Thứ Tư, 15 tháng 10, 2025

Những ngày nắng đẹp

Sau bốn năm liên tục đi Hà Giang, thì kể từ sau dịch Covid năm 2021, tôi chưa có dịp quay lại vùng đất này - vùng đất duy nhất ở Việt Nam mà tôi đã đến nhiều lần nhưng không chán. Lòng mê Hà Giang của tôi chắc đã lan sang hai bạn nhỏ (thật ra bây giờ không còn nhỏ lắm nữa). Hôm nọ làm cuộc phỏng vấn bỏ túi với hai bạn, nơi nào ở Việt Nam hai đứa muốn quay lại nhất, thật bất ngờ khi cả hai đều chọn Hà Giang. 

Hà Giang thật ra có Đông Hà Giang và Tây Hà Giang. Đông Hà Giang là Quản Bạ, Yên Minh, Phố Cáo, Du Già, Đồng Văn, Mèo Vạc, Lũng Cú - khách Tây hay gọi là Hà Giang Loop. Hà Giang Loop có đèo Mã Pí Lèng trứ danh, có dinh vua Mèo, nhà Chuyện của Pao (nơi quay bộ phim này), cột cờ Lũng Cú, sông Nho Quế, hẻm vực Tu Sản. Hà Giang Loop nổi tiếng đến nỗi hầu như khách Tây nào đi bụi ở Việt Nam đều biết. Hôm cưỡi ngựa trên thảo nguyên Kyrgystan, tình cờ gặp một cặp đôi người Pháp và Ý, hóa ra cả hai đều từng du lịch Việt Nam và đã đi Hà Giang Loop. Tây Hà Giang là Hoàng Su Phì nổi tiếng về ruộng bậc thang. Đường vào Hoàng Su Phì gần như là độc đạo, đi vào Hoàng Su Phì chỉ có thể đi tiếp Xín Mần rồi quay đầu ra, chứ không kết nối với các điểm đến khác của Hà Giang. Dường như từ Xín Mần có thể sang được Lào Cai, nhưng đường đi có thuận lợi không thì tôi không rõ. 

Năm nay, dôi ra mấy ngày nghỉ, tôi muốn đi Hoàng Su Phì và chỉ ở lại Hoàng Su Phì mà thôi. Tôi muốn xem Hoàng Su Phì khác phần còn lại của Hà Giang như thế nào, nhân tiện, leo Tây Côn Lĩnh và và đỉnh núi có tên rất thơ mộng là Chiêu Lầu Thi, chứ còn ruộng bậc thang thì tôi đã no mắt với Mù Căng Chải, Tà Xùa, Ngọc Chiến nên cũng không thật sự quan tâm lúa đã gặt chưa. Tôi chỉ quan tâm tới thời tiết. 

Trước khi đi 10 ngày, bão Matmo đổ vào miền Bắc, gây ngập lụt lớn ở thành phố Hà Giang. Đợi vài ngày khi trời đã êm bão đã tạnh mưa đã dứt lũ đã rút, tôi gọi nhà nghỉ ở Hoàng Su Phì hỏi thăm, họ khuyên tôi không đi vì bão 11 hay Bualoi sắp vào. Kỳ nghỉ thì có thể dời, nhưng nếu dời thì mất tiền vé máy bay, nên tôi cứ ngần ngừ xem thế nào. Mấy hôm ấy, tôi gần như thành chuyên gia thời tiết, theo dõi sát sao tình hình mưa gió, từ các chuyên trang thời tiết, các KOL thời tiết, các trang nhóm du lịch, tới việc tải app Windy là app chuyên sâu thời tiết dành cho các hoạt động thể thao ngoài trời. Kiểm tra chéo nhiều nguồn thông tin, tôi chắc hơn 90% mưa sẽ tạnh hai ngày trước ngày bay, và những ngày lưu trú ở Hoàng Su Phì sẽ nắng, nên tới giờ chót tôi quyết định vẫn lên đường. Vấn đề còn lại là sau mưa thì đường có thể sạt lở - đặc sản của vùng núi Đông và Tây Bắc, nhưng nhớ lại năm 2018, sau bão Sơn Tinh tôi còn đích thân đánh lái lên Mèo Vạc, rồi từ Mèo Vạc vần vò mấy trăm cây số đường đèo sang Cao Bằng, lần này đi xe khách sợ gì, nên cứ đi thôi.

Các bạn tôi nói ngày trước muốn đi Hoàng Su Phì thì phải đi xe tuyến Hà Giang, xuống xe ở Bắc Quang và bắt xe ôm vào. Bây giờ, tìm trên mạng thì đã có vài nhà xe đi thẳng Hoàng Su Phì. Tôi tìm ra nhà xe Vũ Hán, nhà xe này còn có cả app hẳn hoi, rất chuyên nghiệp, nên đặt vé xe qua app. Xe khởi hành từ bến xe Mỹ Đình, rất buồn cười trên xe chỉ có hai chúng tôi là khách đặt qua app và đi suốt tuyến, ngoài ra chỉ có một khách khác sẽ xuống xe ở Tuyên Quang. Anh tài xế vừa lái xe, vừa thấy ai đứng ven đường là lại rao, đi Hà Giang, Hoàng Su Phì không. Cứ như thế, trừ mấy chục cao số đường cao tốc, còn thì ai vẫy anh cũng dừng xe, ai không vẫy anh cũng ghé lại hỏi thăm. Quả nhiên là một kinh nghiệm khác lạ so với xe khách trong Nam, vốn từ lâu chỉ đón trả khách tại những điểm cố định.

Từ ngã ba Tân Quang, xe theo DT 177 qua đèo Cổng Trời vào Hoàng Su Phì. Đường tráng nhựa đẹp đẽ, trời khô ráo nên không vấn đề gì, tuy vẫn còn dấu vết rất rõ những đoạn sạt lở vừa mới được dọn xong. Ngồi trên xe, tôi còn vào các group du lịch để cập nhật tình hình đường sá cho chúng sinh. Tôi làm vậy bởi tôi thương chúng sinh, nhiều người vào group chỉ để hỏi thăm đường sá, nắng mưa thế nào mà bị chửi té tát vuốt mặt không kịp, những là chúng mày không có não à, đang bão lũ sạt lở không ở nhà còn đi đâu, những là chúng mày định làm khổ bộ đội, cứu hộ à. Ơ hay, người ta chỉ hỏi thăm thôi, gì mà toxic thế. Mà thật ra toxic là trạng thái mặc định trên mạng xã hội, ở đó, những công dân nặc danh chính tả chưa thông từ vựng kém cỏi mặc nhiên cho mình quyền chửi mắng người khác vô tội vạ. Tiên sư chúng nó.

Nơi chúng tôi nghỉ là một khu resort trong thôn Tả Sử Choóng nằm trên những ngọn đồi cao vút. Ở đây, mỗi bungalow nằm biệt lập một góc, cách nhau vài trăm mét đường dốc rất gắt, nhưng bungalow nào cũng có thể nhìn xuống những thửa ruộng bậc thang đang bắt đầu vào mùa gặt hoặc nhìn sang những ngọn đồi khác. Nhà ăn cũng nằm trên đồi nhưng ở vị trí thấp hơn nhiều so với các bungalow, nên leo xuống nhà ăn rồi leo lên phòng nghỉ đã là bài tập rất tốt cho dân chạy trail rồi. Tả Sử Choóng cách những điểm đến có tiếng khác của Hoàng Su  Phì như Thông Nguyên, Bản Luốc, Bản Phùng...vài chục cây số đường núi, nên sau khi hỏi thăm, chúng tôi quyết định chỉ đi leo núi, trekking, đi bộ khám phá quanh bản chứ không sang các bản khác. Chúng tôi muốn tận hưởng không khí nơi đây, sự yên tĩnh không có được ở đâu khác, thay vì phải lao lên xe, phi ra đường, cho dẫu dọc những con đường núi quang cảnh cũng đẹp và vắng, chứ không nhếch nhác ồn ào như dưới xuôi. 

Chiều ngày đầu tiên, chúng tôi đi lang thang trong bản mà không ai theo cùng. Đường trong bản vắng hoe, mấy mươi mét mới có một nếp nhà, thảng hoặc mới có chiếc xe máy chạy ngang. Nghênh ngang ngắm cảnh, chụp hình một đỗi, chúng tôi ghé một tiệm tạp hóa mua một chai nước và ba bịch bánh to đùng, tất cả hết 26.000 đồng. Bác chủ tiệm mời chúng tôi ngồi uống trà nói chuyện. Bác có hai cậu con trai, đã lớn hết và đi làm xa. Bác nói chúng nó xuống xuôi, đi làm công nhân, tháng được 10 triệu đồng, chứ ở đây thì biết làm gì. Làm lúa cả năm được hai tấn thóc, chỉ được 14 triệu đồng thôi. 

Lúc nào tôi cũng mang theo một hai cuốn sách trong những chuyến đi. Kể cả có đọc được hay không, có sách bên mình khiến tôi yên tâm, không sợ phí những khoảng thời gian trống. Chuyến này, do đã sẵn dự định ở yên một chỗ suốt bốn ngày, nên tôi mang theo những năm cuốn sách. Chắc chắn không đọc hết đâu, nhưng nếu lỡ chán cuốn này, có cuốn khác thay vào ngay. Cuốn đầu tiên tôi giở ra trong những cuốn mang theo là Thành phố và những bức tường bất định của Haruki Murakami, mà một số con trời cứ suồng sã gọi là Haruki. 

Nhiều năm rồi tôi mới đọc một tiểu thuyết của Murakami, tuy thi thoảng vẫn đọc truyện ngắn của ông, gần nhất là các truyện trong tập Những người đàn ông không có đàn bà, đọc lại nhân xem xong Drive my car. Trước cuốn này là cuốn gì? Hình như cuốn gì không màu và những năm tháng hành hương, cuốn ấy thì chán; rồi đến Giết chỉ huy đội kỵ sĩ cũng chán nốt, tôi bỏ dở sau đâu đó trăm trang. Vì sao tôi lại quyết định đọc cuốn này? Vì ngay trang đầu tiên đã gặp những câu văn dịu dàng, u hoài. Nói gì thì nói, bất chấp một số khiếm khuyết, Murakami vẫn là một tay kể chuyện đại tài. Tôi nhớ mình từng say mê Biên niên ký chim vặn dây cót hay Kafka bên bờ biển như thế nào. Nhưng hai cuốn ấy tất nhiên không có giọng văn dịu dàng như thế này, cả Rừng Nauy hay Phía Nam biên giới, phía Tây mặt trời cũng không có. Tôi đọc Thành phố và những bức tường bất định và như thấy có mình trong đó. Tôi là chàng trai mười bảy tuổi lang thang cùng cô bạn mười sáu tuổi dọc bờ sông, tôi thấy mình như ngửi được cả mùi cỏ gà và hoa dại. Tôi cũng là gã đàn ông trung niên nhiều năm sau lội dọc sông, càng ngược dòng thì càng trẻ đi, da căng hồng hào, thớ thịt săn chắc, như một khát vọng quay về tuổi trẻ đã xa. Tôi sống trong cuốn tiểu thuyết. Có một buổi tối, sau bữa ăn rất tươi ngon mà Vân và Minh, hai bạn  người H'mông phục vụ ở resort đã chuẩn bị cho chúng tôi, và sau một ca rượu ngô nửa lít, chúng tôi về phòng và thay phiên đọc cho nhau nghe những trang trong cuốn sách. Chúng tôi khen nhau là đọc hay lắm, nhưng chẳng nhớ mình đọc gì, và chỉ ít phút là lăn ra ngáy khò khò. 

