khải Đơn và Phan Thúy Hà, thế là tôi lại lọ mọ đặt mua, sách tới nhà hôm qua. Vậy là tôi đọc cuốn của Khải Đơn và Gia đình bé mọn cùng một lúc. Đọc Gia đình bé mọn được mấy mươi trang, chưa thể nói gì về nó, nhưng có sự thú vị trong việc nhặt ra những từ lạ hoặc hiếm dùng: "nôn nang", "ươn yếu", "cụ bị".... "Cụ bị" thì tôi hiểu gần như là "chuẩn bị", còn hai từ kia tôi gặp lần đầu, trong ngữ cảnh có thể đoán lờ mờ nhưng chưa thật sự rõ nghĩa. Sự lấn át của văn học dịch so với văn học trong nước hai chục năm qua, cái hay thì không nói làm gì, nhưng cái dở rõ là làm cho ngôn ngữ ngày càng nghèo đi. Ngôn ngữ phải sinh sôi bởi các nhà văn chứ không phải các dịch giả. Lệ thuộc vào bản gốc, dịch giả dẫu có tài hoa bay bổng cách mấy khó lòng đi khỏi cái khuôn do bản gốc quy định. Ấy là chưa kể đa số bản dịch trên thị trường chỉ ở mức tầm tầm. Đọc tiếng Việt của các nhà văn giỏi vẫn có niềm khoái thú riêng, trước hết là ở cách họ dùng từ, chơi đùa với tiếng mẹ đẻ như thế nào. Nói đi cũng nói lại, ở thì hiện tại, không quá nhiều nhà văn Việt Nam khiến tôi khâm phục về ngôn ngữ. Cuốn của Khải Đơn tôi vừa đọc được ba truyện. Truyện thứ nhất hãy còn mang dáng dấp của một tản văn - trước đây cô cũng ra hai tập tản văn rồi, mà tản văn thì tôi không đọc, nói chung ai viết tôi cũng không đọc, đó không phải văn chương nghiêm túc. Truyện thứ hai và thứ ba trong tập Con rối hát ngoài rừng xa thì đáng chú ý hơn nhiều. Trong cả hai truyện, Khải Đơn tạo được một không khí mập mờ. Liệu đây có phải là không khí chủ đạo cho cả tập hay không thì phải đọc được hết cả tập mới biết. Trong truyện Sâu của biển, chỉ trong vài trang tôi nghĩ Khải Đơn mang đến ấn tượng sâu đậm hơn nguyên cuốn tiểu thuyết đình đám cùng đề tài, Thuyền, của Nguyễn Đức Tùng. Cuốn Thuyền hỏng về nhịp, mặc dù tác giả là nhà thơ. Thuyền được nhiều người ca ngợi vì đề tài, nhưng đề tài (alone) có bao giờ làm nên tác phẩm đâu?

***

Nhưng hai tuần qua, tôi không thật sự đọc ra đầu ra đũa cuốn sách nào, ngược lại xem được rất nhiều phim hay. Cái này nhờ ơn bạn Kỳ đã chỉ tôi cách cài app lậu lên TV. Tôi không ưa xem phim trên máy tính, mà ở VN muốn xem được phim hay chỉ có cách xem phim lậu. Nay cài được app lậu lên TV thật là sung sướng. Có một thời gian tôi đăng ký Mubi đàng hoàng, nhưng kho phim của Mubi cũng hạn chế. Nhờ app lậu tôi coi được một loạt phim hay: The Good, the Bad and the Weird; The Dreamers; Lust, Caution (xem lại mà như xem lần đầu), Stand by Me, We Need to Talk about Kevin; The Handmaiden; Oldboy - toàn phim lâu lắc nhưng phim nào cũng hay, mỗi cái hay một kiểu. Xem Stand by Me xong mới biết cậu bé trong phim là diễn viên River Phoenix, anh của Joaquin Phoenix rất nổi tiếng, mỗi tội River Phoneix nổi sớm mà chết cũng sớm, lúc mới 23 tuổi, vì ma túy quá liều.

