Thứ Tư, 10 tháng 12, 2025

Đọc tiểu thuyết

Càng về sau này, tôi càng ít có hứng thú đọc những thứ không phải là tiểu thuyết. Lý do rất đơn giản: tiểu thuyết cho tôi tự tự do tuyệt đối. 

Về sách phi hư cấu: tôi ít còn nhu cầu tìm hiểu một chủ đề cụ thể nên giảm nhu cầu đọc phi hư cấu. Cũng đỡ tốn tiền mua sách và tốn không gian trữ sách. Vả lại, đọc phi hư cấu, nếu không tỉnh táo rất dễ vâng lời tác giả. Tác giả nói thế nào tin thế ấy. Tác giả phi hư cấu trình bày quan điểm của mình, rồi chứng minh cho quan điểm ấy, cố gắng áp đặt quan điểm của mình. Nếu mình không tự phản biện hoặc không đọc đủ rộng, đọc những quan điểm khác, rất dễ bị tác giả dắt mũi.

Trong khi đó, tác giả tiểu thuyết chỉ kể chuyện. Tác giả tiểu thuyết không cố ép người đọc phải suy nghĩ, hành động theo hướng này hay hướng khác. Tiếp nhận như thế nào là quyền của người đọc. Diễn giải như thế nào là quyền của người đọc. Chính vì vậy, khi đọc tiểu thuyết, người đọc tuyệt đối tự do.


Thứ Hai, 8 tháng 12, 2025

My best reads of 2025

Kể ra thì chưa hết năm, nhưng từ giờ đến cuối năm tôi quyết cày Netflix, nên giờ post những cuốn hay nhất đọc được trong năm cũng là vừa khéo.

 

1/ Solenoid - Mircea Cartarescu

2/ Nostalgia – Mircea Cartarescu

3/ Chuyện kể tình yêu và bóng tối – Amos Oz

4/ Vũ điệu quỷ Satan – Laszlo Krasznahorkai

5/ Tuyết xuân – Yukio Mishima

6/ Death in Spring – Merce Rodoreda

7/ Nghệ nhân và Margarita – Mikhail Bulgakov

8/ Gối đầu lên cỏ - Natsume Soseki

9/ Wide Sargasso Sea – Jeans Rhys

10/ The Dry Heart – Natalia Ginzburg


Trên đây là những cuốn đọc lần đầu. Tính cả đọc lại thì phải kể thêm Trăm năm cô đơn đọc qua bản dịch tiếng Anh, Âm thanh và cuồng nộ, Người thủy thủ bị biển khước từCon cú mù.

Thứ Sáu, 5 tháng 12, 2025

Mircea Cartarescu trả lời phỏng vấn

Xem toàn bộ cuộc phỏng vấn ở đây

Dưới đây là tóm tắt vài ý:

1/ Mircea Cartarescu viết sách không làm dàn ý, không dựng cốt truyện trước. Ông tuần tự viết tay vào các cuốn sổ và không bao giờ sửa lại. Hằng ngày ông viết hai tiếng, được khoảng một trang. Hôm sau đọc lại viết tiếp. Ông viết 1500 trang của trilogy Orbitor trong 14 năm. Ông ví von viết văn như làm nài ngựa. Thắng môt cuộc đua hay không là do ngựa chứ không phải do nài, nài chỉ có tác động chút ít tới ngựa.

2/ Mircea Cartarescu đọc rất nhiều lĩnh vực khác ngoài văn chương như lượng tử, toán học, thần học, triết học .v.v. (Cái này có thể thấy dấu vết rõ ràng trong tác phẩm của ông). Ông tin rằng nhà văn cần phải đọc rộng.

3/ Viết văn với ông là tìm kiếm sự thật. Người viết văn không mong chờ độc giả hay giải thưởng. Mẫu hình của ông là Kafka.

4/ Mircea Cartarescu là nhà thơ trước khi là nhà văn. Ông từng in tám tập thơ trước khi viết văn. Lý do ông không làm thơ nữa là vì ông nghĩ tám tập là đủ rồi, viết nữa chỉ lặp lại mình.

5/ Ông coi Solenoid là tác phẩm quan trọng thứ hai của mình sau trilogy Orbitor (Blinding), mới chỉ cuốn đầu được dịch sang tiếng Anh. Ông đặc biệt tự hào về cuốn thứ hai trong trilogy này. Cuốn thứ ba trong trilogy là cuốn duy nhất mang màu sắc chính trị. Ông viết cuốn này để trả thù cho chế độc độc tài đã cướp đi tuổi trẻ của ông, để lại những vết sẹo trong ông.

6/ Ngoài Kafka, các nhà văn khác có ảnh hưởng tới ông gồm Proust, Thomas Mann, Hermann Hesse, Thomas Pynchon, các nhà văn Nam Mỹ như Cortazar, Sabato, Borges, GG Marquez, Vargas Llosa. Ông nói các nhà văn Nam Mỹ viết không chỉ bằng trái tim hay não mà bằng toàn bộ cơ thể, gồm cả, chân, tay, đầu, bộ phận sinh dục.

7/ Khi được hỏi vì sao tác phẩm của ông hay trộn lẫn giữa thực tại và những yếu tố hoang đường, kỳ ảo, ông hỏi lại thực tại là gì, cái ta cảm nhận được có phải là thực tại hay không? Bài kiểm tra để biết một thứ có phải là thực tại hay không đó là ta có cảm nhận được nỗi đau hay không. Nếu đau, thì đó là thực tại.

