Thứ Năm, 7 tháng 8, 2025

Tìm lại mặt người

Trích dịch từ bài Individual language and mass language của David Grossman trong tập Writing in the Dark.


Trong thế giới mà tôi đã mô tả, văn chương không có những đại diện có ảnh hưởng tại các trung tâm quyền lực, và tôi thấy khó có thể tin rằng văn chương có thể thay đổi được điều đó. Nhưng nó có thể đề xuất những cách khác để sống trong thế giới ấy. Sống với một nhịp điệu nội tại và một tiếp diễn nội tại đáp ứng nhu cầu cảm xúc và tinh thần của chúng ta cần nhiều hơn rất nhiều so với những gì các hệ thống bên ngoài áp đặt thô bạo lên chúng ta.

Khi đọc một cuốn sách hay, tôi trải nghiệm một sự sáng rõ bên trong: cảm thức về sự duy nhất của bản thân trở nên rõ ràng. Cái giọng nói đều đặn, chính xác chạm tới tôi từ bên ngoài làm sống dậy những giọng nói bên trong tôi, một số trong đó có lẽ đã im lặng cho đến khi giọng nói kia, hay cuốn sách cụ thể này, đến và đánh thức chúng. Và ngay cả khi cùng một thời điểm hàng ngàn người cùng đọc cuốn sách mà tôi đang đọc, thì mỗi người đều đơn độc đối diện với nó. Với mỗi người, cuốn sách ấy là một loại giấy quỳ hoàn toàn khác nhau.

Một cuốn sách hay — và số lượng như thế không nhiều, vì văn chương, tất nhiên, cũng chịu ảnh hưởng của những cám dỗ và rào cản từ truyền thông đại chúng — có thể cá nhân hóa và kéo người đọc đơn lẻ ra khỏi đám đông. Nó cho người đó một cơ hội để cảm nhận cách mà những nội dung tinh thần, ký ức, và những khả thể hiện sinh có thể nổi lên, trồi dậy từ bên trong anh ta, từ những nơi chốn xa lạ, và chúng là của riêng anh ta. Là trái ngọt từ chính cá tính của anh ta  mà thôi. Là kết quả của những tinh luyện thầm kín nhất. Và trong văn hóa đại chúng của đời sống thường nhật, trong sự ô nhiễm toàn diện của ý thức chúng ta, thật khó để những nội dung hồn ấy có thể trồi lên từ sâu thẳm nội tâm và trở nên sống động.

Ở trạng thái tốt nhất, văn chương có thể kết nối chúng ta với số phận của những con người xa lạ và khác biệt. Đôi khi, nó có thể tạo ra trong ta một cảm giác kinh ngạc khi nhận ra rằng ta đã thoát khỏi số phận của những người lạ ấy trong đường tơ kẽ tóc, hoặc khiến ta buồn bã vì đã không thực sự gần gũi với họ. Vì đã không thể vươn tay ra chạm tới họ. Tôi không nói rằng cảm xúc ấy lập tức thúc đẩy chúng ta hành động theo một hình thức nào đó, nhưng chắc chắn rằng nếu không có nó, thì sẽ không thể có bất kỳ hành động nào mang tính thấu cảm, dấn thân hay trách nhiệm.

Ở trạng thái tốt nhất, văn chương có thể tử tế với chúng ta: nó có thể làm dịu đi cảm giác bị xúc phạm vì sự phi nhân hoá mà ta phải chịu đựng khi sống trong những xã hội toàn cầu rộng lớn, vô danh. Sự xúc phạm khi ta bị mô tả bằng ngôn ngữ thô lỗ, bằng sáo ngữ, khuôn mẫu và định kiến. Sự xúc phạm khi ta trở thành — như Herbert Marcuse từng nói — con người một chiều.”