***

When the Night is Over là một bài hát của Lord Huron. Dạo này tôi nghe ban này nhiều. Bỏ Spotify chuyển qua Apple Music khiến tôi có hứng thú nghe nhạc trở lại. Chất lượng âm thanh của Apple Music tốt hơn mà nó cũng recommend nhạc tốt hơn Spotify. Con AI của Spotify ngày càng lởm. Thời đầu dùng Spotify, tôi cứ nhong nhóng chờ sang tuần để xem nó giới thiệu gì trong mục Weekly Discovery; về sau, nó giới thiệu toàn bài chán oặt, hay có cái kiểu mình thích bài nào thì nó giới thiệu những bản cover lại chính bài ấy, mà kém hơn. Dùng Apple Music, nếu muốn chuyển những playlist đã tạo ở Spotify, có thể dùng một cái app tên là Songshifter. 

***

Là người đọc tiểu thuyết ở thì hiện tại, Việt Nam hay bất kỳ đâu, thể nào ta cũng đọc ít nhất một cuốn của Haruki Murakami. Thật khó mà cưỡng nổi sức hút của tiểu thuyết của ông nhất là những cuốn thời kỳ đầu: Rừng Na uy, Biên niên ký chim vặn dây cót, Kafka bên bờ biển... Về sau, tiểu thuyết ông không còn mới mẻ nữa, tôi nghĩ cũng không sao. Không thể đòi hỏi quá nhiều. Kể cả không còn cuốn hút bởi tiểu thuyết của ông nữa, khi đọc lại những cuốn non-fiction như Mình nói gì khi nói về chạy bộ, hay đọc cuốn mới được dịch của ông, Nghề viết tiểu thuyết, tôi vẫn đồng cảm và quý mến con người nhà văn. Tất nhiên, một phần tôi là người chạy bộ: về chuyện này thì ông truyền cảm hứng ghê gớm. Kể cả không chạy bộ thì cuốn sách về chạy bộ của ông cũng chứa đựng nhiều thứ hay ho và, chắc một số người sẽ thích, hữu ích. Đọc Nghề viết tiểu thuyết, tôi quý ông ở chỗ thành thực và không cao đạo - về chỗ này thì tôi thấy lắm người thành tựu thì chả có gì mà đi đứng nói năng lúc nào cũng như ông kễnh, rất buồn cười. Ông cho ta cảm tưởng là viết tiểu thuyết dễ lắm, ai viết cũng được, có khi tôi cũng thử cầm bút lên mà viết một cuốn. Tôi còn quý ông ở chỗ là ông nói luôn ông là người không yêu nước - về chỗ này thì tôi giống ông, theo ý nghĩa là không có tự hào dân tộc. Tôi luôn thấy tự hào dân tộc là một tình cảm kệch cỡm. Tự hào dân tộc quá lố thì còn ngu xuẩn nữa. 

Murakami còn là người rất chuyên nghiệp và kỷ luật. Ông mô tả cách viết của ông thế này: mỗi ngày ông viết 4-5 tiếng, được đúng 10 trang. Một tháng ông viết 300 trang. 6 tháng ông viết 1800 trang. Nghe dễ không! Bản thảo đầu tiên cuốn Kafka trên bờ biển là 1800 trang, sau đó ông sẽ sữa chữa 4- 5 vòng, mỗi vòng 1 tháng hoặc vài tuần, đưa cho vợ đọc, sửa tiếp, gửi cho biên tập viên, sửa tiếp. Tôi cũng áp dụng cách làm này khi dịch sách. Tất nhiên thì tôi dịch rất ít và cũng lâu lâu mới dịch một cuốn. Nhưng nếu dịch, thì tôi cũng đặt ra chỉ tiêu cho mình mỗi ngày 1-2 trang gì đó, cuốn tuần gấp 3. Nói gì thì nói, dịch là một việc mang tính kỹ thuật hơn, kiểu gì có thời gian thì cũng dịch được, không như viết là công việc đòi hỏi sáng tạo. Đặt ra chỉ tiêu mỗi ngày viết 10 trang mà duy trì suốt 6 tháng đều đặn như thế thì thật kinh khủng.