7/ Khi Mircea Cartarescu được yêu cầu chọn một vài cuốn sách trong số các cuốn mà Penguin Random House đã xuất bản để giới thiệu cho độc giả, ông chọn, một cách tương đối ngẫu nhiên, năm cuốn sau:

·       Salammbo - Gustave Flaubert (theo ông là best historical fiction ever written)

·       Remembrance of Things Past - Marcel Proust (không thể nói tới ký ức mà không nói tới cuốn sách này, mà ký ức cũng là chủ đề yêu thích của Mircea Cartarescu)

·       The Waves - Virginia Woolf (beautiful book)

·       The Castle - Franz Kafka (the perfect book)

·       Collected Poems - Allen Ginsberg (visionary)

 


Thứ Ba, 2 tháng 12, 2025

Solenoid của Mircea Cărtărescu - Một mê cung của giấc mơ, khoa học và tuyệt vọng

Solenoid – Mircea Cărtărescu

Một mê cung của giấc mơ, khoa học và tuyệt vọng

(Bản gốc bằng tiếng Anh của Mattias Hansen trên The Modern Literature Society) 

Liệu có điều gì kết nối các nghiên cứu về chiều không gian thứ tư của Charles Howard Hinton, những câu đố bí ẩn của bản thảo Voynich, các thí nghiệm ngạt thở rùng rợn của Nicolae Minovici, nhiệt huyết cách mạng của Ruồi Trâu, đại số Boolean, những giấc mơ hầm hập của người kể chuyện và cả những con mạt? Trong Solenoid của Mircea Cărtărescu, những tuyến truyện tưởng chừng không liên quan này lại đan xen thành một bản tự sự rộng lớn, ám ảnh, mang tính nội quan sâu sắc hòng giải mã kiến trúc ẩn giấu của tồn tại. Cuốn tiểu thuyết đặt ra một câu hỏi vọng lại qua từng chương: liệu có thể tìm thấy ý nghĩa trong một vũ trụ mà những cơ chế vận hành của nó vẫn vượt ngoài khả năng hiểu biết của đầu óc con người?

Ở trung tâm của mê cung này là người kể chuyện — một nhà thơ bất thành, kẻ mang vết thương lòng từ những nhục nhã thời trẻ. Giờ đây, là giáo viên tiểu học trong bầu không khí ngột ngạt của Rumani thời Ceaușescu, anh ta sống trong thực tại đầy trì trệ, hoang mang và đói khát tinh thần. Ban ngày, anh lướt qua các giờ dạy với sự thờ ơ; ban đêm, anh bay lên khỏi giường, dường như được nâng bởi một cuộn solenoid điện từ chôn dưới nền ngôi nhà hình chiếc thuyền kỳ lạ, mua từ ông Mikola bí ẩn nhiều năm trước. Những lần bay lên trong đêm này không chỉ là ảo giác: chúng đánh dấu sự tan biến ranh giới giữa mơ và thực, giữa ý thức bên trong và thế giới bên ngoài.

Cărtărescu tái hiện những cảnh mộng này với sự sống động đáng kinh ngạc. Người kể chuyện lang thang qua các nhà máy bỏ hoang đầy lối đi bí mật, nơi những sinh vật côn trùng ẩn mình sau tường kính; anh gặp gỡ những hình bóng rõ nét tồn tại ở rìa nhận thức; anh lần mò trong một thành phố giãn nở, biến đổi như một sinh vật sống. Điều này tạo ra một cảm giác vừa ngột ngạt vừa phấn khích — một cuộc đào sâu vào thế giới tâm lý của một người không thể tin vào giác quan của mình nhưng vẫn khao khát hiểu chúng.

Điểm nổi bật của Solenoid không chỉ là sự kỳ lạ của các hình ảnh mà còn ở tham vọng trí tuệ. Cuốn tiểu thuyết này được cấu trúc như một cuốn bách khoa toàn thư, tràn ngập các tham chiếu đến siêu hình học, toán học, sinh học, mật mã học, thần bí và các văn bản ngụy thư bằng ngôn ngữ đã thất truyền. Sự uyên bác của Cărtărescu vừa gây choáng ngợp vừa ấn tượng; mức độ nghiên cứu rõ nét và sự dồn dập các chi tiết bản thân nó trở thành một nguyên tắc  về mặt phong cách. Mạch truyện tiến triển qua dòng ý thức dày đặc, thường gấp gáp, xen kẽ những đoạn triết lý ngoại đề dài — những đoạn mà ngay cả Victor Hugo cũng có thể muốn biên tập lại.

Tuy nhiên, những đoạn ngoại đề này lại rất quan trọng để hiểu chiều sâu chủ đề của tác phẩm. Một góc nhìn hữu ích là siêu hình học: sự ám ảnh về chiều không gian, ý thức và giới hạn nhận thức con người gợi nhớ đến Solaris của Stanisław Lem, nơi con người đối mặt với trí tuệ ngoài hành tinh vượt ngoài mọi phạm trù khoa học. Giống Lem, Cărtărescu thách thức giả định rằng thực tại có thể hiểu được chỉ vì chúng ta muốn như vậy. Nếu tồn tại vô số chiều không gian ngoài tầm nhận thức, thì trải nghiệm ba chiều của chúng ta chỉ là cái bóng của một cấu trúc lớn hơn, không thể diễn đạt. Solenoid — vừa là thiết bị thực, vừa là biểu tượng — trở thành cánh cửa dẫn đến không gian không thể tưởng tượng đó.