Đôi khi tôi thấy mình trong sách, đôi khi tôi lại thấy sách trong tôi. Ấy là ngày hôm sau khi leo Chiêu Lầu Thi, giữa những vạt sim tím và những con suối róc rách, trong khi hổn hển leo lên những con dốc, thì tôi thấy cảnh trong cuốn Gối đầu lên cỏ của của Soseki hiện về. Cái anh chàng họa sĩ leo núi trong Gối đầu lên cỏ chính là tôi phút giây này chăng? Đọc nhiều tiểu thuyết để làm gì? Chẳng để làm gì cả. Chỉ là để đôi lúc ta sống ở đây mà không ở đây, hoặc sống hẳn ở một thế giới khác, hoặc nhìn thấy một cảnh quan này lại nhớ đến vài trang trong cuốn nào đó. Cuộc sống thế mà đẹp. Tất nhiên tôi hoàn toàn ý thức cái đẹp này có thể hoàn toàn xa xỉ đối với nhiều người. 

Những ngày ở Hoàng Su Phì, tôi được làm những việc mình thích nhất: sống trong một ngôi nhà trên núi cao yên tĩnh, đi trekking và đọc sách. Nếu được, tôi hoàn toàn có thể ở đây một tháng hay ba tháng, đọc sách, đi bộ, ngắm núi rừng và không cần giao tiếp với thế giới bên ngoài. Tôi nhớ tới Núi thần của Thomas Mann. Đi chuyến này về, tôi nhất định phải bắt tay vào đọc cho xong cuốn này. 

Ngày cuối, tôi lại hẹn xe Vũ Hán đến đón. Gần đến giờ thì bác tài nhắn xe hỏng, không chạy, nên chúng tôi đành nhờ Sáng và Minh đưa ra ngã ba Tân Quang để bắt xe khác về Nội Bài. Chạy đâu được hơn hai mươi cây số thì nghe tiếng bùm: cái lốp xe cũ mèm của chiếc Vitara cũ mèm lại hay chạy đường xấu đã nổ. Tôi nhảy xuống xe mà băn khoăn, không biết khi nào hai cậu này mới thay xong lốp xe, và ra tới Tân Quang thì có đón được xe nào kịp giờ bay hay không. Thời may, một chiếc xe con trờ tới hỏi thăm, rồi cho chúng tôi đi nhờ xe ra ngã ba Tân Quang. Tuyên, tên cậu tài xế xe con, đang trên đường về Hàm Yên. Tuyên nhiệt tình gọi cho một nhà xe, xe ấy đang trên đường về Hà Nội nhưng đã đi qua khỏi ngã ba Tân Quang rồi, hẹn sẽ chờ bọn tôi. Tuyên lái xe con đuổi theo, hết cả huyện Bắc Quang, sau năm bảy cuộc gọi mà không thấy xe khách kia đâu. Ắt đợi bọn tôi lâu quá nên họ đi rồi. Lúc ấy, tôi định nhờ Tuyên thả dọc đường, chỗ nào đông đúc để chúng tôi bắt xe khách hoặc cùng lắm taxi về Nội Bài. Qua khỏi Hàm Yên trời đã hơi tối, Tuyên bảo thôi để em đưa anh chị về tới Nội Bài luôn. Thế là một người không quen đã chở chúng tôi thẳng tới Nội Bài như Uber, chúng tôi nằn nì mãi Tuyên mới nhận một ít tiền xăng, rồi sau đó Tuyên sẽ lái 3 tiếng nữa về thẳng nhà ở tận Lạng Sơn. Chúng tôi bay về Sài Gòn, tới nhà đã 2 giờ sáng. 7 rưỡi sáng, tôi vào văn phòng, lại nhập vào guồng quay bất tận, để lại sau lưng những ngày nắng đẹp. Chuyến đi này, chỉ tiếc đường lên Tây Côn Lĩnh vẫn còn sạt lở nhiều không leo được, đành hẹn một lần khác trở lại Hoàng Su Phì. 



Thứ Ba, 23 tháng 9, 2025

Chia động từ

Có thể nào viết về sự thấu cảm bằng một lối viết giàu lý tính được không? Được. Go, Went, Gone của Jenny Erpenbeck là một bằng chứng. Đây là cuốn thứ hai tôi đọc của bà, sau Kairos. Tôi cũng đang đọc Hạc trắng xòe cánh của Yoko Tawada, nhà văn Nhật sáng tác bằng cả tiếng Nhật lẫn tiếng Đức.

Vì sao tôi chọn đọc Jenny Erpenbeck, Yoko Tawada, Yoko Ogawa hay Rachel Cusk mà không phải là những người như Jane Austen, Virginia Woolf? Thực ra họ đâu có loại trừ nhau? Có những lúc ta trở về cổ điển, với những giá trị đã được hình thành, xác nhận. Nhưng có những lúc ta cần sống ở thì hiện tại, hít thở không khí của thì hiện tại. Austen, Woolf đâu có viết về vấn đề nhập cư, hay ô nhiễm môi trường, lão hóa dân số. Muốn đọc những vấn đề đương đại, nhất định phải đọc những nhà văn ở thời chúng ta rồi.

Go, Went, Gone đề cập một trong những vấn đề thách thức của xã hội châu Âu hiện đại: vấn đề tỵ nạn . Một mặt, sau tất cả những bài giảng về nhân văn, nhân đạo, châu Âu liệu có thể nào làm ngơ, bỏ mặc người tỵ nạn - những người đang chạy trốn đói nghèo, chiến tranh, bạo lực; một mặt, cho họ một chỗ ở thì nước sở tại sẽ gánh chịu những gánh nặng nào về mặt kinh tế, những rạn nứt và bất ổn nào về mặt xã hội? Đó là một tình thế tiến thoái lưỡng nan. 

Jenny Erpenbeck, tất nhiên không phải chính trị gia, không phải nhà làm chính sách, không có tham vọng giải quyết vấn đề hóc búa này trong tiểu thuyết của mình. Nhưng với tư cách là một nhà văn, bà cho thấy một con người châu Âu cụ thể, trong tác phẩm này là Richard, một giáo sư Hy La về hưu, có thể gần gũi và cảm thông với những người châu Phi tỵ nạn như thế nào. Richard đã giúp rất nhiều cho những người châu Phi kém may mắn đó, dành cho họ thật nhiều thời gian. Có thời điểm, có thể một trong những người được ông giúp đã phản bội sự tốt bụng của ông, nhưng ông không quá bận tâm về việc ấy. Lòng tốt của ông dành cho những con người xa lạ là vô điều kiện, đến mức ta phải đặt câu hỏi: vì sao lại tốt đến như thế được? 

Nhưng dẫu ông và bạn bè mình có thể là những người tốt, họ không thể nào giải quyết được câu chuyện nhập cư cho tới nơi tới chốn. Người giải quyết phải là chính quyền, là chính sách, luật pháp. Và những thể chế ấy, tức là nước Đức, đặt ra vô số rào cản để những người châu Phi kém may mắn kia có thể nhập cư một cách hợp pháp. Có lẽ đó là câu trả lời chính thức của châu Âu?

Bình thường, khi đọc phải những câu văn thừa thãi cảm xúc, tôi hay gào lên làm ơn tiết chế lại. Đọc Jenny Erpenbeck, tôi rơi vào thái cực ngược lại. Cách viết quá tiết chế của bà khiến tôi bức xúc! Làm ơn thêm một chút tình cảm vào, làm ơn đãi bôi một chút, viết gì mà khô như ngói thế này, đầu óc tôi cứ kêu gào như thế. Tuy văn Erpenbeck có thể kém hấp dẫn, nhưng dù sao vẫn dễ chịu. Kể cả vậy, sau Kairos và cuốn này, thì tôi nghĩ đọc bà như thế là đủ rồi.

Thứ Ba, 16 tháng 9, 2025

Into Thin Air

Bên Rubik Books gửi tặng tôi cuốn Into Thin Air vừa phát hành. Không nhầm thì đây là bản dịch thứ hai của cuốn này. Trước kia tôi sẽ không quan tâm lắm đến đề tài leo núi, nhưng giờ thì khác. Tôi nhớ lần leo đỉnh Mentok Kangri ở Ladakh bất thành năm 2023. Chuyến đi đó được kể lại ở đâyNăm đó chỉ vừa bay tới Leh ở độ cao 3500m thì vài tiếng đồng hồ sau tôi đã cho chó ăn chè liên tục và đầu đau như búa bổ. Uống thuốc vào giúp tôi hồi phục chút ít. Nhưng sau đó khi trekking từ độ cao 4500m đến base camp ở độ cao 5200m tôi đã đi như zombie, chỉ bằng 1/10 sức lực bình thường, và đấy là trong điều kiện thời tiết tốt, nắng ấm, gió nhẹ, hoàn toàn chưa phải đối đầu với băng, tuyết, chưa phải đụng tới kỹ năng leo núi tuyết.

Vậy mới biết leo núi thực thụ kinh khủng như thế nào. Một so sánh dễ hình dung, như Jon Krakauer đã chỉ ra trong cuốn sách này: leo đỉnh Everest nghĩa là leo tới độ cao ngang ngửa một máy bay dân sự. Ở độ cao đó, mức oxy chỉ bằng 1/3 so với ở mực nước biển. Người leo núi dễ dàng gặp các chứng phù não, phù phổi, ảo giác, ấy là chưa kể muôn vàn hiểm nguy từ cái lạnh, tuyết lở, băng rơi, bão tuyết. Kể cả là một nhà leo núi lão luyện, không có gì đảm bảo 100% khi leo những đỉnh núi cao sẽ trở về. Ở độ cao 8000m, không ai biết được những gì có thể xảy ra. Ở độ cao 8000m, nếu chinh phục thành công và trở về, cũng khó thuật lại chính xác những gì đã xảy ra. Và câu nói ám ảnh tôi nhất khi đọc cuốn sách này: ở độ cao 8000m, không thể nói tới chuyện đạo đức - đây là câu của một nhà leo núi người Nhật giải thích cho việc nhìn thấy một nhà leo núi khác gặp nguy hiểm nhưng không cứu, vì không thể cứu, vì không có sức lực để cứu, vì nếu cứu có nghĩa là bản thân có thể chết.
Muôn vàn hiểm nguy như thế khi chinh phục những đỉnh núi cao nhưng vì sao người ta vẫn leo núi? "Bởi vì ngọn núi ở đó." Nếu chỉ có thể ngồi nhà chăn ấm nệm êm lướt TikTok thì hãy bớt mở miệng chỉ trích những người có tinh thần phiêu lưu mạo hiểm. Văn minh nhân loại đã được thúc đẩy biết bao bởi những người có tinh thần phiêu lưu và ai cũng biết người Việt có cống hiến như thế nào cho văn minh nhân loại.
Into thin air là hồi ký của của nhà báo, nhà leo núi người Mỹ Jon Krakauer về thảm hoạ xảy ra trong cuộc chinh phục Everest năm 1996 cướp đi sinh mạng của 12 nhà leo núi, trong đó có những nhà leo núi kỳ cựu. Bản dịch mới do Rubik Books thực hiện.

Thứ Hai, 18 tháng 8, 2025

When the Night is Over

Alice Munro có một truyện ngắn tên là Gấu trèo về qua núi. Truyện này nằm trong tập Ghét, thân, thương, yêu, cưới được dịch và in ở Việt Nam cách đây gần 10 năm rồi, hồi bà mới đoạt giải Nobel. Mặc dù đã đọc vài tập khác của bà và ca ngợi bà hết lời, tôi mới chỉ đọc tập này gần đây thôi, chính xác là sau khi đọc một cuốn gì đó quá dày, tôi muốn thoát ra, thay đổi không khí đọc cái gì đó ngăn ngắn, tôi nghĩ truyện của Munro sẽ phù hợp. Điều kỳ lạ là tôi không thấy Munro thấm thía như trước nữa. Có thể không phải tập này kém hơn so với các tập kia - nó vẫn được coi là một tập truyện tiêu biểu của bà - có thể chỉ là do tôi khác đi. Nói ngay tôi không bị ảnh hưởng bởi scandal liên quan tới vụ bà đối xử với con gái mình. Đó là một cách ứng xử không chấp nhận được, nhưng tôi luôn tách bạch văn với người. Tập này, tôi chỉ đọc được bốn, năm truyện là thấy đủ và dừng lại; trong số đó tôi chỉ thích truyện được lấy làm tựa cho tập Ghét, thân, thương, yêu, cướiGấu trèo về qua núi. Nhưng thích là thích khi đọc, là thích  cái ấn tượng hai truyện ấy mang đến cho tôi lúc đó, chứ sau thì cũng không nhớ nữa. Nói đúng ra thì tôi nhớ một chút về cái mối tình oái oăm và trò tinh nghịch tai quái của hai cô bé trong Ghét, thân, thương, yêu, cưới, nhưng Gấu trèo về qua núi viết về cái gì thì tôi hoàn toàn không nhớ cho đến khi mở cửa sổ trên máy tính ra và viết những dòng này. Tất nhiên khi bắt tay gõ thì chỉ cần vài cái nhấp chuột đơn giản tôi đã được "nhắc" lại nội dung truyện, biết rằng Trần Ngọc Hiếu đã đăng một bản dịch truyện này trên blog của bạn ấy. Chỉ mong sau này tôi không bị Alzheimer. 