Văn chương cũng mang lại cho ta cảm giác rằng vẫn có cách để chống lại sự tùy tiện tàn nhẫn đã định đoạt số phận ta: ngay cả khi cuối Vụ án, Joseph K. bị chính quyền bắn “như một con chó”; ngay cả khi Antigone bị hành hình; ngay cả khi Hans Castorp cuối cùng cũng chết trong Núi thần — thì ta, kẻ đã đồng hành cùng họ qua những cuộc đấu tranh, vẫn khám phá ra sức mạnh của cá nhân trong việc giữ gìn phẩm giá làm người ngay cả trong những hoàn cảnh khắc nghiệt nhất. Đọc văn chương là hành vi khôi phục phẩm giá của chúng ta, khôi phục khuôn mặt nguyên sơ của ta, những khuôn mặt người, những khuôn mặt từng hiện hữu trước khi bị xóa nhòa giữa đám đông. Trước khi chúng ta bị trưng thu, bị quốc hữu hóa, và bị bán sỉ cho kẻ trả giá thấp nhất.

 

 


Thứ Ba, 5 tháng 8, 2025

Hư cấu - Một đối thoại

Dịch từ bài Fiction  - A Dialogue trong tập More Matter của John Updike.



BỐI CẢNH: Một think tank (chả hiểu think tank ở đây là gì, tạm để nguyên) vô trùng giữa sa mạc California. Những bức tường trắng cong được chia thành các hình chữ nhật bởi những hàng đinh tán hầu như không thề nhìn thấy, treo các thiết bị máy tính với dây cáp và phụ kiện; những bản in  tác phẩm của Klee, Mondrian và Escher được đóng khung; cùng những bó hoa sa mạc tí hon, mới hái, sáng lấp lánh cắm trong các bình mạ vàng gắn trên giá treo tường. Tham gia cuộc trò chuyện, một sự kiện do một nhánh đặc biệt của NASA tổ chức nhằm giải thích nền văn minh Mỹ cho sinh vật ngoài hành tinh, là Farquhar, một cây bút tạp văn ít tên tuổi từ  Indiana tới, và Chokchög, một sứ giả đến từ Sao Hỏa. Chokchög có màu nâu đỏ, bề mặt ánh kim, hình dáng giống kiến, duy chỉ nhiều chân hơn. Hệ thần kinh đã được phát triển qua hàng thiên niên kỷ để điều phối số lượng chân phong phú ấy (mỗi chân có nhiều khớp gối xoay linh hoạt) cùng ba chiếc ăng ten linh hoạt mọc ra từ đầu sinh vật ngoài hành tinh này, theo các nhà tiến hóa học, là lời giải cho trí tuệ phi thường của nó; ở loài Homo sapiens, sự phát triển tương ứng có thể được truy về ngón cái đối kháng, tầm nhìn hai mắt và tư thế đứng thẳng.

Farquhar ngồi trên một chiếc ghế hình cầu bọc da nhân tạo Naugahyde; Chokchög thì ở trên sàn, trừ khi thảo luận trở nên đặc biệt sôi nổi. Cả hai đều đeo micro và tai nghe truyền tải bản dịch tức thời. Vì sinh vật Sao Hỏa không có tai, tai nghe của nó được cắm vào một ổ cắm điện bốn chấu khoan trực tiếp vào hộp sọ, nơi không có dây thần kinh.

CHOKCHÖQ: Hãy giải thích lại cho tôi, hỡi anh bạn Trái Đất hiếu khách, về văn chương hư cấu. Có phải nó là chuyện về những người chưa từng tồn tại nhưng lại thường rất giống với những người mà tác giả từng biết rõ?

FARQUHAR: Không hẳn vậy, bạn ngoài hành tinh của tôi. Nói thế này đi: Nhân vật hư cấu là sự khách thể hóa những ấn tượng có thực về cuộc sống do tác giả tiếp nhận. Bởi vì họ không có thực, tác giả tự do xâm phạm sự riêng tư của họ và thuật lại cho ta những suy nghĩ, cảm giác của họ, bất kể thoáng qua hay vụn vặt thế nào. Do vậy ông ta – hay bà ta, vì giống cái của loài chúng tôi có khả năng sản xuất văn chương hư cấu một cách xuất sắc – cung cấp cho độc giả hình ảnh của cuộc sống gần gũi và sống động hơn bất kỳ thể loại nào bị ràng buộc bởi thực tại, chẳng hạn lịch sử, xã hội học, hay ngay cả tự truyện, có thể mang tới. Văn chương hư cấu còn thật hơn cả thật, ta có thể nói vậy.