Một hướng diễn giải khác là phân tích tâm lý và hiện thực xã hội. Theo góc nhìn này, cuốn tiểu thuyết khắc họa sự tan rã dần của tâm lý mong manh bị bào mòn bởi tổn thương tuổi thơ, nỗi lo âu hiện sinh và sự vô vọng cùng cực của cuộc sống dưới chế độ độc tài. Những ảo giác của người kể chuyện có thể là nhận thức siêu hình, hoặc là biểu hiện của tâm thần phân liệt, trầm cảm và cô lập. Cărtărescu để ngỏ sự mơ hồ này, cho phép người đọc dao động giữa lòng trắc ẩn dành cho một tâm trí bị hành hạ và sự kinh ngạc trước biên độ trí tưởng tượng của ông,

Một góc nhìn khác đặt Solenoid vào truyền thống hiện thực huyền ảo. Giống như Márquez trong Trăm năm cô đơn, Cărtărescu dùng yếu tố kỳ ảo không phải để thoát ly thực tại mà để phơi bày những sự thật mang tính biểu tượng sâu sắc hơn. Dù nhân vật bay lên, giao tiếp với sinh vật mộng hay nhìn thấy những chiều không gian khác, những sự kiện này đều là ẩn dụ cho khát vọng tìm kiếm ý nghĩa, sự kết nối và cái siêu việt của con người.

Dù xuất sắc, Solenoid không phải cuốn tiểu thuyết dành cho mọi độc giả. Cấu trúc dàn trải, chi tiết dày đặc và sự cố ý không gắn kết mạch truyện có thể gây choáng ngợp. Đặc biệt, những phần đầu có thể được biên tập kỹ hơn. Nhưng với những ai sẵn sàng tiếp nhận tác phẩm theo kiểu của nó — chậm rãi, chú tâm và cởi mở với sự mơ hồ — sự tưởng thưởng là rất lớn. Cuốn tiểu thuyết sẽ lôi bạn vào mê cung của nó, buộc bạn đối diện với giả định của chính bạn về thực tại, ý thức và giới hạn hiểu biết của con người.

Cuối cùng, Solenoid không nhằm đưa ra câu trả lời mà là sự hoang mang sâu sắc về việc tồn tại. Đây là một tác phẩm đồ sộ, gây bất an và thường xuyên khiến người đọc kinh ngạc, còn đọng lại lâu sau khi lật trang cuối — ấy là minh chứng cho khả năng của Cărtărescu trong việc biến hỗn loạn của tâm trí thành điều gần như thần bí.

Tôi thường tự hỏi liệu cuốn tiểu thuyết này có khép lại hết các mạch truyện không, và dù chưa hoàn toàn được giải quyết, câu chuyện vẫn neo lại bằng một cách rất con người, nhất quán với chủ đề cốt lõi.

Kết luận: Một tiểu thuyết thách thức nhưng phi thường — dành cho những ai yêu thích những tác phẩm tham vọng về mặt trí tuệ, phá vỡ ranh giới thể loại và dám vẽ lại biên giới của văn chương. Không dành cho những người sợ nha sĩ hoặc bác sĩ.

 

Chủ Nhật, 23 tháng 11, 2025

Solenoid - nhật ký đọc sách

Solenoid là tiểu thuyết của Mircea Cartarescu. Bản tôi có là bản tiếng Anh của Sean Cotter, Pushkin Press xuất bản, dày 638 trang chữ cỡ nhỏ. Tôi vừa đọc vừa ghi nhật ký để đảm bảo mình sẽ hoàn thành.

7/11/2025

Đọc xong 7 chương phần 1. Trong phần này ta sẽ được giới thiệu với nhân vật xưng tôi, một giáo viên ngữ văn 27 tuổi, đầu đầy chấy, mà anh ta gọi là "bệnh nghề nghiệp" do lây từ lũ trẻ con. Đọc phần này trong lúc tôi đang bị ngứa ngáy khắp người không rõ nguyên do, đâm ra đồng cảm với anh ta ghê gớm. Anh ta hint về những giấc mơ của mình, nhưng có lẽ sẽ nói đến ở phần sau. Anh ta dần hé lộ cho người đọc về giấc mộng văn chương của mình. Anh đã từng viết một bài thơ vĩ đại, mà anh gọi là Bài Thơ viết hoa, ấy là kết quả của mưới năm đọc văn chương của anh. Ta sẽ gặp những câu như thế này:" For the past decade, I had forgotten to breathe, cough, vomit, sneeze, ejaculate, see, hear, love, laugh, produce white blood cells, protect myself with antibodies, I had forgotten my hair had to grow and my tongue, with its papilla, had to taste food. I had forgotten to think about my fate on Earth and about finding a wife. Lying in bed like an Etruscan statue over a sarcophagus, my sweat staining my sheets yellow, I had read until I was almost blind and almost schizophrenic." 