***

Tôi vẫn còn nợ các bạn tôi một lời giải thích về tư duy tiểu thuyết là gì. Số là trong một chuyến đi gần đây, chủ đề tiểu thuyết được đưa ra bàn thảo, và tôi đã trót đưa ra là lời nhận xét là nhà văn X đó có tư duy tiểu thuyết. Gần như vừa nói xong là tôi biết sẽ bị vặn vẹo ngay tư duy tiểu thuyết là gì. Quả thưc như thế, các ông bạn tôi không buông tha cho tôi. Điều bí mật là mặc dù đã đọc nếu không đến số nghìn, thì cũng đã hàng trăm tiểu thuyết rồi, tôi có biết tư duy tiểu thuyết là gì đâu. Hoặc nói đúng hơn, tôi có biết, nhưng diễn đạt cho ra đầu ra đũa thì là một vấn đề khác. Câu buột miệng của tôi cần được giải thích bằng một tiểu luận, các bạn cho tôi khất, nhưng tiểu luận không phải nghề của tôi. 

***

Cái chết là nghề của tôi là tên một tiểu thuyết của nhà văn Pháp Robert Merle, Trần Dần dịch, viết về một trong những cai ngục của một trại tập trung dân Do Thái của Đức Quốc xã. Anh ta không phải là kẻ ác độc. Anh ta chỉ muốn làm tốt nhiệm vụ được giao. Nỗi bận tâm của anh ta là làm thế nào giết được nhiều người nhất mà tốn ít công sức nhất. Anh ta coi việc làm cho người ta chết là một công việc, và vì đó là công việc, và vì anh ta là có thái độ làm việc chuyên nghiệp, nên anh ta tìm mọi cách để nâng cao hiệu suất công việc của mình. Giết bằng súng thì quá tốn đạn, lại còn phải lo cho có đủ người thực hiện việc bắn, mà số người cần phải giết thì quá nhiều. Đó là lý do anh ta nghĩ tới dùng hơi ngạt và lò thiêu.

***

Tôi đang bắt đầu đọc Gia đình bé mọn của Dạ Ngân. Cuốn này ra đời cũng hai mươi năm rồi, tôi có nghe tên nhưng chưa bao giờ chú ý. Gần đây, bạn Lê Hồng Lâm nồng nhiệt giới thiệu trên Facebook nên tôi mua về đọc. Tôi thường đọc khoảng hơn chục cuốn cùng lúc, có cuốn sẽ đọc cho xong, có cuốn bỏ dở nửa chừng, không hẳn vì dở mà vì chưa phải thời điểm thích hợp để nhập vào cuốn đó. Một lý do nữa là tôi thường xuyên rinh sách mới về nhà, cuốn nào mới được mang về cũng nhủ thầm sẽ đọc cho xong mớ này, nhưng cũng thường xuyên chuyện đó không bao giờ xảy ra. Thỉnh thoảng tôi xem lại những tấm ảnh mình chụp sách mới mua post trên FB tầm cách đây chục năm, nhận ra mình mới đọc xong chừng hai, ba cuốn trong đống sách mua hồi đó. Hôm trước gặp Bảo Chân, Chân tặng tôi hai cuốn bạn dịch, rồi nhắc tới cuốn của Khải Đơn và Phan Thúy Hà, thế là tôi lại lọ mọ đặt mua, sách tới nhà hôm qua. Vậy là tôi đọc cuốn của Khải Đơn và Gia đình bé mọn cùng một lúc. Đọc Gia đình bé mọn được mấy mươi trang, chưa thể nói gì về nó, nhưng có sự thú vị trong việc nhặt ra những từ lạ hoặc hiếm dùng: "nôn nang", "ươn yếu", "cụ bị".... "Cụ bị" thì tôi hiểu gần như là "chuẩn bị", còn hai từ kia tôi gặp lần đầu, trong ngữ cảnh có thể đoán lờ mờ nhưng chưa thật sự rõ nghĩa. Sự lấn át của văn học dịch so với văn học trong nước hai chục năm qua, cái hay thì không nói làm gì, nhưng cái dở rõ là làm cho ngôn ngữ ngày càng nghèo đi. Ngôn ngữ phải sinh sôi bởi các nhà văn chứ không phải các dịch giả. Lệ thuộc vào bản gốc, dịch giả dẫu có tài hoa bay bổng cách mấy khó lòng đi khỏi cái khuôn do bản gốc quy định. Ấy là chưa kể đa số bản dịch trên thị trường chỉ ở mức tầm tầm. Đọc tiếng Việt của các nhà văn giỏi vẫn có niềm khoái thú riêng, trước hết là ở cách họ dùng từ, chơi đùa với tiếng mẹ đẻ như thế nào. Nói đi cũng nói lại, ở thì hiện tại, không quá nhiều nhà văn Việt Nam khiến tôi khâm phục về ngôn ngữ. Cuốn của Khải Đơn tôi vừa đọc được ba truyện. Truyện thứ nhất hãy còn mang dáng dấp của một tản văn - trước đây cô cũng ra hai tập tản văn rồi, mà tản văn thì tôi không đọc, nói chung ai viết tôi cũng không đọc, đó không phải văn chương nghiêm túc. Truyện thứ hai và thứ ba trong tập Con rối hát ngoài rừng xa thì đáng chú ý hơn nhiều. Trong cả hai truyện, Khải Đơn tạo được một không khí mập mờ. Liệu đây có phải là không khí chủ đạo cho cả tập hay không thì phải đọc được hết cả tập mới biết. Trong truyện Sâu của biển, chỉ trong vài trang tôi nghĩ Khải Đơn mang đến ấn tượng sâu đậm hơn nguyên cuốn tiểu thuyết đình đám cùng đề tài, Thuyền, của Nguyễn Đức Tùng. Cuốn Thuyền hỏng về nhịp, mặc dù tác giả là nhà thơ. Thuyền được nhiều người ca ngợi vì đề tài, nhưng đề tài (alone) có bao giờ làm nên tác phẩm đâu?

***

Nhưng hai tuần qua, tôi không thật sự đọc ra đầu ra đũa cuốn sách nào, ngược lại xem được rất nhiều phim hay. Cái này nhờ ơn bạn Kỳ đã chỉ tôi cách cài app lậu lên TV. Tôi không ưa xem phim trên máy tính, mà ở VN muốn xem được phim hay chỉ có cách xem phim lậu. Nay cài được app lậu lên TV thật là sung sướng. Có một thời gian tôi đăng ký Mubi đàng hoàng, nhưng kho phim của Mubi cũng hạn chế. Nhờ app lậu tôi coi được một loạt phim hay: The Good, the Bad and the Weird; The Dreamers; Lust, Caution (xem lại mà như xem lần đầu), Stand by Me, We Need to Talk about Kevin; The Handmaiden; Oldboy - toàn phim lâu lắc nhưng phim nào cũng hay, mỗi cái hay một kiểu. Xem Stand by Me xong mới biết cậu bé trong phim là diễn viên River Phoenix, anh của Joaquin Phoenix rất nổi tiếng, mỗi tội River Phoneix nổi sớm mà chết cũng sớm, lúc mới 23 tuổi, vì ma túy quá liều.

***

When the Night is Over là một bài hát của Lord Huron. Dạo này tôi nghe ban này nhiều. Bỏ Spotify chuyển qua Apple Music khiến tôi có hứng thú nghe nhạc trở lại. Chất lượng âm thanh của Apple Music tốt hơn mà nó cũng recommend nhạc tốt hơn Spotify. Con AI của Spotify ngày càng lởm. Thời đầu dùng Spotify, tôi cứ nhong nhóng chờ sang tuần để xem nó giới thiệu gì trong mục Weekly Discovery; về sau, nó giới thiệu toàn bài chán oặt, hay có cái kiểu mình thích bài nào thì nó giới thiệu những bản cover lại chính bài ấy, mà kém hơn. Dùng Apple Music, nếu muốn chuyển những playlist đã tạo ở Spotify, có thể dùng một cái app tên là Songshifter. 

***

Là người đọc tiểu thuyết ở thì hiện tại, Việt Nam hay bất kỳ đâu, thể nào ta cũng đọc ít nhất một cuốn của Haruki Murakami. Thật khó mà cưỡng nổi sức hút của tiểu thuyết của ông nhất là những cuốn thời kỳ đầu: Rừng Na uy, Biên niên ký chim vặn dây cót, Kafka bên bờ biển... Về sau, tiểu thuyết ông không còn mới mẻ nữa, tôi nghĩ cũng không sao. Không thể đòi hỏi quá nhiều. Kể cả không còn cuốn hút bởi tiểu thuyết của ông nữa, khi đọc lại những cuốn non-fiction như Mình nói gì khi nói về chạy bộ, hay đọc cuốn mới được dịch của ông, Nghề viết tiểu thuyết, tôi vẫn đồng cảm và quý mến con người nhà văn. Tất nhiên, một phần tôi là người chạy bộ: về chuyện này thì ông truyền cảm hứng ghê gớm. Kể cả không chạy bộ thì cuốn sách về chạy bộ của ông cũng chứa đựng nhiều thứ hay ho và, chắc một số người sẽ thích, hữu ích. Đọc Nghề viết tiểu thuyết, tôi quý ông ở chỗ thành thực và không cao đạo - về chỗ này thì tôi thấy lắm người thành tựu thì chả có gì mà đi đứng nói năng lúc nào cũng như ông kễnh, rất buồn cười. Ông cho ta cảm tưởng là viết tiểu thuyết dễ lắm, ai viết cũng được, có khi tôi cũng thử cầm bút lên mà viết một cuốn. Tôi còn quý ông ở chỗ là ông nói luôn ông là người không yêu nước - về chỗ này thì tôi giống ông, theo ý nghĩa là không có tự hào dân tộc. Tôi luôn thấy tự hào dân tộc là một tình cảm kệch cỡm. Tự hào dân tộc quá lố thì còn ngu xuẩn nữa. 

Murakami còn là người rất chuyên nghiệp và kỷ luật. Ông mô tả cách viết của ông thế này: mỗi ngày ông viết 4-5 tiếng, được đúng 10 trang. Một tháng ông viết 300 trang. 6 tháng ông viết 1800 trang. Nghe dễ không! Bản thảo đầu tiên cuốn Kafka trên bờ biển là 1800 trang, sau đó ông sẽ sữa chữa 4- 5 vòng, mỗi vòng 1 tháng hoặc vài tuần, đưa cho vợ đọc, sửa tiếp, gửi cho biên tập viên, sửa tiếp. Tôi cũng áp dụng cách làm này khi dịch sách. Tất nhiên thì tôi dịch rất ít và cũng lâu lâu mới dịch một cuốn. Nhưng nếu dịch, thì tôi cũng đặt ra chỉ tiêu cho mình mỗi ngày 1-2 trang gì đó, cuốn tuần gấp 3. Nói gì thì nói, dịch là một việc mang tính kỹ thuật hơn, kiểu gì có thời gian thì cũng dịch được, không như viết là công việc đòi hỏi sáng tạo. Đặt ra chỉ tiêu mỗi ngày viết 10 trang mà duy trì suốt 6 tháng đều đặn như thế thì thật kinh khủng.