***

Thỉnh thoảng tôi thấy một vài nhà văn hồ hởi share lại bình luận về tác phẩm của mình trên Facebook. Thật lòng tôi thấy thương thương. Đã viết ra được tác phẩm, tôi nghĩ nhà văn hãy nên kiêu ngạo một chút. Cái mình cần viết, muốn viết, mình đã viết rồi. Khen, chê, bình luận là chuyện của người khác. Hãy đứng bên ngoài nó. Vả chăng, tôi nghĩ nhà văn không nên lên Facebook, cái chốn ấy chỉ tổ làm hỏng người. Nếu vẫn muốn lên FB, thì hãy tách bạch khỏi thân phận nhà văn của mình. Nếu không lập được một cái profile khác, chí ít đừng nói gì tới văn chương trên ấy. 

***

Tôi đọc xong tập Con rối hát ngoài rừng xa rồi, mất nhiều thời gian hơn dự tính. Cuốn sách hơn 200 trang một chút, gồm 14 truyện ngắn, có truyện chỉ ba bốn trang. Vậy mà đọc khá lâu mới xong. Thứ nhất là không đọc nhanh được. Khải Đơn viết cô đọng và tương đối tiết chế, mắt phải dừng lại ở mỗi câu, chữ lâu hơn. Thứ hai, mỗi truyện đọc xong phải đọc lại một lượt, đâm ra bằng đọc hai cuốn. Nói chung, tôi nghĩ Khải Đơn thành công với tập truyện này, mặc dù đây mới là lần đầu tiên cô thử sức với văn chương hư cấu. Sâu của biển chắc là truyện xuất sắc nhất tập. Tôi cũng thích truyện Khung trời vô cực, nhưng nếu là biên tập viên, tôi sẽ đề nghị cắt gọt đi chút xíu, bớt kể lại, cất bớt thông tin để truyện ép-phê hơn. Nguyễn Ngọc Tư là người rất nghề với thao tác này. Các truyện ngắn của Tư về sau này gần như không thừa từ nào, chi tiết nào.

***

Xem phim Drive My Car xong khiến tôi muốn đọc lại truyện, nhưng tìm khắp nhà không ra tập Những người đàn ông không có đàn bà, thế là đành đặt mua lại. Sách tới hôm qua, tôi đọc lại truyện Drive My Car và hai truyện khác mà đạo diễn có mượn một vài chi tiết đưa vào phim là Kino và Scheherazade. Đạo diễn tên gì không nhớ dựng phim này quá giỏi, từ một truyện không quá đặc sắc như Drive My Car (tôi thấy hai truyện kia còn ấn tượng hơn) mà có thể dựng nên một phim quá đỗi day dứt. Anh diễn viên chính diễn bằng mắt thật xuất sắc, nhất là ở cảnh khi cô vợ ngồi trên người anh vừa làm tình vừa kể chuyện, còn anh nằm ngửa gửi ánh nhìn vào hư vô - không hẳn là bàng quan hay sao nhãng, mà như kiểu vừa tự vấn vừa chất chứa một nỗi bất an đang được kiềm nén. Phim dài ba tiếng nhưng xem có cảm giác qua thật nhanh. 




Thứ Năm, 7 tháng 8, 2025

Tìm lại mặt người

Trích dịch từ bài Individual language and mass language của David Grossman trong tập Writing in the Dark.


Trong thế giới mà tôi đã mô tả, văn chương không có những đại diện có ảnh hưởng tại các trung tâm quyền lực, và tôi thấy khó có thể tin rằng văn chương có thể thay đổi được điều đó. Nhưng nó có thể đề xuất những cách khác để sống trong thế giới ấy. Sống với một nhịp điệu nội tại và một tiếp diễn nội tại đáp ứng nhu cầu cảm xúc và tinh thần của chúng ta cần nhiều hơn rất nhiều so với những gì các hệ thống bên ngoài áp đặt thô bạo lên chúng ta.