Giả như Bài Thơ của anh ta được đón nhận, hẳn anh đã trở thành một tác giả lớn, viết chồng chồng sách. Nhưng trong buổi đọc thơ tháng 10 năm 1977, bài thơ của anh đã bị chê không thương tiếc, bản thân anh bị ví như một đứa bé mới chập chững biết đi không những đòi chạy marathon mà còn muốn chiến thắng giải chạy. Anh đã bị hủy diệt hoàn toàn sau buổi đọc thơ đó và rồi trở thành một giáo viên ngữ văn gầy giơ xương đầu đầy chấy. 

Có môt đoạn khá dài MC viết về việc nhân vật tôi lý giải vì sao mình không trở thành nhà văn rất đáng chú ý. "I have read all the books, and I have never known a single author. I have heard all the voices, with schizophrenic clarity, but no real voice has ever spoken to me." Và rồi MC ví von văn chương như một bảo tàng của hàng ngàn cánh cửa ảo, cánh cửa nào cũng được vẽ thật đẹp, nhưng không cánh cửa nào mở ra. Điều cần làm là nhắm mắt và sờ những bức tường bất tận để hiểu rằng trong ngôi nhà văn chương không có cánh cửa mở nào, thế nhưng người ta lại không thích nhắm mắt mà thích có nghìn con mắt để nhìn nghìn lối ra giả. Để rồi sau đó nhân vật tôi sẽ thú nhận rằng: "I never became a writer because I never was, from the start, a writer. I loved literature like a vice, but I never truly believed that it was the way. Fiction does not attract me, it was not my life's dream to add a few false doors to the walls of literature."  

Có thể đoán được phần nào, trong cuốn này cũng như trong Nostalgia mà tôi đọc hồi đầu năm, MC sẽ dành nhiều trang viết về bản thân văn chương. Cuốn tiểu thuyết này chắc sẽ bao hàm trong nó những bài tiểu luận. 

Cho đến lúc này, cảm giác đọc cuốn này thật khoái, không kém gì so với Nostalgia cả.

11/11/2025

Đọc hết chương 12 phần 1. Ở chương 8, MC bắt đầu giới thiệu cho ta solenoid - một thứ gì đó liên quan tới điện từ. Nhân vật tôi mua lại một căn nhà của người phát minh ra cái gọi là "Borina selenoid". Borina là tên của nhà phát minh. Solenoid được tả giống như một cái bánh donut khổng lồ, đường kính 9 mét, quấn quanh một cái lõi sắt là 16 lớp dây đồng. Solenoid được chôn bên dưới căn nhà, và bất kể nó được thiết kế cho tác dụng gì, thì nó chưa bao giờ phát huy tác dụng, nó là một thất bại của nhà phát minh. Tuy nhiên, tới một hai chương sau thì ta sẽ thấy ngẫu nhiên solenoid đã phát huy tác dụng của nó như thế nào. MC dành nhiều trang mô tả ngôi nhà kỳ dị này bằng những câu văn cũng kỳ dị và khoa trương một cách cố ý. Chẳng hạn, ông tả bóng tối trong căn nhà dày đặc đến nỗi, khi đẩy cửa "You had to push the door again, with a force equivalent to the volume of darkness you displaced", hay "Once I closed the door, the world disappeared""It took another another eternity for my eyes to become accustomed"

Chính trong căn nhà đó, Irina, giáo viên vật lý, người tình của nhân vật xưng tôi, tác giả cuốn nhật ký này (đã rõ đây là nhật ký), sẽ tình cờ phát hiện ra công dụng của solenoid. Sau một trận tình ái, cô chạm vào một cái công tắc bí hiểm nào đó và thế là cô lơ lửng giữa phòng ngủ. Kể từ đó cặp đôi này có trò make love in the air. "We devour each other, we cleave to each other, we enter and exit each other's cavities, we lose ourselves in the dark and find ourselves, ever sweatier and more ardent, after our fingers claw through nothing and nevermore to find other fingers, or a foot, or a shoulder, or hair, or a mouth. or the eyelashes of the other person, so we can approach and touch and come close."

Toàn bộ chương 11 là miêu tả cuộc phiêu lưu của tác giả và bạn đồng hành, thầy giáo dạy toán, khám phá một cái nhà xưởng cũ nơi đám học sinh thường chui vào đó làm những trò có trời mà biết là gì. Cái nhà xưởng này được miêu tả là cũng giống như Bucharest, thành phố buồn bã nhất trên mặt đất, được thiết kế "as a ruin from the start", và nó không sản xuất ra cái gì khác ngoài "fear and grief, the unhappiness and agony, the melancholy and suffering of our life on Earth".  

Chương 12, nhân vật tôi khẳng định mình đang kể lại chuyện đời mình   - the story of  an unknown person : "This is precisely why I need to write it, because if it's not written by me, the only one to whom it means anything, then no one will write it." Tôi viết không phải để tôi đọc, mà tôi viết để tôi hiểu chính mình, chẳng lẽ đó không phải đó nên là thái độ cần có của mọi người viết sao? Trước khi cố gắng hiểu người thì hãy hiểu cố gắng hiểu ta. Trong chương này, nhân vật tôi sẽ kể về người em sinh đôi của mình đã mất từ khi rất nhỏ, bốn tháng tuổi, sáu tháng tuổi hay một tuổi gì đó, ta sẽ không bao giờ biết rõ. MC kể về ký ức của một người không có ký ức: "Even though I don't remember, I will never forget it." và nỗi đau của người anh em sinh đôi ở lại "Victor disappeared, and he took with him perhaps the only reason, the only brilliance, the only opportunity of my life... I have gazed with half my gaze, I have listened with my half hearing." Sau sự ra đi của người anh em sinh đôi, người ở lại chỉ còn một nửa, gánh chịu tình yêu của bố mẹ. 