CHOKCHÖQ: Ta có thể nói vậy nếu ta chấp nhận lượng hóa thứ không thể định lượng.

FARQUHAR: Xin lỗi, chúng ta hơi phải phụ thuộc vào máy dịch ở đây. Hãy xem một vài ví dụ. (Các kỹ thuật viên của think tank vận bộ áo liền quần màu xám dịch chuyển các sợi dây cáp và nạp vào hệ thần kinh của Chokchög  văn bản số hóa cuốn Ulysses của James Joyce và Chiến tranh và Hòa bình của Bá tước Leo Tolstoy. Tín hiệu truyền đi, kèm theo tiếng tích nhẹ, mất mười bảy giây. Mí mắt của Chokchög, dịch chuyển theo chiều ngang, chớp hai lần.)

CHOKCHÖQ: Napoleon này là người thật à? Dublin này là thành phố thật à?

FARQUHAR: Đúng vậy, nhưng cả Napoleon lẫn Dublin đã được tái tạo lại; vấn đề không phải là thông tin. Văn chương hư cấu hướng đến các nơ-ron phức tạp hơn các nơ-ron thu thập dữ liệu. Văn chương hư cấu nhằm tạo ra ảo giác về trải nghiệm, nhờ vậy ta biết sống là như thế nào.

CHOKCHÖQ: Lạ nhỉ. Trên Sao Hỏa, chúng tôi biết chắc rằng mình đang sống ngay khi các điều dưỡng mớm cho chúng tôi  món cháo đã được nữ hoàng nhai qua,  khi còn đang ở giai đoạn ấu trùng.

FARQUHAR: Chính xác.  Văn chương hư cấu là trải nghiệm đã được ai đó nhai qua rồi. Tiểu thuyết là trải nghiệm đã được ai đó nhai lại rồi. Đây, hãy thử những món này để có ý niệm về kích cỡ. ( Middlemarch Bà Bovary của Flaubert được nạp. Mười hai giây tiếng tích nhẹ như lông vũ).

CHOKCHÖQ:  Tôi hiểu rồi. Văn chương hư cấu viết về những khó khăn của việc làm phụ nữ. Ở Sao Hỏa, chỉ các nữ hoàng của chúng tôi mới được phép có cái tôi. Chúng tôi thấy rằng nhiều hơn một nữ hoàng cho mỗi một triệu công nhân và điều dưỡng làm mất cân bằng xã hội.

FARQUHAR: Khoan đã, anh bạn -  văn chương hư cấu cũng có thể viết về đàn ông mà. Để xem – (Robinson Crusoe, Đi tìm thời gian đã mất Vụ án được chuyển qua đầu tiếp nhận của người Sao Hỏa. Tròn bốn mươi giây tích tắc, trong thời gian đó cậu ta nhấp nháy nhanh hơn và cái ăng ten nhiều khúc của cậu ra thò ra để ngắt một bó hoa sa mạc trên tường.)

CHOKCHÖQ: Tôi hiểu rồi. Thật lắm lo âu. Sự bất ổn của đàn ông trong vũ trụ là đề tài ở đây.