***

Thỉnh thoảng tôi thấy một vài nhà văn hồ hởi share lại bình luận về tác phẩm của mình trên Facebook. Thật lòng tôi thấy thương thương. Đã viết ra được tác phẩm, tôi nghĩ nhà văn hãy nên kiêu ngạo một chút. Cái mình cần viết, muốn viết, mình đã viết rồi. Khen, chê, bình luận là chuyện của người khác. Hãy đứng bên ngoài nó. Vả chăng, tôi nghĩ nhà văn không nên lên Facebook, cái chốn ấy chỉ tổ làm hỏng người. Nếu vẫn muốn lên FB, thì hãy tách bạch khỏi thân phận nhà văn của mình. Nếu không lập được một cái profile khác, chí ít đừng nói gì tới văn chương trên ấy. 

***

Tôi đọc xong tập Con rối hát ngoài rừng xa rồi, mất nhiều thời gian hơn dự tính. Cuốn sách hơn 200 trang một chút, gồm 14 truyện ngắn, có truyện chỉ ba bốn trang. Vậy mà đọc khá lâu mới xong. Thứ nhất là không đọc nhanh được. Khải Đơn viết cô đọng và tương đối tiết chế, mắt phải dừng lại ở mỗi câu, chữ lâu hơn. Thứ hai, mỗi truyện đọc xong phải đọc lại một lượt, đâm ra bằng đọc hai cuốn. Nói chung, tôi nghĩ Khải Đơn thành công với tập truyện này, mặc dù đây mới là lần đầu tiên cô thử sức với văn chương hư cấu. Sâu của biển chắc là truyện xuất sắc nhất tập. Tôi cũng thích truyện Khung trời vô cực, nhưng nếu là biên tập viên, tôi sẽ đề nghị cắt gọt đi chút xíu, bớt kể lại, cất bớt thông tin để truyện ép-phê hơn. Nguyễn Ngọc Tư là người rất nghề với thao tác này. Các truyện ngắn của Tư về sau này gần như không thừa từ nào, chi tiết nào.

***

Xem phim Drive My Car xong khiến tôi muốn đọc lại truyện, nhưng tìm khắp nhà không ra tập Những người đàn ông không có đàn bà, thế là đành đặt mua lại. Sách tới hôm qua, tôi đọc lại truyện Drive My Car và hai truyện khác mà đạo diễn có mượn một vài chi tiết đưa vào phim là Kino và Scheherazade. Đạo diễn tên gì không nhớ dựng phim này quá giỏi, từ một truyện không quá đặc sắc như Drive My Car (tôi thấy hai truyện kia còn ấn tượng hơn) mà có thể dựng nên một phim quá đỗi day dứt. Anh diễn viên chính diễn bằng mắt thật xuất sắc, nhất là ở cảnh khi cô vợ ngồi trên người anh vừa làm tình vừa kể chuyện, còn anh nằm ngửa gửi ánh nhìn vào hư vô - không hẳn là bàng quan hay sao nhãng, mà như kiểu vừa tự vấn vừa chất chứa một nỗi bất an đang được kiềm nén. Phim dài ba tiếng nhưng xem có cảm giác qua thật nhanh. 




Thứ Năm, 7 tháng 8, 2025

Tìm lại mặt người

Trích dịch từ bài Individual language and mass language của David Grossman trong tập Writing in the Dark.


Trong thế giới mà tôi đã mô tả, văn chương không có những đại diện có ảnh hưởng tại các trung tâm quyền lực, và tôi thấy khó có thể tin rằng văn chương có thể thay đổi được điều đó. Nhưng nó có thể đề xuất những cách khác để sống trong thế giới ấy. Sống với một nhịp điệu nội tại và một tiếp diễn nội tại đáp ứng nhu cầu cảm xúc và tinh thần của chúng ta cần nhiều hơn rất nhiều so với những gì các hệ thống bên ngoài áp đặt thô bạo lên chúng ta.

Khi đọc một cuốn sách hay, tôi trải nghiệm một sự sáng rõ bên trong: cảm thức về sự duy nhất của bản thân trở nên rõ ràng. Cái giọng nói đều đặn, chính xác chạm tới tôi từ bên ngoài làm sống dậy những giọng nói bên trong tôi, một số trong đó có lẽ đã im lặng cho đến khi giọng nói kia, hay cuốn sách cụ thể này, đến và đánh thức chúng. Và ngay cả khi cùng một thời điểm hàng ngàn người cùng đọc cuốn sách mà tôi đang đọc, thì mỗi người đều đơn độc đối diện với nó. Với mỗi người, cuốn sách ấy là một loại giấy quỳ hoàn toàn khác nhau.

Một cuốn sách hay — và số lượng như thế không nhiều, vì văn chương, tất nhiên, cũng chịu ảnh hưởng của những cám dỗ và rào cản từ truyền thông đại chúng — có thể cá nhân hóa và kéo người đọc đơn lẻ ra khỏi đám đông. Nó cho người đó một cơ hội để cảm nhận cách mà những nội dung tinh thần, ký ức, và những khả thể hiện sinh có thể nổi lên, trồi dậy từ bên trong anh ta, từ những nơi chốn xa lạ, và chúng là của riêng anh ta. Là trái ngọt từ chính cá tính của anh ta  mà thôi. Là kết quả của những tinh luyện thầm kín nhất. Và trong văn hóa đại chúng của đời sống thường nhật, trong sự ô nhiễm toàn diện của ý thức chúng ta, thật khó để những nội dung hồn ấy có thể trồi lên từ sâu thẳm nội tâm và trở nên sống động.

Ở trạng thái tốt nhất, văn chương có thể kết nối chúng ta với số phận của những con người xa lạ và khác biệt. Đôi khi, nó có thể tạo ra trong ta một cảm giác kinh ngạc khi nhận ra rằng ta đã thoát khỏi số phận của những người lạ ấy trong đường tơ kẽ tóc, hoặc khiến ta buồn bã vì đã không thực sự gần gũi với họ. Vì đã không thể vươn tay ra chạm tới họ. Tôi không nói rằng cảm xúc ấy lập tức thúc đẩy chúng ta hành động theo một hình thức nào đó, nhưng chắc chắn rằng nếu không có nó, thì sẽ không thể có bất kỳ hành động nào mang tính thấu cảm, dấn thân hay trách nhiệm.

Ở trạng thái tốt nhất, văn chương có thể tử tế với chúng ta: nó có thể làm dịu đi cảm giác bị xúc phạm vì sự phi nhân hoá mà ta phải chịu đựng khi sống trong những xã hội toàn cầu rộng lớn, vô danh. Sự xúc phạm khi ta bị mô tả bằng ngôn ngữ thô lỗ, bằng sáo ngữ, khuôn mẫu và định kiến. Sự xúc phạm khi ta trở thành — như Herbert Marcuse từng nói — con người một chiều.”

Văn chương cũng mang lại cho ta cảm giác rằng vẫn có cách để chống lại sự tùy tiện tàn nhẫn đã định đoạt số phận ta: ngay cả khi cuối Vụ án, Joseph K. bị chính quyền bắn “như một con chó”; ngay cả khi Antigone bị hành hình; ngay cả khi Hans Castorp cuối cùng cũng chết trong Núi thần — thì ta, kẻ đã đồng hành cùng họ qua những cuộc đấu tranh, vẫn khám phá ra sức mạnh của cá nhân trong việc giữ gìn phẩm giá làm người ngay cả trong những hoàn cảnh khắc nghiệt nhất. Đọc văn chương là hành vi khôi phục phẩm giá của chúng ta, khôi phục khuôn mặt nguyên sơ của ta, những khuôn mặt người, những khuôn mặt từng hiện hữu trước khi bị xóa nhòa giữa đám đông. Trước khi chúng ta bị trưng thu, bị quốc hữu hóa, và bị bán sỉ cho kẻ trả giá thấp nhất.

 

 


Thứ Ba, 5 tháng 8, 2025

Hư cấu - Một đối thoại

Dịch từ bài Fiction  - A Dialogue trong tập More Matter của John Updike.



BỐI CẢNH: Một think tank (chả hiểu think tank ở đây là gì, tạm để nguyên) vô trùng giữa sa mạc California. Những bức tường trắng cong được chia thành các hình chữ nhật bởi những hàng đinh tán hầu như không thề nhìn thấy, treo các thiết bị máy tính với dây cáp và phụ kiện; những bản in  tác phẩm của Klee, Mondrian và Escher được đóng khung; cùng những bó hoa sa mạc tí hon, mới hái, sáng lấp lánh cắm trong các bình mạ vàng gắn trên giá treo tường. Tham gia cuộc trò chuyện, một sự kiện do một nhánh đặc biệt của NASA tổ chức nhằm giải thích nền văn minh Mỹ cho sinh vật ngoài hành tinh, là Farquhar, một cây bút tạp văn ít tên tuổi từ  Indiana tới, và Chokchög, một sứ giả đến từ Sao Hỏa. Chokchög có màu nâu đỏ, bề mặt ánh kim, hình dáng giống kiến, duy chỉ nhiều chân hơn. Hệ thần kinh đã được phát triển qua hàng thiên niên kỷ để điều phối số lượng chân phong phú ấy (mỗi chân có nhiều khớp gối xoay linh hoạt) cùng ba chiếc ăng ten linh hoạt mọc ra từ đầu sinh vật ngoài hành tinh này, theo các nhà tiến hóa học, là lời giải cho trí tuệ phi thường của nó; ở loài Homo sapiens, sự phát triển tương ứng có thể được truy về ngón cái đối kháng, tầm nhìn hai mắt và tư thế đứng thẳng.

Farquhar ngồi trên một chiếc ghế hình cầu bọc da nhân tạo Naugahyde; Chokchög thì ở trên sàn, trừ khi thảo luận trở nên đặc biệt sôi nổi. Cả hai đều đeo micro và tai nghe truyền tải bản dịch tức thời. Vì sinh vật Sao Hỏa không có tai, tai nghe của nó được cắm vào một ổ cắm điện bốn chấu khoan trực tiếp vào hộp sọ, nơi không có dây thần kinh.

CHOKCHÖQ: Hãy giải thích lại cho tôi, hỡi anh bạn Trái Đất hiếu khách, về văn chương hư cấu. Có phải nó là chuyện về những người chưa từng tồn tại nhưng lại thường rất giống với những người mà tác giả từng biết rõ?

FARQUHAR: Không hẳn vậy, bạn ngoài hành tinh của tôi. Nói thế này đi: Nhân vật hư cấu là sự khách thể hóa những ấn tượng có thực về cuộc sống do tác giả tiếp nhận. Bởi vì họ không có thực, tác giả tự do xâm phạm sự riêng tư của họ và thuật lại cho ta những suy nghĩ, cảm giác của họ, bất kể thoáng qua hay vụn vặt thế nào. Do vậy ông ta – hay bà ta, vì giống cái của loài chúng tôi có khả năng sản xuất văn chương hư cấu một cách xuất sắc – cung cấp cho độc giả hình ảnh của cuộc sống gần gũi và sống động hơn bất kỳ thể loại nào bị ràng buộc bởi thực tại, chẳng hạn lịch sử, xã hội học, hay ngay cả tự truyện, có thể mang tới. Văn chương hư cấu còn thật hơn cả thật, ta có thể nói vậy.

CHOKCHÖQ: Ta có thể nói vậy nếu ta chấp nhận lượng hóa thứ không thể định lượng.

FARQUHAR: Xin lỗi, chúng ta hơi phải phụ thuộc vào máy dịch ở đây. Hãy xem một vài ví dụ. (Các kỹ thuật viên của think tank vận bộ áo liền quần màu xám dịch chuyển các sợi dây cáp và nạp vào hệ thần kinh của Chokchög  văn bản số hóa cuốn Ulysses của James Joyce và Chiến tranh và Hòa bình của Bá tước Leo Tolstoy. Tín hiệu truyền đi, kèm theo tiếng tích nhẹ, mất mười bảy giây. Mí mắt của Chokchög, dịch chuyển theo chiều ngang, chớp hai lần.)

CHOKCHÖQ: Napoleon này là người thật à? Dublin này là thành phố thật à?