13/11/2025

Xong chương 19. Đã sang phần 2, nhưng các chương đánh số liên tục nên không cần nhắc tới phần nữa.

Chương 13 nói về cô giáo dạy hóa Caty, người mỗi ngày một kiểu váy, một kiểu giày, một kiểu tóc khác nhau. Cô không chấp nhận được mình sẽ già đi và sẽ chết, nên cô đã gia nhập nhóm Picketists, một phong trào kháng cự đau khổ, bệnh tật và cái chết. "...She was hopelessly in love with her younger self, she was a lesbian in love with her younger body...". Hàng đêm, nhóm Picketist sẽ tổ chức phản đối ở các nghĩa trang, và trong hành vi phản đối đó họ tìm thấy sự bằng an. Họ không còn sợ già và chết nữa. "She fought against them, she hoped against them. The odds of winning weren't important, but the fight was. Caty had seperated herself from the lazy mass of hostages who lived with bowed heads." Nghe thiền phết. Kết quả hay không không quan trọng, quan trọng là hành động. Caty làm ta nhớ tới Ispas, người gác cổng trường ở phần trước. Ispas là người hằng đêm nhìn lên bầu trời đầy sao, chờ đợi đĩa bay đến đón mình đi, mặc kệ mọi người nhạo báng. "At least he looked at the stars, he, the lowliest person who has ever lived on Earth; at least he wants to get out."

Chương 14 kể về cuộc phẫu thuật ở miệng khi còn nhỏ, nhưng đồng thời cũng là một khảo nghiệm về ký ức và những giấc mơ. Từ kinh nghiệm cá nhân, tôi cũng thấy ký ức thời thơ ấu rất dễ chồng lần với những giấc mơ. Chẳng hạn, hồi bé, tôi khăng khăng mình đã từng đi Sài Gòn, đi ngang qua cầu và gió thổi bay mũ. Thực tế, tôi chưa bao giờ đi Sài Gòn trước 12 tuổi. Trong chương này, nhân vật tôi kể về cuộc phẫu thuật, cảm giác nằm bồng bềnh nhìn lên bầu trời đầy sao, không biết mình đang ở đâu, mọi thứ đều hư ảo. Nhưng sau này, nhân vật tôi lại thấy không mình không có vết mổ nào, trong khi người em họ lại có một vết sẹo ở hàm phải. 

Chương 15 viết về thư viện, tiệm sách, và việc đọc sách. Một câu chuyện thú vị về việc nhân vật tôi lần đầu đọc Ruồi trâu năm lớp 6, cuốn sách thiếu mất một chương nhưng đã làm cậu đầm đìa nước mắt. Nhiều năm về sau, nhân vật tôi khi đã là thanh niên, háo hức mượn một ấn bản Ruồi trâu trọn vẹn từ thư viện, háo hức đọc lại chỉ để thất vọng. "Perhaps all we want from reading is to return to that age when we could hold a book and cry, to that time between childhood and adolescence, the sweetest era of our lives." Tôi cũng vậy, đôi lúc tôi cũng mong muốn xiết bao được trở về thời niên thiếu, bắt đầu hiểu biết nhưng còn hãy ngây thơ, chưa vấy bẩn bởi định kiến và phán xét, để được vây quanh bởi sách, sống tình yêu thuần khiết. 

Chương 16 rất ngắn. Đáng chú ý, cuốn sách yêu quý nhất của nhân vật tôi là Nhật ký của Kafka.

Phần 2 bắt đầu từ chương 17. Chương 17 kể về nhân vật tôi đã được mẹ nuôi dạy như một bé gái, những chuyến đi cùng mẹ tới một phòng khám, đồn công an và những giấc mơ.

Chương 18 kể câu chuyện về giáo viên lịch sử  Radulescu và sự cố mất nhẫn cùng cách ứng xử của giáo viên dạy nghề Eftene. Bản thân chương này có thể một truyện ngắn độc lập.

Chương 19 trở về những ký ức của thời thơ ấu. Nhân vật tôi có một cái hộp kẹo đựng răng sữa, cuống rốn, bím tóc, những tấm ảnh cũ. Anh thường xuyên lục lại cái hộp này- cái hộp giống như một công tắc để đưa anh xuyên thời gian trở về thời thơ ấu. Chương này có một đoạn cực hay về việc nhổ răng, chắc phải bỏ công dịch ra. 



17/11/2025

Nhờ hai ngày cuối tuần mà tôi đã đọc được tới 2/3 cuốn sách, nghĩa là đã qua 200.000 chữ. Nghe thì có vẻ nhanh nhưng thật ra tôi đọc khá vất vả, có lúc 1 tiếng đồng hồ không qua khỏi 5 trang do phải dừng lại để tra cứu nhiều chỗ. Tôi đánh dấu khá nhiều chỗ, nhưng chưa có thời gian để note lại tại đây. Chỉ có thể nói vắn tắt rằng đọc cuốn này là một trong những khoái cảm lớn nhất đời đọc sách của tôi.