FARQUHAR: Tôi ghét phải tỏ ra tranh cãi, anh bạn biết đấy, nhưng thực ra văn chương hư cấu không chỉ có một đề tài đâu – nó nói về tất cả và không gì cả cùng một lúc. Nó là lời khẩn cầu với linh hồn toàn thể. Nó hiện sinh, nó mang tính bản thể, nó ngẫu nhiên, nó siêu việt. Nó trải rộng như cuộc đời, vừa cao lại vừa sâu, vừa nông cạn vừa đắng cay  thậm chí lại còn tăm tối nữa. Đây, hãy thay đổi nhịp độ một chút. Người Pháp gọi những món này là nouvelles. (Toàn bộ truyện ngắn của Anton Chekhov, Katherine Mansfield, Guy de Maupassant, Machado de Assis và Ernest Hemingway được tải trong hai mươ mốt giây. Bằng một cử chỉ  bất khả ngăn chặn đầy bất ngờ, Chokchög nhét những bông hoa sa mạc vào mặt và bắt đầu nhai. Cái hàm của cậu ta, cũng như mí mắt, di chuyển theo chiều ngang. Mũi cậu ta cứng và có hình lưỡi cày, từ việc đào các thành phố dưới lòng đất.)

CHOKCHÖQ: Thật nhiều tính người. Nhân loại dường như là một giống loài trong vũ trụ không bao giờ chán việc ngắm mình trong gương.  Một tấm gương khá mềm, trong trường hợp văn chương hư cấu. Nó thể hiện rất ít quá trình tiêu hóa, các quy luật vật lý, và hoạt động lao động sản xuất của giai cấp vô sản, nhưng lại chú tâm bất thường đến chuyện trăng gió và tán gẫu. (Ăng ten của cậu ta  đang định vị một bó hoa khác trên tường.)

FARQUHAR: Hượm đã, anh bạn. Yêu đương và chuyện gẫu thì có gì sai? Khiến cho thế giới xoay tròn, phải không?  Cái điều về văn chương hư cấu mà cậu không hiểu đó là, nó ngon lành.

CHOKCHÖQ: (vừa xơi xong bó hoa thứ hai; những đốm hồng và xanh lam của mô cây còn dính vào hàm dưới sáng bóng ánh kim): Ngon hơn, có lẽ, đối với người viết hơn là người đọc. Tôi được biết là cứ mỗi một người đọc trên hành tinh này lại có tới ba người viết tiềm năng.

FARQUHAR: Tóm được cậu rồi, anh bạn siêu âm lịch Ferdinand của tôi. Những lý thuyết phê bình mới nhất của chúng tôi cho thấy rằng sự phân biệt giữa người viết và người đọc hoàn toàn là ảo tưởng. Người viết chính là người đọc, đọc những gì mình viết khi anh ta viết, quan sát văn bản tự tạo ra, và người đọc trong khi đọc lại tạo ra câu chuyện ở những cảnh trí mình tưởng tượng ra, những gương mặt mình nhìn thấy: đó là câu chuyện cuộc đời anh ta! Không có gì giống như văn chương hư cấu về sự xuyên giao vi tế; nó mở rộng những cảm thông và cho ta sống nhiều cuộc đời hơn cuộc đời của chính mình. Đó là cuộc sống dưới kính hiển vi, từng lát một, nhưng cũng là cuộc sống trên thiên giới, giữa những vì sao. Này! (trở nên phấn khích) – nếu các cậu cũng có chút văn chương hư cấu trên Sao Hỏa thì các cậu đã ra khỏi các đường hầm nhếch nhác, lắm luật lệ từ lâu rồi, tới chỗ để chúng tôi có thể nhìn thấy các cậu, và các cậu đã không làm nổ tung cái máy dò Magellan năm nọ. Nói thật là các cậu sẽ không độc ác, bài ngoại và hoang tưởng đến vậy.

CHOKCHÖQ: (dùng hai chiếc xúc tu linh hoạt ôm chặt đầu Farquhar và há rộng cái miệng màu nâu đỏ của mình đến mức đáng sợ): Ngươi đã xúc phạm lối sống của người Sao Hỏa chúng ta! (Các kỹ thuật viên cảnh giác lập tức phóng ra các luồng điện cực mạnh, kéo dài sáu giây , qua cáp máy tính và làm sinh vật ngoài hành tinh choáng váng. Chokchög ngã ngửa ra, những chi thể yếu ớt vẫy vẫy, phát ra những âm thanh khò khè mơ hồ mà máy dịch thuật truyền tải thành:)  Ồ! Thứ văn hư cấu đó thật sự choáng thật đấy! Nhưng ta vẫn không chắc người Trái Đất các ngươi có thể xuất khẩu được nó.
 