FARQUHAR: Đúng vậy, nhưng cả Napoleon lẫn Dublin đã được tái tạo lại; vấn đề không phải là thông tin. Văn chương hư cấu hướng đến các nơ-ron phức tạp hơn các nơ-ron thu thập dữ liệu. Văn chương hư cấu nhằm tạo ra ảo giác về trải nghiệm, nhờ vậy ta biết sống là như thế nào.

CHOKCHÖQ: Lạ nhỉ. Trên Sao Hỏa, chúng tôi biết chắc rằng mình đang sống ngay khi các điều dưỡng mớm cho chúng tôi  món cháo đã được nữ hoàng nhai qua,  khi còn đang ở giai đoạn ấu trùng.

FARQUHAR: Chính xác.  Văn chương hư cấu là trải nghiệm đã được ai đó nhai qua rồi. Tiểu thuyết là trải nghiệm đã được ai đó nhai lại rồi. Đây, hãy thử những món này để có ý niệm về kích cỡ. ( Middlemarch Bà Bovary của Flaubert được nạp. Mười hai giây tiếng tích nhẹ như lông vũ).

CHOKCHÖQ:  Tôi hiểu rồi. Văn chương hư cấu viết về những khó khăn của việc làm phụ nữ. Ở Sao Hỏa, chỉ các nữ hoàng của chúng tôi mới được phép có cái tôi. Chúng tôi thấy rằng nhiều hơn một nữ hoàng cho mỗi một triệu công nhân và điều dưỡng làm mất cân bằng xã hội.

FARQUHAR: Khoan đã, anh bạn -  văn chương hư cấu cũng có thể viết về đàn ông mà. Để xem – (Robinson Crusoe, Đi tìm thời gian đã mất Vụ án được chuyển qua đầu tiếp nhận của người Sao Hỏa. Tròn bốn mươi giây tích tắc, trong thời gian đó cậu ta nhấp nháy nhanh hơn và cái ăng ten nhiều khúc của cậu ra thò ra để ngắt một bó hoa sa mạc trên tường.)

CHOKCHÖQ: Tôi hiểu rồi. Thật lắm lo âu. Sự bất ổn của đàn ông trong vũ trụ là đề tài ở đây.

FARQUHAR: Tôi ghét phải tỏ ra tranh cãi, anh bạn biết đấy, nhưng thực ra văn chương hư cấu không chỉ có một đề tài đâu – nó nói về tất cả và không gì cả cùng một lúc. Nó là lời khẩn cầu với linh hồn toàn thể. Nó hiện sinh, nó mang tính bản thể, nó ngẫu nhiên, nó siêu việt. Nó trải rộng như cuộc đời, vừa cao lại vừa sâu, vừa nông cạn vừa đắng cay  thậm chí lại còn tăm tối nữa. Đây, hãy thay đổi nhịp độ một chút. Người Pháp gọi những món này là nouvelles. (Toàn bộ truyện ngắn của Anton Chekhov, Katherine Mansfield, Guy de Maupassant, Machado de Assis và Ernest Hemingway được tải trong hai mươ mốt giây. Bằng một cử chỉ  bất khả ngăn chặn đầy bất ngờ, Chokchög nhét những bông hoa sa mạc vào mặt và bắt đầu nhai. Cái hàm của cậu ta, cũng như mí mắt, di chuyển theo chiều ngang. Mũi cậu ta cứng và có hình lưỡi cày, từ việc đào các thành phố dưới lòng đất.)

CHOKCHÖQ: Thật nhiều tính người. Nhân loại dường như là một giống loài trong vũ trụ không bao giờ chán việc ngắm mình trong gương.  Một tấm gương khá mềm, trong trường hợp văn chương hư cấu. Nó thể hiện rất ít quá trình tiêu hóa, các quy luật vật lý, và hoạt động lao động sản xuất của giai cấp vô sản, nhưng lại chú tâm bất thường đến chuyện trăng gió và tán gẫu. (Ăng ten của cậu ta  đang định vị một bó hoa khác trên tường.)

FARQUHAR: Hượm đã, anh bạn. Yêu đương và chuyện gẫu thì có gì sai? Khiến cho thế giới xoay tròn, phải không?  Cái điều về văn chương hư cấu mà cậu không hiểu đó là, nó ngon lành.

CHOKCHÖQ: (vừa xơi xong bó hoa thứ hai; những đốm hồng và xanh lam của mô cây còn dính vào hàm dưới sáng bóng ánh kim): Ngon hơn, có lẽ, đối với người viết hơn là người đọc. Tôi được biết là cứ mỗi một người đọc trên hành tinh này lại có tới ba người viết tiềm năng.

FARQUHAR: Tóm được cậu rồi, anh bạn siêu âm lịch Ferdinand của tôi. Những lý thuyết phê bình mới nhất của chúng tôi cho thấy rằng sự phân biệt giữa người viết và người đọc hoàn toàn là ảo tưởng. Người viết chính là người đọc, đọc những gì mình viết khi anh ta viết, quan sát văn bản tự tạo ra, và người đọc trong khi đọc lại tạo ra câu chuyện ở những cảnh trí mình tưởng tượng ra, những gương mặt mình nhìn thấy: đó là câu chuyện cuộc đời anh ta! Không có gì giống như văn chương hư cấu về sự xuyên giao vi tế; nó mở rộng những cảm thông và cho ta sống nhiều cuộc đời hơn cuộc đời của chính mình. Đó là cuộc sống dưới kính hiển vi, từng lát một, nhưng cũng là cuộc sống trên thiên giới, giữa những vì sao. Này! (trở nên phấn khích) – nếu các cậu cũng có chút văn chương hư cấu trên Sao Hỏa thì các cậu đã ra khỏi các đường hầm nhếch nhác, lắm luật lệ từ lâu rồi, tới chỗ để chúng tôi có thể nhìn thấy các cậu, và các cậu đã không làm nổ tung cái máy dò Magellan năm nọ. Nói thật là các cậu sẽ không độc ác, bài ngoại và hoang tưởng đến vậy.

CHOKCHÖQ: (dùng hai chiếc xúc tu linh hoạt ôm chặt đầu Farquhar và há rộng cái miệng màu nâu đỏ của mình đến mức đáng sợ): Ngươi đã xúc phạm lối sống của người Sao Hỏa chúng ta! (Các kỹ thuật viên cảnh giác lập tức phóng ra các luồng điện cực mạnh, kéo dài sáu giây , qua cáp máy tính và làm sinh vật ngoài hành tinh choáng váng. Chokchög ngã ngửa ra, những chi thể yếu ớt vẫy vẫy, phát ra những âm thanh khò khè mơ hồ mà máy dịch thuật truyền tải thành:)  Ồ! Thứ văn hư cấu đó thật sự choáng thật đấy! Nhưng ta vẫn không chắc người Trái Đất các ngươi có thể xuất khẩu được nó.
 
 


Thứ Sáu, 1 tháng 8, 2025

Top 10 của John Updike

Tôi hầu như không đọc nổi tiểu thuyết của John Updike, tất nhiên với những cuốn tôi có dịp chạm tới. Tôi vui vẻ move on qua các tác giả chứ không cáu bẳn, phàn nàn gì. Chuyện tôi không đọc được ông là do tôi chứ không phải do ông. Ông hẳn nhiên là một tên tuổi lớn.

Nhưng các bài tiểu luận, điểm sách, tản văn, viết ngắn của ông thì tôi thích. Chúng hài hước và uyên bác. Tôi có cuốn More Matter của ông 900 trang, gồm vài trăm bài viết ngắn, về mọi thứ trên đời. Lâu lâu tôi đọc một chút, lâu lâu tôi thuổng một miếng.

Sau đây  là danh sách 10 tác phẩm văn học vĩ đại nhất thiên niên kỷ thứ hai, theo John Updike. 

1/ Summa Theologica của Thomas Aquinas, thế kỷ XIII;

2/ The Divine Commedy của Dante Alighieri, thế kỷ XIV, bản dịch tiếng Việt là Thần khúc, không rõ đã dịch hết chưa;

3/ Don Quixote của Miguel de Cervantes Saavedra, thế kỷ XVII, đã có ít nhất hai bản dịch tiếng Việt;

4/ Comedies, Histories, and Tragedies của William Shakespeare, thế kỷ XVII, dịch cũng nhiều nhưng chắc chưa hết;

5/ Candide của Voltaire, thế kỷ XVIII, đã có bản dịch;

6/ The History of the Decline and Fall of the Roman Empire, thế kỷ XVIII, hình như đã dịch vài tập. Không rõ tại sao Updike lại coi cuốn này là tác phẩm văn học;

7/ Chiến tranh và hòa bình của Leo Tolstoy, thế kỷ XIX, đã  có hai bản dịch;

8/ Lũ người quỷ ám của Fyodor Dostoevsky, thế kỷ XIX, đã dịch;

9/ Đi tìm thời gian đã mất của  Marcel Proust, thế kỷ XX, đã dịch được hai tập;

10/ Ulysses của James Joyce, thế kỷ XX, chưa dịch.

Ông cũng tự nhận là danh sách này Eurocentric.

Thứ Tư, 30 tháng 7, 2025

Chuyện kể về tình yêu và bóng tối - Amos Oz

Đọc xong Chuyện kể về tình yêu và bóng tối từ hai tuần trước mà chưa viết gì về nó, tôi cảm thấy có lỗi với cuốn sách, mặc dù chưa biết mình có thể viết gì. Tuy vậy, đây là một trong vài cuốn sách ấn tượng mạnh nhất với tôi trong năm đọc sách này (năm đọc sách cũng kiểu như năm tài chính ấy, năm đọc sách của tôi trùng với năm dương lịch vì tôi dùng Goodreads để track những gì mình đọc từ hơn chục năm qua, để mỗi dịp cuối năm có thể nhìn lại năm qua mình đã đọc gì). Ngoại trừ những cuốn đọc lại kiểu như Trăm năm cô đơn, Âm thanh và cuồng nộ hay Người thủy thủ bị biển khước từ, thì những cuốn đáng kể nhất tôi đọc được từ đầu năm tới giờ gồm Tuyết xuân của Mishima, Nostalgia của Mircea Cartarescu, Death in Spring của Merce Rodoreda (một cuốn khác mà tôi cũng cần ghi lại đôi dòng) và cuốn này, Chuyện kể tình yêu và bóng tối (CKTYBT).

CKTYBT là hồi ký của Amos Oz, nhà văn Israel. Trước giờ tôi rất lơ mơ về lịch sử Israel, Palestine, nghe tin tức thì nhiều nhưng chưa bao giờ để tâm vì sao ở đó liên miên đánh nhau, ai đánh nhau với ai và vì sao. Trong cuốn này, Amos Oz kể chuyện cá nhân và gia đình, nhưng lịch sử cá nhân và gia đình ông gắn bó chặt chẽ với lịch sử Israel, đâm ra tôi biết đôi chút về lịch sử quốc gia này và đọc xong có động lực để tìm hiểu thêm tí chút, hiểu hơn về cái gì đang diễn ra ngày nay tại Gaza. Cha mẹ Amos Oz là người Do Thái từ Đông Âu di cư về Palestine trong những năm đầu thế kỷ XX, một mặt trốn tránh phong trào bài Do Thái đang lên cao (rất nhiều bà con họ hàng của họ là nạn nhân), một mặt theo đuổi giấc mơ phục quốc, tạo dựng nên một quốc gia Israel trên đất Palestine. Cả hai người đều giỏi giang, yêu văn chương, triết học, cha ông thông thạo nhiều thứ tiếng, ước mơ trở thành giáo sư nhưng chỉ thành thủ thư, mẹ ông đắm chìm trong Chekhov, Tolstoy, Maupassant..., còn bản thân Amos Oz thì bộc lộ nhiều phẩm chất ưu tú từ bé. Cứ ngỡ họ sẽ là một gia đình hạnh phúc, nhưng không hiểu vì sao, không thật sự rõ vì sao, hôn nhân giữa cha mẹ Amos Oz cứ chuội dần đi, trở thành không thể chịu đựng nổi đối với mẹ của Amos Oz. Mẫu hình hôn nhân này sau này có lẽ được Amos Oz đưa vào cuốn Michael của tôi, đã có bản dịch tiếng Việt từ cách đây nhiều năm. Người mẹ của Amos Oz rồi sẽ tự tử khi ông mười hai tuổi. Tất nhiên đó là một cú sốc đối với cậu con trai. Sau cái chết của mẹ, mối quan hệ của Oz với cha không bao giờ như trước nữa. Ông  đổi họ: Oz là cái họ ông chọn, nghĩa là sức mạnh, họ gốc của ông là Klausner, đồng thời rời nhà dọn đến ở tại một kibbutz, một dạng công xã hay hợp tác xã của Israel, tất nhiên phức tạp hơn vì mọi người sẽ sống chung, ăn ở tập thể, không có sở hữu cá nhân. 