Một chỗ đáng lưu ý là nhân vật tôi khi viết lại văn bản này luôn lặp đi lặp lại là mình muốn ghì lại những anomalies - những chuyện bất thường. Tôi lật lại note của mình khi đọc cuốn Nostalgia và gặp ngay câu "literature is teratology" - văn chương là ngành nghiên cứu những bất thường, dị dạng. Vậy là có thể nhìn ra điểm chung giữa hai cuốn.

Điểm chung nữa đó là ký ức, ký ức giả, những giấc mơ và ảo giác. 



23/11/2025

Đọc xong! 

Thoạt đầu tôi định ghi nhật ký đọc đều đặn để lấy động lực đọc cho hết, nhưng khi cuốn sách cuốn tôi đi rồi tôi chỉ tập trung đọc cho xong. Hy vọng vài ngày tới có thời gian tôi sẽ note lại một số thứ nhìn thấy trong khi đọc.


Thứ Hai, 17 tháng 11, 2025

Từ xấu

Entry này dành để tri ân các từ xấu, báo chí và mạng xã hội Việt Nam. Entry sẽ được cập nhật mỗi khi trời đẹp.

1. Chạm: Bây giờ người ta nói: "Bài hát này rất chạm", "Bộ phim này rất chạm". Tiên sư, chạm, chạm, chạm thần kinh thì có.

2. Lọt tóp: Là lọt cái quần què gì? Lọt khe nghe hay hơn nhiều.

3. Thắng giải: Thời các anh chị chưa võ vẽ chút tiếng Anh, người ta nói là đoạt giải, giành giải. Cô này đoạt giải Oscar, ông kia giành giải Nobel. Giờ các anh chị có tí IELTS lắp vào đít, các anh chị toàn "thắng giải". Não.



Thứ Tư, 15 tháng 10, 2025

Những ngày nắng đẹp

Sau bốn năm liên tục đi Hà Giang, thì kể từ sau dịch Covid năm 2021, tôi chưa có dịp quay lại vùng đất này - vùng đất duy nhất ở Việt Nam mà tôi đã đến nhiều lần nhưng không chán. Lòng mê Hà Giang của tôi chắc đã lan sang hai bạn nhỏ (thật ra bây giờ không còn nhỏ lắm nữa). Hôm nọ làm cuộc phỏng vấn bỏ túi với hai bạn, nơi nào ở Việt Nam hai đứa muốn quay lại nhất, thật bất ngờ khi cả hai đều chọn Hà Giang. 

Hà Giang thật ra có Đông Hà Giang và Tây Hà Giang. Đông Hà Giang là Quản Bạ, Yên Minh, Phố Cáo, Du Già, Đồng Văn, Mèo Vạc, Lũng Cú - khách Tây hay gọi là Hà Giang Loop. Hà Giang Loop có đèo Mã Pí Lèng trứ danh, có dinh vua Mèo, nhà Chuyện của Pao (nơi quay bộ phim này), cột cờ Lũng Cú, sông Nho Quế, hẻm vực Tu Sản. Hà Giang Loop nổi tiếng đến nỗi hầu như khách Tây nào đi bụi ở Việt Nam đều biết. Hôm cưỡi ngựa trên thảo nguyên Kyrgystan, tình cờ gặp một cặp đôi người Pháp và Ý, hóa ra cả hai đều từng du lịch Việt Nam và đã đi Hà Giang Loop. Tây Hà Giang là Hoàng Su Phì nổi tiếng về ruộng bậc thang. Đường vào Hoàng Su Phì gần như là độc đạo, đi vào Hoàng Su Phì chỉ có thể đi tiếp Xín Mần rồi quay đầu ra, chứ không kết nối với các điểm đến khác của Hà Giang. Dường như từ Xín Mần có thể sang được Lào Cai, nhưng đường đi có thuận lợi không thì tôi không rõ. 

Năm nay, dôi ra mấy ngày nghỉ, tôi muốn đi Hoàng Su Phì và chỉ ở lại Hoàng Su Phì mà thôi. Tôi muốn xem Hoàng Su Phì khác phần còn lại của Hà Giang như thế nào, nhân tiện, leo Tây Côn Lĩnh và và đỉnh núi có tên rất thơ mộng là Chiêu Lầu Thi, chứ còn ruộng bậc thang thì tôi đã no mắt với Mù Căng Chải, Tà Xùa, Ngọc Chiến nên cũng không thật sự quan tâm lúa đã gặt chưa. Tôi chỉ quan tâm tới thời tiết. 

Trước khi đi 10 ngày, bão Matmo đổ vào miền Bắc, gây ngập lụt lớn ở thành phố Hà Giang. Đợi vài ngày khi trời đã êm bão đã tạnh mưa đã dứt lũ đã rút, tôi gọi nhà nghỉ ở Hoàng Su Phì hỏi thăm, họ khuyên tôi không đi vì bão 11 hay Bualoi sắp vào. Kỳ nghỉ thì có thể dời, nhưng nếu dời thì mất tiền vé máy bay, nên tôi cứ ngần ngừ xem thế nào. Mấy hôm ấy, tôi gần như thành chuyên gia thời tiết, theo dõi sát sao tình hình mưa gió, từ các chuyên trang thời tiết, các KOL thời tiết, các trang nhóm du lịch, tới việc tải app Windy là app chuyên sâu thời tiết dành cho các hoạt động thể thao ngoài trời. Kiểm tra chéo nhiều nguồn thông tin, tôi chắc hơn 90% mưa sẽ tạnh hai ngày trước ngày bay, và những ngày lưu trú ở Hoàng Su Phì sẽ nắng, nên tới giờ chót tôi quyết định vẫn lên đường. Vấn đề còn lại là sau mưa thì đường có thể sạt lở - đặc sản của vùng núi Đông và Tây Bắc, nhưng nhớ lại năm 2018, sau bão Sơn Tinh tôi còn đích thân đánh lái lên Mèo Vạc, rồi từ Mèo Vạc vần vò mấy trăm cây số đường đèo sang Cao Bằng, lần này đi xe khách sợ gì, nên cứ đi thôi.