 


Thứ Sáu, 1 tháng 8, 2025

Top 10 của John Updike

Tôi hầu như không đọc nổi tiểu thuyết của John Updike, tất nhiên với những cuốn tôi có dịp chạm tới. Tôi vui vẻ move on qua các tác giả chứ không cáu bẳn, phàn nàn gì. Chuyện tôi không đọc được ông là do tôi chứ không phải do ông. Ông hẳn nhiên là một tên tuổi lớn.

Nhưng các bài tiểu luận, điểm sách, tản văn, viết ngắn của ông thì tôi thích. Chúng hài hước và uyên bác. Tôi có cuốn More Matter của ông 900 trang, gồm vài trăm bài viết ngắn, về mọi thứ trên đời. Lâu lâu tôi đọc một chút, lâu lâu tôi thuổng một miếng.

Sau đây  là danh sách 10 tác phẩm văn học vĩ đại nhất thiên niên kỷ thứ hai, theo John Updike. 

1/ Summa Theologica của Thomas Aquinas, thế kỷ XIII;

2/ The Divine Commedy của Dante Alighieri, thế kỷ XIV, bản dịch tiếng Việt là Thần khúc, không rõ đã dịch hết chưa;

3/ Don Quixote của Miguel de Cervantes Saavedra, thế kỷ XVII, đã có ít nhất hai bản dịch tiếng Việt;

4/ Comedies, Histories, and Tragedies của William Shakespeare, thế kỷ XVII, dịch cũng nhiều nhưng chắc chưa hết;

5/ Candide của Voltaire, thế kỷ XVIII, đã có bản dịch;

6/ The History of the Decline and Fall of the Roman Empire, thế kỷ XVIII, hình như đã dịch vài tập. Không rõ tại sao Updike lại coi cuốn này là tác phẩm văn học;

7/ Chiến tranh và hòa bình của Leo Tolstoy, thế kỷ XIX, đã  có hai bản dịch;

8/ Lũ người quỷ ám của Fyodor Dostoevsky, thế kỷ XIX, đã dịch;

9/ Đi tìm thời gian đã mất của  Marcel Proust, thế kỷ XX, đã dịch được hai tập;

10/ Ulysses của James Joyce, thế kỷ XX, chưa dịch.

Ông cũng tự nhận là danh sách này Eurocentric.

Thứ Tư, 30 tháng 7, 2025

Chuyện kể về tình yêu và bóng tối - Amos Oz

Đọc xong Chuyện kể về tình yêu và bóng tối từ hai tuần trước mà chưa viết gì về nó, tôi cảm thấy có lỗi với cuốn sách, mặc dù chưa biết mình có thể viết gì. Tuy vậy, đây là một trong vài cuốn sách ấn tượng mạnh nhất với tôi trong năm đọc sách này (năm đọc sách cũng kiểu như năm tài chính ấy, năm đọc sách của tôi trùng với năm dương lịch vì tôi dùng Goodreads để track những gì mình đọc từ hơn chục năm qua, để mỗi dịp cuối năm có thể nhìn lại năm qua mình đã đọc gì). Ngoại trừ những cuốn đọc lại kiểu như Trăm năm cô đơn, Âm thanh và cuồng nộ hay Người thủy thủ bị biển khước từ, thì những cuốn đáng kể nhất tôi đọc được từ đầu năm tới giờ gồm Tuyết xuân của Mishima, Nostalgia của Mircea Cartarescu, Death in Spring của Merce Rodoreda (một cuốn khác mà tôi cũng cần ghi lại đôi dòng) và cuốn này, Chuyện kể tình yêu và bóng tối (CKTYBT).