Đoạn trên là một tóm tắt rất tồi của hơn 640 trang sách khổ lớn. Thời buổi này đọc được hết ngần ấy chữ trong vòng hai tuần cũng là một thành tích đáng tự hào. Ừ, tôi đang tự hào. Tất nhiên nếu muốn tìm hiểu về lịch sử Israel thì Google hay một con AI nào đó sẽ cho ra ngay một bản tóm tắt, chả phải vật vã với một cuốn sách dày cộm để làm gì. Tuy nhiên, câu chuyện trong CKTYBT trên hết là một câu chuyện cá nhân, câu chuyện cá nhân mới là đáng kể và đáng đọc, những thứ khác chỉ là collateral damages. Cái có thể giữ tôi lại suốt hơn 600 trang mà không bỏ dỡ, nhảy qua những thứ khác là khả năng kể chuyện của Amos Oz và những thứ nhỏ nhỏ mà khi đọc tôi thấy khoái chết đi được.

Thứ nhỏ nhỏ về việc chọn mua pho mát:

Amos Oz viết như thế này về việc băn khoăn giữa việc chọn mua pho mát Ả Rập hay Do Thái. Về bổn phận thì phải mua pho mát Do Thái, tuy nhiên, pho mát Ả Rập thì rẻ hơn, lại vâng lời Kinh thánh. "Một mặt, giọt máu đào hơn ao nước lã, nên bổn phận của chúng tôi là mua pho mát Tnuva và chỉ Tnuva mà thôi; mặt khác, Kinh thánh dạy cần "một luật pháp cho cả ngươi lẫn ngoại kiều sinh sống giữa các ngươi", nên đôi lúc cũng cần mua của mấy ông Ả Rập láng giềng,"vì các ngươi đã là ngoại kiều ở đất Ai Cập". Thêm nữa, thử tưởng tượng xem Tolstoy sẽ khinh miệt chừng nào những kẻ đi mua pho mát mà lại chọn loại này chứ không phải loại khác chỉ vì khác biệt tôn giáo, quốc tịch hay sắc tộc! Các giá trị phổ quát để đâu? Chủ nghĩa nhân đạo đâu rồi? Tình hữu ái giữa người với người nữa? Nhưng lại nữa, thật thấp hèn làm sao, yếu đuối và bủn xỉn chừng nào nếu đi mua pho mát Ả Rập chỉ vì bớt được vài đồng mil, chứ không phải pho mát của những người tiền phong đã vì chúng tôi một nắng hai sương lao động!"  Chỉ nội bằng cái chuyện giằng xé giữa việc mua pho mát Ả Rập hay Do Thái ở phần đầu cuốn sách, Amos Oz là set luôn cái tone cho việc kể về những mâu thuẫn Ả Rập - Do Thái về sau. 

Thứ nhỏ nhỏ về sách:

Về tình yêu của cha mình đối với sách: "Ba tôi với sách của ông có một mối quan hệ gần như thể xác. Ông thích cầm vào sách, vuốt ve sách, ngửi sách. Ông có khoái cảm gần như xác thịt đối với sách: ông không thể ngăn mình với lấy sách, sờ soạng sách, cả sách của người khác cũng không từ. Và thời đó sách quả là quyến rũ hơn ngày nay nhiều lắm, thứ sách rất hợp để ngửi, để ve vuốt, mân mê. Có những sách chữ vàng trên bìa da thơm nức, hơi thô, sờ vào muốn nổi da gà, cứ như đang sờ mó một thứ gì riêng tư, cấm đoán, một thứ gì chính nó cũng sởn lên, run lên khi bị đụng vào. Và còn những sách khác đóng bìa cứng bọc vải, dán bằng thứ keo có mùi nồng nàn làm sao. Mỗi cuốn sách đều có mùi hương riêng, bí mật và khiêu khích. Đôi khi vải tuột khỏi bìa, như một chiếc váy lơi lả, và thật khó mà cưỡng lại khỏi ngó vào khoảng tối giữa tấm thân và lớp áo, hít mà cái mùi váng đầu kia." Chưa bao giờ tôi đọc được ở đâu một đoạn viết về sách mà sexy, gợi tình như thế. Thử thay từ "cuốn sách" bằng "cô gái" xem sao.

Nhiều thứ nhỏ nhỏ khác, và nhiều thứ nhỏ nhỏ khác nữa. Gõ lại những đoạn tôi thích sẽ hơi nhiều và khá mỏi tay. Tốt nhất nếu quan tâm thì nên đọc ngay sách.

Cần nói thêm, cuốn sách này do An Lý dịch. Bản dịch của cô thật xuất sắc, cho dù dịch vòng qua tiếng Anh chứ không phải tiếng Hebrew. Nếu không nhờ bản dịch chưa chắc tôi đã thích cuốn sách đến vậy.

Thứ Năm, 24 tháng 7, 2025

Mạng xã hội

Trên mạng xã hội, tôi quan sát thấy nhiều người có tố chất tốt, tư duy tốt, viết lách tốt và thực sự đã có nhiều bài viết chất lượng. Nếu họ điều tiết được cái đầu ra của họ, tập trung vào một vài mảng họ hiểu biết rành rẽ nhất, thì công chúng có lẽ được lợi và biết ơn họ rất nhiều. Tuy nhiên, không rõ do nghiện mạng xã hội hay ngáo like, vấn đề gì họ cũng nhảy vào cho ý kiến, từ đó không tránh khỏi hời hợt, tự mâu thuẫn, hay tiêu chuẩn kép. Viết không vì nhu cầu tự thân mà viết vì muốn thu hút đám đông trước sau gì cũng hỏng. Bài thuốc cho những người như vậy, theo tôi là berberin.

Thứ Tư, 23 tháng 7, 2025

Rời

 + Một cuốn sách phải tạo nên một nhịp điệu. Nhịp điệu ấy có thể nhanh, có thể chậm, có thể biến hóa, nhưng không được giật cục. Tác giả phải quán xuyến được nhịp điệu. Nhịp điệu hỏng là sách hỏng. 

+ Không viết về những cuốn sách dở. Đọc sách dở đã là một tra tấn, viết về sách dở là tra tấn gấp đôi, gấp ba. Xin được thanh thản.

+ Phải biết cảnh giác với đám đông, và cảnh giác với chính mình.

+ Đòi hỏi mọi người phải ứng xử giống nhau hay giống mình là một hình thức của sự độc đoán.

Chủ Nhật, 13 tháng 7, 2025

Hemingway trả lời phỏng vấn

Bài trả lời phỏng vấn của Hemingway cho The Paris Review là một trong những bài sớm nhất, và theo tôi nằm trong hàng đặc sắc nhất các bài phỏng vấn của tạp chí này. Nếu siêng và rảnh thì tôi sẽ dịch hết ra. Còn lúc chưa siêng và chưa rảnh lắm, tôi tóm tắt một ít dưới đây:

+ Hemingway có thói quen viết vào lúc sáng sớm, khi chưa có ai quấy rầy. Ông bắt đầu bằng việc đọc lại những gì đã viết, và bởi vì hôm trước ông dừng lại ở chỗ biết rằng cái gì sẽ xảy ra kế tiếp [trong câu chuyện], ông sẽ tiếp tục từ chỗ đó. Trình tự này lặp lại mỗi ngày. "Khi bạn ngừng lại bạn trống rỗng, nhưng cùng lúc không bao giờ trống rỗng mà tràn đầy, như khi làm tình với người bạn yêu. Không có gì có thể làm tổn thương bạn, không có gì xảy ra, không có gì có ý nghĩa gì cho đến ngày kế tiếp khi bạn lại tiếp tục làm việc đó. Chờ cho đến ngày hôm sau là thứ khó nhất cần vượt qua."

+ Được hỏi Hemingway có thường viết đi viết lại không, ông trả lời cũng tùy. Nhưng trang cuối của Giã từ vũ khí, ông viết lại ba mươi chín lần. 

+ "Bạn có thể viết bất kỳ khi người ta để yên cho bạn, không xen ngang... Nhưng chắc chắn khi đang yêu là viết hay nhất."

+ Hỏi: Ông coi đâu là hình thức đào tạo tốt nhất đối với người muốn trở thành nhà văn:
Đáp: Anh ta hãy  tự treo cổ bởi anh ta thấy rằng viết giỏi khó đến mức bất khả. Rồi hãy cắt dây không nương tay và rồi anh ta hãy tự buộc mình phải viết tốt đến mức có thể cho hết phần đời còn lại. Ít ra khi đó anh ta có thể bắt đầu với chuyện treo cổ. (Câu trả lời này, nếu tôi nhớ không nhầm, có được nhắc lại trong cuốn Never Any End to Paris của Enrique Vila-Mata.)

+ Được hỏi khi viết ông có bị ảnh hưởng bởi những gì đang đọc không, câu trả lời của ông đại ý chỉ có Ulysses của James Joyce.

+ Khi được hỏi về ảnh hưởng của những người đương thời lên tác phẩm của mình, câu trả lời của về Gertrude Stein rất thú vị: " Cô Stein viết khá dài và khá không chính xác về ảnh hưởng của cô ta đối với tác phẩm của tôi. Cô ta cần làm như vậy sau khi cô đã học cách viết thoại trong một cuốn sách có tên là Mặt trời vẫn mọc."

+ Khi được hỏi ông học viết nhiều nhất từ ai, Hemingway liệt kê một danh sách rất dài: Mark Twain, Flaubert, Stendhal, Chekhov..., đáng chú ý ông liệt kê rất nhiều họa sĩ. Ông nói ông từ các họa sĩ nhiều chẳng kém từ các nhà văn.

+ Được hỏi liệu tiểu thuyết của ông có chứa các biểu tượng không, ông trả lời: "Tôi cho là có vì các nhà phê bình cứ tìm ra hoài. Nếu ông không phiền, tôi không thích nói chuyện về chúng và bị hỏi về chúng. Viết sách viết truyện mà không bị yêu cầu giải thích đã là khó lắm rồi. Giờ còn giảng giải nữa thì các chuyên gia giải thích còn việc đâu mà làm. Nếu đã có năm, sáu chuyên gia giỏi thích rồi thì tôi xen vào công việc của họ làm gì? Hãy đọc bất cứ thứ gì tôi viết cho vui thôi. Rồi nếu bạn tìm thấy thứ gì [trong khi đọc], ấy là thứ đo lường nỗ lực đọc của bạn."

+ Về style: Những gì những kẻ a-ma-tơ gọi là style thông thường chỉ là sự kỳ quặc không thể tránh khỏi (unavoidable awkwardnesses) trong việc nỗ lực làm ra những thứ chưa tồn tại trước đó. Gần như không có tác phẩm cổ điển nào giống những tác phẩm cổ điển khác trước đó. Thoạt tiên người ta chỉ nhìn thấy sự kỳ quặc. Rồi mọi người nghĩ rằng sự kỳ quặc đó là phong cách rồi bắt đầu bắt chước. Ấy là điều đáng tiếc.

+ Nếu nhà văn ngừng quan sát thì coi như ông ta đã xong phim.

+ Nguyên lý tảng băng trôi rất nổi tiếng được đề cập trong bài phỏng vấn này: Đại khái cứ mỗi phần viết ra thì có bảy, tám phần ẩn đi. Nếu một nhà văn bỏ đi vài thứ bởi vì anh ta không biết, không hiểu rõ, thì nó sẽ tạo ra lỗ hổng trong câu chuyện. 