Các bạn tôi nói ngày trước muốn đi Hoàng Su Phì thì phải đi xe tuyến Hà Giang, xuống xe ở Bắc Quang và bắt xe ôm vào. Bây giờ, tìm trên mạng thì đã có vài nhà xe đi thẳng Hoàng Su Phì. Tôi tìm ra nhà xe Vũ Hán, nhà xe này còn có cả app hẳn hoi, rất chuyên nghiệp, nên đặt vé xe qua app. Xe khởi hành từ bến xe Mỹ Đình, rất buồn cười trên xe chỉ có hai chúng tôi là khách đặt qua app và đi suốt tuyến, ngoài ra chỉ có một khách khác sẽ xuống xe ở Tuyên Quang. Anh tài xế vừa lái xe, vừa thấy ai đứng ven đường là lại rao, đi Hà Giang, Hoàng Su Phì không. Cứ như thế, trừ mấy chục cao số đường cao tốc, còn thì ai vẫy anh cũng dừng xe, ai không vẫy anh cũng ghé lại hỏi thăm. Quả nhiên là một kinh nghiệm khác lạ so với xe khách trong Nam, vốn từ lâu chỉ đón trả khách tại những điểm cố định.

Từ ngã ba Tân Quang, xe theo DT 177 qua đèo Cổng Trời vào Hoàng Su Phì. Đường tráng nhựa đẹp đẽ, trời khô ráo nên không vấn đề gì, tuy vẫn còn dấu vết rất rõ những đoạn sạt lở vừa mới được dọn xong. Ngồi trên xe, tôi còn vào các group du lịch để cập nhật tình hình đường sá cho chúng sinh. Tôi làm vậy bởi tôi thương chúng sinh, nhiều người vào group chỉ để hỏi thăm đường sá, nắng mưa thế nào mà bị chửi té tát vuốt mặt không kịp, những là chúng mày không có não à, đang bão lũ sạt lở không ở nhà còn đi đâu, những là chúng mày định làm khổ bộ đội, cứu hộ à. Ơ hay, người ta chỉ hỏi thăm thôi, gì mà toxic thế. Mà thật ra toxic là trạng thái mặc định trên mạng xã hội, ở đó, những công dân nặc danh chính tả chưa thông từ vựng kém cỏi mặc nhiên cho mình quyền chửi mắng người khác vô tội vạ. Tiên sư chúng nó.

Nơi chúng tôi nghỉ là một khu resort trong thôn Tả Sử Choóng nằm trên những ngọn đồi cao vút. Ở đây, mỗi bungalow nằm biệt lập một góc, cách nhau vài trăm mét đường dốc rất gắt, nhưng bungalow nào cũng có thể nhìn xuống những thửa ruộng bậc thang đang bắt đầu vào mùa gặt hoặc nhìn sang những ngọn đồi khác. Nhà ăn cũng nằm trên đồi nhưng ở vị trí thấp hơn nhiều so với các bungalow, nên leo xuống nhà ăn rồi leo lên phòng nghỉ đã là bài tập rất tốt cho dân chạy trail rồi. Tả Sử Choóng cách những điểm đến có tiếng khác của Hoàng Su  Phì như Thông Nguyên, Bản Luốc, Bản Phùng...vài chục cây số đường núi, nên sau khi hỏi thăm, chúng tôi quyết định chỉ đi leo núi, trekking, đi bộ khám phá quanh bản chứ không sang các bản khác. Chúng tôi muốn tận hưởng không khí nơi đây, sự yên tĩnh không có được ở đâu khác, thay vì phải lao lên xe, phi ra đường, cho dẫu dọc những con đường núi quang cảnh cũng đẹp và vắng, chứ không nhếch nhác ồn ào như dưới xuôi. 

Chiều ngày đầu tiên, chúng tôi đi lang thang trong bản mà không ai theo cùng. Đường trong bản vắng hoe, mấy mươi mét mới có một nếp nhà, thảng hoặc mới có chiếc xe máy chạy ngang. Nghênh ngang ngắm cảnh, chụp hình một đỗi, chúng tôi ghé một tiệm tạp hóa mua một chai nước và ba bịch bánh to đùng, tất cả hết 26.000 đồng. Bác chủ tiệm mời chúng tôi ngồi uống trà nói chuyện. Bác có hai cậu con trai, đã lớn hết và đi làm xa. Bác nói chúng nó xuống xuôi, đi làm công nhân, tháng được 10 triệu đồng, chứ ở đây thì biết làm gì. Làm lúa cả năm được hai tấn thóc, chỉ được 14 triệu đồng thôi. 