Khi đọc một cuốn sách hay, tôi trải nghiệm một sự sáng rõ bên trong: cảm thức về sự duy nhất của bản thân trở nên rõ ràng. Cái giọng nói đều đặn, chính xác chạm tới tôi từ bên ngoài làm sống dậy những giọng nói bên trong tôi, một số trong đó có lẽ đã im lặng cho đến khi giọng nói kia, hay cuốn sách cụ thể này, đến và đánh thức chúng. Và ngay cả khi cùng một thời điểm hàng ngàn người cùng đọc cuốn sách mà tôi đang đọc, thì mỗi người đều đơn độc đối diện với nó. Với mỗi người, cuốn sách ấy là một loại giấy quỳ hoàn toàn khác nhau.

Một cuốn sách hay — và số lượng như thế không nhiều, vì văn chương, tất nhiên, cũng chịu ảnh hưởng của những cám dỗ và rào cản từ truyền thông đại chúng — có thể cá nhân hóa và kéo người đọc đơn lẻ ra khỏi đám đông. Nó cho người đó một cơ hội để cảm nhận cách mà những nội dung tinh thần, ký ức, và những khả thể hiện sinh có thể nổi lên, trồi dậy từ bên trong anh ta, từ những nơi chốn xa lạ, và chúng là của riêng anh ta. Là trái ngọt từ chính cá tính của anh ta  mà thôi. Là kết quả của những tinh luyện thầm kín nhất. Và trong văn hóa đại chúng của đời sống thường nhật, trong sự ô nhiễm toàn diện của ý thức chúng ta, thật khó để những nội dung hồn ấy có thể trồi lên từ sâu thẳm nội tâm và trở nên sống động.

Ở trạng thái tốt nhất, văn chương có thể kết nối chúng ta với số phận của những con người xa lạ và khác biệt. Đôi khi, nó có thể tạo ra trong ta một cảm giác kinh ngạc khi nhận ra rằng ta đã thoát khỏi số phận của những người lạ ấy trong đường tơ kẽ tóc, hoặc khiến ta buồn bã vì đã không thực sự gần gũi với họ. Vì đã không thể vươn tay ra chạm tới họ. Tôi không nói rằng cảm xúc ấy lập tức thúc đẩy chúng ta hành động theo một hình thức nào đó, nhưng chắc chắn rằng nếu không có nó, thì sẽ không thể có bất kỳ hành động nào mang tính thấu cảm, dấn thân hay trách nhiệm.

Ở trạng thái tốt nhất, văn chương có thể tử tế với chúng ta: nó có thể làm dịu đi cảm giác bị xúc phạm vì sự phi nhân hoá mà ta phải chịu đựng khi sống trong những xã hội toàn cầu rộng lớn, vô danh. Sự xúc phạm khi ta bị mô tả bằng ngôn ngữ thô lỗ, bằng sáo ngữ, khuôn mẫu và định kiến. Sự xúc phạm khi ta trở thành — như Herbert Marcuse từng nói — con người một chiều.”

Văn chương cũng mang lại cho ta cảm giác rằng vẫn có cách để chống lại sự tùy tiện tàn nhẫn đã định đoạt số phận ta: ngay cả khi cuối Vụ án, Joseph K. bị chính quyền bắn “như một con chó”; ngay cả khi Antigone bị hành hình; ngay cả khi Hans Castorp cuối cùng cũng chết trong Núi thần — thì ta, kẻ đã đồng hành cùng họ qua những cuộc đấu tranh, vẫn khám phá ra sức mạnh của cá nhân trong việc giữ gìn phẩm giá làm người ngay cả trong những hoàn cảnh khắc nghiệt nhất. Đọc văn chương là hành vi khôi phục phẩm giá của chúng ta, khôi phục khuôn mặt nguyên sơ của ta, những khuôn mặt người, những khuôn mặt từng hiện hữu trước khi bị xóa nhòa giữa đám đông. Trước khi chúng ta bị trưng thu, bị quốc hữu hóa, và bị bán sỉ cho kẻ trả giá thấp nhất.