+ "All you can be sure  about a political-minded writer is that if his work should last you will have to skip the politics when you read it."

+ "Tài năng cốt lõi nhất của một nhà văn giỏi là một máy dò cứt nội tại, chống sốc. Đây là ra-đa của nhà văn và tất cả nhà văn lớn đều có nó."


Thứ Năm, 12 tháng 6, 2025

Không có gì

Hai tuần liên tiếp bận như cún, một tuần đi họp ở Barcelona, bay đi bay về cộng vô số cuộc họp to nhỏ khác, không có thời gian sờ tới blog, nhìn lại số view hằng ngày vẫn đều đều thế mới tài! Nghĩa là đâu đó vẫn có người lục lọi blog này kể cả khi không có bài mới. Đặt gạch dưới đây những thứ muốn viết, nhưng chưa có thời gian để viết:

+ Tiếp tục tóm tắt các bài phỏng vấn quan trọng trên The Paris Review, nếu có thời gian thì dịch hẳn một vài bài, chẳng hạn bài Faulkner;

+ Viết về các cuốn mới đọc gần đây: Âm thanh và cuồng nộ (phù, cuối cùng đã thực sự đọc xong); Death in Spring, The Tunnel.

+ Bonus tấm ảnh một kiệt tác khuân từ Barcelona về:





Thứ Sáu, 30 tháng 5, 2025

James Baldwin trả lời phỏng vấn

Theo chỗ tôi biết, hiện diện của James Baldwin trong tiếng Việt còn khá ít ỏi: một bản dịch Điệu buồn cho Charlie của Sài Gòn trước 1975 (Phan Lệ Thanh dịch - PLT cũng là người dịch Goodbye, Columbus của Philip Roth) , bản dịch Căn phòng của Giovanni (Duy Đoàn dịch) gần đây do Tao Đàn in; tôi cũng từng nhìn thấy bản dịch của If Beale Street Could Talk có lẽ dịch thời bao cấp. Hình như chỉ có thế. James Baldwin viết nhiều, cả tiểu thuyết và tiểu luận đều có những cuốn xuất sắc. Bài phỏng vấn James Baldwin do The Paris Review thực hiện năm 1984. Dưới đây là những điểm đáng lưu ý:

+ James Baldwin có một thời tuổi trẻ sống ở Paris, chính thời gian ấy tạo cảm hứng cho ông viết tiểu thuyết đầu tay Căn phòng của Giovanni. Khi đến Paris, ông không biết một chữ tiếng Pháp nào. Lý do ông chọn Pháp là, thực ra ông không chọn Pháp, mà chỉ muốn thoát khỏi New York. Là người da đen sống ở New York thời kỳ đó, theo ông chỉ có hai lựa chọn: giết hay bị giết.

+ James Baldwin học cách viết từ ai?  Ông đọc rất nhiều. Hai nhà văn có ảnh hưởng lớn đến ông là Dostoievski và Balzac, đặc biệt là Balzac.

+ TBC


Thứ Hai, 19 tháng 5, 2025

Không còn tình yêu - Javier Marías

Truyện ngắn của Javier Marías


Rất có thể mục tiêu chính của các hồn ma, nếu họ vẫn tồn tại, là ngăn cản mong muốn của những người còn sống, hiện ra khi sự có mặt của họ không được chào đón và lẩn biến đi nếu có ai trông chờ hay đòi hỏi. Tuy vậy, các tài liệu mà Ngài Halifax và Ngài Rymer thu thập được trong những năm 1930 cho ta biết, đôi khi, có những thỏa thuận giữa ma và người.


Một trong những trường hợp khiêm nhượng và cảm động nhất là chuyện về một bà cụ sống ở thị trấn Rye, khoảng năm 1910: một nơi chốn phù hợp cho những mối quan hệ lâu bền, vì cả Henry James lẫn E.F. Benson đều từng sống ở Rye độ vài năm trong cùng ngôi nhà có tên là Lamb House, (họ sống ở đó trong những quãng thời gian khác nhau, Benson thậm chí còn trở thành thị trưởng), hai nhà văn rất mực bận rộn với những chuyến viếng thăm và sự trông đợi, hay có lẽ, niềm hoài nhớ ấy. Thời trẻ, bà cụ này (nhũ danh Molly Morgan Muir) là người hầu cho một quý bà cao tuổi, giàu có; Molly giúp việc cho bà, gồm cả việc đọc tiểu thuyết để bà dịu nỗi buồn chán vì bà chẳng có nhu cầu gì mấy mà lại gánh chịu cảnh góa phụ từ sớm và không thể tránh khỏi: theo người dân trong thị trấn, bà Cromer-Blake đã phải chịu đựng sự thất vọng ngang trái thi thoảng trong tình yêu sau cuộc hôn nhân ngắn ngủi, và có lẽ điều này - hơn là cái chết của ông chồng ít được hay hoàn toàn không được nhớ tới - đã khiến bà có vẻ cáu bẳn và thu mình vào cái tuổi mà những phẩm chất ấy ở một phụ nữ không còn hấp dẫn hay duyên dáng hay là đối tượng đùa cợt nữa. Sự chán nản khiến bà uể oải đến nỗi bà gần như không thể tự mình đọc cái gì một mình trong im lặng, vì vậy bà sai người hầu đọc to cho bà nghe những chi tiết về các chuyện tình và cảm xúc mà với mỗi ngày trôi qua - và chúng trôi qua rất nhanh và đơn điệu - dường như càng xa cách hơn căn nhà ấy. Bà luôn lắng nghe thật lặng lẽ, tuyệt đối đắm chìm trong câu chuyện, và thảng hoặc lắm mới yêu cầu Molly Morgan Muir đọc lại một đoạn hay một mẩu đối thoại mà bà không muốn giã từ mà trước hết không cố tỏ ra lưu luyến. Mỗi khi Molly đọc xong, nhận xét duy nhất của bà là: “Molly, giọng của cô thật dễ thương. Với chất giọng đó cô sẽ tìm thấy tình yêu.”


Chính trong những buổi đọc ấy hồn ma của ngôi nhà xuất hiện: mỗi tối, khi Molly đang đọc những câu văn của Stevenson, Jane Austen, Dumas hay Conan Doyle, cô có thể nhận ra hình dáng một chàng trai trẻ, thuần hậu, một anh chàng vững chải. Lần đầu thấy anh, đứng tì hai khuỷu tay trên lưng ghế bà già đang ngồi, như thể anh ta đang chăm chú lắng nghe truyện cô đang đọc, cô suýt rú lên vì sợ hãi. Nhưng chàng trai trẻ ngay lập tức nhấc một ngón tay lên môi trấn an, ra hiệu cô cứ tiếp tục và đừng tiết lộ sự có mặt của anh. Anh có một gương mặt hiền lành, và một nụ cười bẽn lẽn thường trực trong đôi mắt giễu cợt, thỉnh thoảng nhường chỗ cho, giữa những đoạn u sầu, vẻ nghiêm túc ngây thơ và đầy cảnh giác của một người không rành rọt cách phân biệt giữa cái có thực và cái tưởng tượng. Cô gái nghe theo, cho dù trong ngày đầu tiên đó, cô không thể không ngước lên quá thường xuyên nhìn qua cái chỏm trên đầu bà Cromer-Blake, người cũng nhìn lên theo, như thể tự hỏi một cái mũ giả định nào đó đang bị lệch hay như thể đèn không đủ sáng. “Gì thế, cô bé?” bà nói, hơi bực mình. “Sao cô cứ ngước nhìn cái gì hoài vậy?” “Không có gì ạ,” Molly Muir đáp, “chỉ là cách cháu cho mắt nghỉ ngơi trước khi quay lại cuốn sách thôi. Đọc lâu thế này làm cháu mỏi mắt.” Chàng trai khăn quấn quanh cổ khẽ gật đầu và cử chỉ đó có nghĩa là cô gái sau này có thể tiếp tục thói quen ngước nhìn và nhờ đó ít ra có thể thỏa mãn con mắt tò mò của mình. Vì, kể từ đó, đêm nào cũng thế, trừ rất ít ngoại lệ, cô đọc cho bà già mà cũng là đọc cho anh, mà bà già chưa bao giờ ngoảnh lại hay khám phá ra sự hiện diện của chàng trai trẻ.


Chàng trai không nấn ná hay xuất hiện vào bất cứ lúc nào khác, do đó trong suốt bao năm trời Molly Muir chưa bao giờ có cơ hội nói chuyện với anh hay hỏi anh là ai hay từng là ai hay tại sao anh lại nghe cô đọc sách. Cô ngẫm tới khả năng anh biết đâu là nguyên do của sự thất vọng trong tình yêu bị cấm đoán mà bà chủ của cô gánh chịu đâu đó trong quá khứ, nhưng bà chủ chưa bao giờ chia sẻ bí mật nào, bất chấp những lời bóng gió của những trang sách được đọc to ấy và của chính Molly trong những cuộc trò chuyện chậm rãi, trong đêm suốt cả nửa cuộc đời. Có lẽ tin đồn là không đúng và bà chủ chẳng có gì đáng để kể lại, ấy là lý do tại sao bà đòi nghe những câu chuyện xa xôi nhất, lạ lẫm nhất và khó xảy ra nhất. Hơn một lần, Molly có ý định làm điều tử tế, nói cho bà nghe chuyện gì diễn ra sau lưng bà để bà chia sẻ với cô niềm hào hứng nho nhỏ hằng ngày, kể cho bà nghe về sự hiện diện của một người đàn ông giữa những bức tường vô tính, trầm tư trong đó chỉ có tiếng vọng, đôi khi nguyên cả ngày đêm, của giọng họ; giọng của bà chủ ngày càng già hơn, lẫn thẫn hơn, còn giọng của Molly Muir, mỗi sáng, bớt đẹp đi một tí, yếu ớt hơn và nhợt nhạt hơn, và trái ngược với dự đoán, không mang đến tình yêu cho cô, ít nhất không phải là một thứ tình yêu sẽ ở lại, một thứ tình yêu có thể cầm nắm được. Nhưng bất cứ khi nào cô định đầu hàng sự quyến rũ đó, cô sẽ đột nhiên nhớ lại cử chỉ ra hiệu im lặng của chàng trai - ngón tay trên môi, thỉnh thoảng lặp đi lặp lại với ánh nhìn hơi có vẻ trêu chọc - và thế là cô giữ im lặng. Cô không muốn chọc giận anh chút nào. Có lẽ ma cũng dễ chán chường như góa phụ. 


Sau khi bà Cromer-Blake mất, Molly vẫn ở trong ngôi nhà ấy, buồn và mất phương hướng nên cô ngừng đọc sách mất mấy ngày: chàng trai không xuất hiện. Tin rằng chàng trai quê muốn có được học vấn mà chàng rõ ràng là đã thiếu trong cuộc đời, nhưng cũng sợ rằng không phải vậy mà sự hiện diện của chàng gắn một cách bí ẩn với bà già mà thôi, cô quyết định đọc to trở lại để gọi anh về, lần này cô không chỉ đọc tiểu thuyết, mà còn cả sách về lịch sử và khoa học tự nhiên. Mất ít lâu chàng trai mới xuất hiện trở lại - có lẽ ma cũng để tang, họ có lý do làm điều ấy hơn ai hết - nhưng cuối cùng chàng cũng xuất hiện trở lại, có lẽ bị thu hút bởi những nội dung mới, mà chàng tiếp tục lắng nghe với cùng vẻ chăm chú, nhưng lần này chàng không đứng, tì vào lưng ghế, mà thoải mái ngồi hẳn xuống ghế bành, thỉnh thoảng vắt chân chữ ngũ, cầm tẩu thuốc trên tay, như một vị trưởng tộc mà anh không bao giờ trở thành.