CKTYBT là hồi ký của Amos Oz, nhà văn Israel. Trước giờ tôi rất lơ mơ về lịch sử Israel, Palestine, nghe tin tức thì nhiều nhưng chưa bao giờ để tâm vì sao ở đó liên miên đánh nhau, ai đánh nhau với ai và vì sao. Trong cuốn này, Amos Oz kể chuyện cá nhân và gia đình, nhưng lịch sử cá nhân và gia đình ông gắn bó chặt chẽ với lịch sử Israel, đâm ra tôi biết đôi chút về lịch sử quốc gia này và đọc xong có động lực để tìm hiểu thêm tí chút, hiểu hơn về cái gì đang diễn ra ngày nay tại Gaza. Cha mẹ Amos Oz là người Do Thái từ Đông Âu di cư về Palestine trong những năm đầu thế kỷ XX, một mặt trốn tránh phong trào bài Do Thái đang lên cao (rất nhiều bà con họ hàng của họ là nạn nhân), một mặt theo đuổi giấc mơ phục quốc, tạo dựng nên một quốc gia Israel trên đất Palestine. Cả hai người đều giỏi giang, yêu văn chương, triết học, cha ông thông thạo nhiều thứ tiếng, ước mơ trở thành giáo sư nhưng chỉ thành thủ thư, mẹ ông đắm chìm trong Chekhov, Tolstoy, Maupassant..., còn bản thân Amos Oz thì bộc lộ nhiều phẩm chất ưu tú từ bé. Cứ ngỡ họ sẽ là một gia đình hạnh phúc, nhưng không hiểu vì sao, không thật sự rõ vì sao, hôn nhân giữa cha mẹ Amos Oz cứ chuội dần đi, trở thành không thể chịu đựng nổi đối với mẹ của Amos Oz. Mẫu hình hôn nhân này sau này có lẽ được Amos Oz đưa vào cuốn Michael của tôi, đã có bản dịch tiếng Việt từ cách đây nhiều năm. Người mẹ của Amos Oz rồi sẽ tự tử khi ông mười hai tuổi. Tất nhiên đó là một cú sốc đối với cậu con trai. Sau cái chết của mẹ, mối quan hệ của Oz với cha không bao giờ như trước nữa. Ông  đổi họ: Oz là cái họ ông chọn, nghĩa là sức mạnh, họ gốc của ông là Klausner, đồng thời rời nhà dọn đến ở tại một kibbutz, một dạng công xã hay hợp tác xã của Israel, tất nhiên phức tạp hơn vì mọi người sẽ sống chung, ăn ở tập thể, không có sở hữu cá nhân. 

Đoạn trên là một tóm tắt rất tồi của hơn 640 trang sách khổ lớn. Thời buổi này đọc được hết ngần ấy chữ trong vòng hai tuần cũng là một thành tích đáng tự hào. Ừ, tôi đang tự hào. Tất nhiên nếu muốn tìm hiểu về lịch sử Israel thì Google hay một con AI nào đó sẽ cho ra ngay một bản tóm tắt, chả phải vật vã với một cuốn sách dày cộm để làm gì. Tuy nhiên, câu chuyện trong CKTYBT trên hết là một câu chuyện cá nhân, câu chuyện cá nhân mới là đáng kể và đáng đọc, những thứ khác chỉ là collateral damages. Cái có thể giữ tôi lại suốt hơn 600 trang mà không bỏ dỡ, nhảy qua những thứ khác là khả năng kể chuyện của Amos Oz và những thứ nhỏ nhỏ mà khi đọc tôi thấy khoái chết đi được.

Thứ nhỏ nhỏ về việc chọn mua pho mát:

Amos Oz viết như thế này về việc băn khoăn giữa việc chọn mua pho mát Ả Rập hay Do Thái. Về bổn phận thì phải mua pho mát Do Thái, tuy nhiên, pho mát Ả Rập thì rẻ hơn, lại vâng lời Kinh thánh. "Một mặt, giọt máu đào hơn ao nước lã, nên bổn phận của chúng tôi là mua pho mát Tnuva và chỉ Tnuva mà thôi; mặt khác, Kinh thánh dạy cần "một luật pháp cho cả ngươi lẫn ngoại kiều sinh sống giữa các ngươi", nên đôi lúc cũng cần mua của mấy ông Ả Rập láng giềng,"vì các ngươi đã là ngoại kiều ở đất Ai Cập". Thêm nữa, thử tưởng tượng xem Tolstoy sẽ khinh miệt chừng nào những kẻ đi mua pho mát mà lại chọn loại này chứ không phải loại khác chỉ vì khác biệt tôn giáo, quốc tịch hay sắc tộc! Các giá trị phổ quát để đâu? Chủ nghĩa nhân đạo đâu rồi? Tình hữu ái giữa người với người nữa? Nhưng lại nữa, thật thấp hèn làm sao, yếu đuối và bủn xỉn chừng nào nếu đi mua pho mát Ả Rập chỉ vì bớt được vài đồng mil, chứ không phải pho mát của những người tiền phong đã vì chúng tôi một nắng hai sương lao động!"  Chỉ nội bằng cái chuyện giằng xé giữa việc mua pho mát Ả Rập hay Do Thái ở phần đầu cuốn sách, Amos Oz là set luôn cái tone cho việc kể về những mâu thuẫn Ả Rập - Do Thái về sau. 

Thứ nhỏ nhỏ về sách:

Về tình yêu của cha mình đối với sách: "Ba tôi với sách của ông có một mối quan hệ gần như thể xác. Ông thích cầm vào sách, vuốt ve sách, ngửi sách. Ông có khoái cảm gần như xác thịt đối với sách: ông không thể ngăn mình với lấy sách, sờ soạng sách, cả sách của người khác cũng không từ. Và thời đó sách quả là quyến rũ hơn ngày nay nhiều lắm, thứ sách rất hợp để ngửi, để ve vuốt, mân mê. Có những sách chữ vàng trên bìa da thơm nức, hơi thô, sờ vào muốn nổi da gà, cứ như đang sờ mó một thứ gì riêng tư, cấm đoán, một thứ gì chính nó cũng sởn lên, run lên khi bị đụng vào. Và còn những sách khác đóng bìa cứng bọc vải, dán bằng thứ keo có mùi nồng nàn làm sao. Mỗi cuốn sách đều có mùi hương riêng, bí mật và khiêu khích. Đôi khi vải tuột khỏi bìa, như một chiếc váy lơi lả, và thật khó mà cưỡng lại khỏi ngó vào khoảng tối giữa tấm thân và lớp áo, hít mà cái mùi váng đầu kia." Chưa bao giờ tôi đọc được ở đâu một đoạn viết về sách mà sexy, gợi tình như thế. Thử thay từ "cuốn sách" bằng "cô gái" xem sao.

Nhiều thứ nhỏ nhỏ khác, và nhiều thứ nhỏ nhỏ khác nữa. Gõ lại những đoạn tôi thích sẽ hơi nhiều và khá mỏi tay. Tốt nhất nếu quan tâm thì nên đọc ngay sách.

Cần nói thêm, cuốn sách này do An Lý dịch. Bản dịch của cô thật xuất sắc, cho dù dịch vòng qua tiếng Anh chứ không phải tiếng Hebrew. Nếu không nhờ bản dịch chưa chắc tôi đã thích cuốn sách đến vậy.

Thứ Năm, 24 tháng 7, 2025

Mạng xã hội

Trên mạng xã hội, tôi quan sát thấy nhiều người có tố chất tốt, tư duy tốt, viết lách tốt và thực sự đã có nhiều bài viết chất lượng. Nếu họ điều tiết được cái đầu ra của họ, tập trung vào một vài mảng họ hiểu biết rành rẽ nhất, thì công chúng có lẽ được lợi và biết ơn họ rất nhiều. Tuy nhiên, không rõ do nghiện mạng xã hội hay ngáo like, vấn đề gì họ cũng nhảy vào cho ý kiến, từ đó không tránh khỏi hời hợt, tự mâu thuẫn, hay tiêu chuẩn kép. Viết không vì nhu cầu tự thân mà viết vì muốn thu hút đám đông trước sau gì cũng hỏng. Bài thuốc cho những người như vậy, theo tôi là berberin.