Cô gái, ngày càng già đi, càng nói chuyện thân mật hơn với anh, nhưng chưa bao giờ được trả lời: ma không phải lúc nào cũng nói được, mà cũng không phải lúc nào cũng muốn nói. Và như thế mối liên kết đơn phương ấy phát triển, năm tháng cứ thế trôi qua, cho đến một ngày nọ chàng trai không hiện ra, rồi cả những ngày và tuần kế tiếp cũng không thấy chàng đâu. Cô gái, giờ đã khá già, thoạt tiên lo lắng như một người mẹ, sợ một tai nạn hay chuyện không may nghiêm trọng nào đó đã xảy ra với anh, không nhận thức được rằng những chuyện ấy chỉ có thể xảy ra với người sống, chứ ai không còn sống thì lại an toàn. Hiểu ra điều này, nỗi lo lắng của bà chuyển sang tuyệt vọng: tối tối, bà nhìn chằm chằm vào cái ghế bành trống rỗng và nguyền rủa sự im lặng, hỏi những câu hỏi đau buồn với hư không, ném những lời trách móc vào không gian vô hình, bà băn khoăn không biết mình đã phạm phải lỗi lầm gì và bà háo hức tìm những cuốn sách mới có thể khơi dậy lòng hiếu kỳ của chàng trai để khiến chàng quay trở lại, những thể loại mới và tiểu thuyết mới, và bà nôn nao chờ đợi từng kỳ truyện Sherlock Holmes mới, vì bà tin tưởng kỹ năng và văn chương của ông hơn bất kỳ món mồi khoa học hay văn chương nào khác. Bà tiếp tục đọc to mỗi ngày, để xem chàng trai có đến hay không.


Một tối nọ, sau nhiều tháng sầu muộn, bà phát hiện ra cái đánh dấu sách kẹp trong một cuốn của Dickens mà bà đã kiên nhẫn đọc cho chàng trai trong khi chàng vắng mặt không còn ở chỗ bà đánh dấu nữa, mà đã được dời sang chỗ khác cách đó nhiều trang. Bà cẩn thận đọc trang chàng đánh dấu, và rồi, cay đắng bà hiểu ra và gánh chịu nỗi thất vọng vốn có thể đến trong mọi cuộc đời, cho dù cuộc đời ấy kín đáo hay tĩnh lặng đến thế nào chăng nữa. Trong trang sách ấy, có một câu như thế này: “Và khi cô già đi và nhăn nheo, chất giọng mờ đục của cô không còn làm chàng vui sướng nữa.” Ngài Rymer nói rằng bà già ấy trở nên phẫn uất như một người vợ bị từ chối, và rằng, hoàn toàn không chấp nhận phán xét này và không chịu câm lặng, bà lớn tiếng mắng mỏ khoảng không: “Ngươi không công bằng. Ngươi không già đi và ngươi cứ muốn có những giọng đọc trẻ trung, tươi tắn, ngươi muốn ngắm những gương mặt đầy căng rạng rỡ. Đừng nghĩ là ta không hiểu ngươi, ngươi trẻ trung và vẫn mãi trẻ trung. Nhưng ta đã dạy dỗ ngươi, giải khuây cho ngươi bao nhiêu năm nay, nếu nhờ ta mà ngươi học được bao nhiêu điều, kể cả học đọc, thì cũng đừng tới mức mà ngươi để lại cho ta những lời nhắn phũ phàng qua chính cuốn sách mà ta luôn chia sẻ với ngươi. Hãy nhớ rằng khi bà mất đi, ta có thể dễ dàng đọc trong im lặng, nhưng ta đã không làm vậy. Ta biết ngươi có thể đi tìm những giọng nói khác, không có gì ràng buộc ngươi với ta và đúng là ngươi chưa từng đòi hỏi gì ở ta, nên ngươi chẳng nợ nần gì ta. Nhưng nếu ngươi có chút lòng biết ơn nào, ta yêu cầu ngươi ít nhất một tuần một lần đến nghe ta đọc và hãy kiên nhẫn với giọng của ta, cho dù giọng ta không còn đẹp đẽ và không còn làm ngươi vui sướng, bởi vì giờ đây nó sẽ không bao giờ mang tình yêu đến cho ta. Ta sẽ cố tiếp tục đọc tốt hết sức mình. Nhưng hãy tới, bởi vì giờ đây ta đã già, ta mới là người cần ngươi đến đây giải khuây cho ta.”


Theo Ngài Rymer, hồn ma thanh xuân thuần hậu vĩnh hằng đó không phải là hoàn toàn không  hiểu biết và chàng đã nghe rõ lý do hay ít ra cũng hiểu biết ơn nghĩa là gì: từ đó, cho đến khi chết, Molly Morgan Muir hào hứng và sốt sắng đợi đến mỗi thứ Tư, ngày mà tình yêu câm lặng và không chạm tới được của bà chọn để trở về với quá khứ của thời của chàng, mà thực ra, ở đó không có quá khứ và không có thời gian. Và người ta nghĩ rằng chính điều ấy đã khiến bà sống thêm nhiều năm nữa, tức là, với một quá khứ và một hiện tại và cả một tương lai hay có lẽ chỉ là niềm hoài nhớ.


Dịch từ truyện "No More Loves" trong tập When I was Mortal của Javier Marías, theo bản tiếng Anh của Margaret Jull Costa 


Thứ Sáu, 16 tháng 5, 2025

William Faulkner trả lời phỏng vấn

Trong các bài phỏng vấn các nhà văn nhà thơ của The Paris Review, bài phỏng vấn Faulkner có lẽ nằm trong một vài bài ấn tượng nhất mà tôi đã đọc. Bài phỏng vấn này thực hiện năm 1956. Một số điểm cần nhớ:

+ Tác phẩm mới quan trọng, tác giả thì không, nếu không có người này thì người khác sẽ viết. Quan trọng là Hamlet Giấc mộng đêm hè đã được viết, chứ không phải là Shakespeare hay ai đó khác đã viết những vở kịch ấy. "The artist is of no importance. Only what he creates is important, since there is nothing new to be said."

+ Quan điểm rất buồn cười về tiểu thuyết gia, có lẽ nhiều phần tự trào: làm thơ không được, nên mới viết truyện ngắn, mà ông cho là "the most demanding form after poetry", và viết truyện ngắn không xong mới viết tiểu thuyết. Ai lý giải được vì sao nước Nam là cường quốc thơ mà tiểu thuyết gia đếm trên đầu ngón tay? và tất cả nhà văn đều viết truyện ngắn?

+ Làm thế nào để trở thành một tiểu thuyết gia nghiêm túc?: Cần chín mươi chín phần trăm tài năng, chín mươi chín phần trăm kỷ luật, chín mươi chín phần trăm lao động. "An artist is a creature driven by demons." Người nghệ sĩ hoàn toàn vô luân, ăn cắp ăn trộm gì cũng được miễn là xong việc. " He is completely amoral in that he will rob, borrow, beg, or steal from anybody and everybody to get the work done." Trách nhiệm duy nhất của nhà văn là đối với nghệ thuật của mình. "The writer's only responsibility is to his art." Nếu cần, thì trấn lột cả mẹ mình. " If a writer has to rob his mother, he will not hesitate."

+ Trả lời câu hỏi "what would be the best environment for a writer", Faulkner bảo không quan trọng, chỗ nào cũng được, miễn là có "peace" và "solitude". Ông còn bảo công việc lý tưởng nhất cho ông là làm chủ nhà thổ: không sợ đói, có nhà để ở, sổ sách thì đơn giản có tú bà lo hết, chỉ cần hối lộ cảnh sát là xong, buổi sáng thì yên tĩnh tha hồ viết lách, buổi tối nếu buồn chán thì sẵn có "social life"!

+ Nhà văn có cần tự do về kinh tế không? Trả lời: không, chỉ cần giấy và bút chì. "Good art can come out of thieves, bootleggers, or horse swipes.... Nothing can destroy the good writer. The only thing that can alter the good writer is death. Good ones don't have time to bother with success or getting rich."  Nhà văn tồi thì sẽ than vãn nếu như không có ruồi (câu này tôi thêm vào.)

+ Về kỹ thuật viết văn: "The young writer would be a fool to follow a theory. Teach yourself by your own mistakes; people learn only by error. The good artist believes that nobody is good enough to give him advice."

+ Tác giả đánh giá tác phẩm của mình bằng sự khách quan, trung thực và lòng can đảm. Ông cho rằng không tác phẩm nào của mình đáp ứng tiêu chuẩn của chính ông, và do đó, ông đánh giá tác phẩm của mình dựa trên tiêu chí tác phẩm nào khiến ông đau buồn nhất (grief and anguish), và đó là The Sound and The Fury.

+ "A writer needs three things: experience, observation, and imagination, any two of which - at times any one of which - can supply the lack of the others."

+ Khi được hỏi sao không đề cập inspiration, ông trả lời: "I don't know anything about inspiration because I don't know what inspiration is - I've heard about it, but I never saw it."

+ Faulkner đọc ai? Ông không đọc các tác giả cùng thời. Ông đọc đi đọc lại Cựu Ước, Dickens, Conrad, Cervantes, Flaubert, Balzac, Dostoyevsky, Tolstoy, Shakespeare. 

+ Về các nhà phê bình: Nghệ sĩ không có thời gian nghe nhà phê bình nói! "The ones who want to be writers read the reviews, the ones who want to write don't have the time to read reviews."

+ "Life is not interested in good and evil. Don Quixote was constantly choosing between good and evil, but then he was choosing in his dream state. He was mad. He entered reality only when he was so busy trying to cope with people that he had no time to distinguish between good and evil."

+ Về nghệ sĩ, nghệ thuật, sự hữu hạn và bất tử: "The aim of every artist is to arrest motion, which is life, by artificial means and hold it fixed so that a hundred years later, when a stranger looks at it, it moves again since it is life. Since man is mortal, the only immortality possible for him is to leave something behind him that is immortal since it will always move. This is the artist’s way of scribbling “Kilroy was here” on the wall of the final and irrevocable oblivion through which he must someday pass."

Thứ Tư, 14 tháng 5, 2025

Graham Greene trả lời phỏng vấn

Interviewer: Do you see much of your fellow authors?

Greene: Not much, they are not one's materials. A few of them are very dear friends of mine, but for a writer to spend much of his time in the company of authors is, you know, a form of masturbation. 

Một câu trả lời thật đích đáng. Nhà văn thực sự thì cần phải viết, chứ không cần đàn đúm. Đàn đúm chỉ tổ dẫn tới phê bình thù tạc. Nhớ tới mấy bài kiểu Sương Nguyệt Minh tán tụng Đất mồ côi của Cổ Viên Tạ Duy Anh mà chạnh lòng. Quả thực là masturbation - mutual masturbation

Đoạn phỏng vấn trên là trong bài phỏng vấn The Paris Review. Giờ đây, sau khi đã đọc kha khá sách của Graham Greene, tôi mới quay trở lại đọc bài ông trả lời phỏng vấn tạp chí này. Cảm giác của tôi là Greene có vẻ khó gần, không hề cởi mở. Ông trả lời có vẻ dè dặt và chủ động kết thúc bài phỏng vấn. Ông không chia sẻ, không nói nhiều như một số nhà văn khác, ví dụ như Faulkner (bài này rất đã) hay Baldwin. Không thu nhặt được quá nhiều thứ trong bài trả lời phỏng vấn của ông. Một vài điểm để nhớ:

+ Greene có một bộ sưu tập chai whiskey cỡ nhỏ (miniature). Không lạ nếu nhớ lại whiskey tràn ngập các tiểu thuyết của ông.

+ Người phỏng vấn nói rằng England Made Me là cuốn favorite của anh. Bản thân Greene cũng thích cuốn này. (Về sau thì ông nói ở đâu đó The Honorary Consul là cuốn ông thích nhất.) Để tìm đọc.

+ Greene không cho là Mauriac có nhiều ảnh hưởng lên ông.

+ Greene có xây dựng nhân vật từ đời thực không? Câu trả lời là không, "one never knows enough about characters in real life to put them into novels. One gets started and then, suddenly, one cannot remember what toothpaste they use, what are their views on interior decoration, and one is stuck utterly. No, major characters emerge; minor ones may be photographed."