Lúc nào tôi cũng mang theo một hai cuốn sách trong những chuyến đi. Kể cả có đọc được hay không, có sách bên mình khiến tôi yên tâm, không sợ phí những khoảng thời gian trống. Chuyến này, do đã sẵn dự định ở yên một chỗ suốt bốn ngày, nên tôi mang theo những năm cuốn sách. Chắc chắn không đọc hết đâu, nhưng nếu lỡ chán cuốn này, có cuốn khác thay vào ngay. Cuốn đầu tiên tôi giở ra trong những cuốn mang theo là Thành phố và những bức tường bất định của Haruki Murakami, mà một số con trời cứ suồng sã gọi là Haruki. 

Nhiều năm rồi tôi mới đọc một tiểu thuyết của Murakami, tuy thi thoảng vẫn đọc truyện ngắn của ông, gần nhất là các truyện trong tập Những người đàn ông không có đàn bà, đọc lại nhân xem xong Drive my car. Trước cuốn này là cuốn gì? Hình như cuốn gì không màu và những năm tháng hành hương, cuốn ấy thì chán; rồi đến Giết chỉ huy đội kỵ sĩ cũng chán nốt, tôi bỏ dở sau đâu đó trăm trang. Vì sao tôi lại quyết định đọc cuốn này? Vì ngay trang đầu tiên đã gặp những câu văn dịu dàng, u hoài. Nói gì thì nói, bất chấp một số khiếm khuyết, Murakami vẫn là một tay kể chuyện đại tài. Tôi nhớ mình từng say mê Biên niên ký chim vặn dây cót hay Kafka bên bờ biển như thế nào. Nhưng hai cuốn ấy tất nhiên không có giọng văn dịu dàng như thế này, cả Rừng Nauy hay Phía Nam biên giới, phía Tây mặt trời cũng không có. Tôi đọc Thành phố và những bức tường bất định và như thấy có mình trong đó. Tôi là chàng trai mười bảy tuổi lang thang cùng cô bạn mười sáu tuổi dọc bờ sông, tôi thấy mình như ngửi được cả mùi cỏ gà và hoa dại. Tôi cũng là gã đàn ông trung niên nhiều năm sau lội dọc sông, càng ngược dòng thì càng trẻ đi, da căng hồng hào, thớ thịt săn chắc, như một khát vọng quay về tuổi trẻ đã xa. Tôi sống trong cuốn tiểu thuyết. Có một buổi tối, sau bữa ăn rất tươi ngon mà Vân và Minh, hai bạn  người H'mông phục vụ ở resort đã chuẩn bị cho chúng tôi, và sau một ca rượu ngô nửa lít, chúng tôi về phòng và thay phiên đọc cho nhau nghe những trang trong cuốn sách. Chúng tôi khen nhau là đọc hay lắm, nhưng chẳng nhớ mình đọc gì, và chỉ ít phút là lăn ra ngáy khò khò. 

Đôi khi tôi thấy mình trong sách, đôi khi tôi lại thấy sách trong tôi. Ấy là ngày hôm sau khi leo Chiêu Lầu Thi, giữa những vạt sim tím và những con suối róc rách, trong khi hổn hển leo lên những con dốc, thì tôi thấy cảnh trong cuốn Gối đầu lên cỏ của của Soseki hiện về. Cái anh chàng họa sĩ leo núi trong Gối đầu lên cỏ chính là tôi phút giây này chăng? Đọc nhiều tiểu thuyết để làm gì? Chẳng để làm gì cả. Chỉ là để đôi lúc ta sống ở đây mà không ở đây, hoặc sống hẳn ở một thế giới khác, hoặc nhìn thấy một cảnh quan này lại nhớ đến vài trang trong cuốn nào đó. Cuộc sống thế mà đẹp. Tất nhiên tôi hoàn toàn ý thức cái đẹp này có thể hoàn toàn xa xỉ đối với nhiều người. 

Những ngày ở Hoàng Su Phì, tôi được làm những việc mình thích nhất: sống trong một ngôi nhà trên núi cao yên tĩnh, đi trekking và đọc sách. Nếu được, tôi hoàn toàn có thể ở đây một tháng hay ba tháng, đọc sách, đi bộ, ngắm núi rừng và không cần giao tiếp với thế giới bên ngoài. Tôi nhớ tới Núi thần của Thomas Mann. Đi chuyến này về, tôi nhất định phải bắt tay vào đọc cho xong cuốn này. 

Ngày cuối, tôi lại hẹn xe Vũ Hán đến đón. Gần đến giờ thì bác tài nhắn xe hỏng, không chạy, nên chúng tôi đành nhờ Sáng và Minh đưa ra ngã ba Tân Quang để bắt xe khác về Nội Bài. Chạy đâu được hơn hai mươi cây số thì nghe tiếng bùm: cái lốp xe cũ mèm của chiếc Vitara cũ mèm lại hay chạy đường xấu đã nổ. Tôi nhảy xuống xe mà băn khoăn, không biết khi nào hai cậu này mới thay xong lốp xe, và ra tới Tân Quang thì có đón được xe nào kịp giờ bay hay không. Thời may, một chiếc xe con trờ tới hỏi thăm, rồi cho chúng tôi đi nhờ xe ra ngã ba Tân Quang. Tuyên, tên cậu tài xế xe con, đang trên đường về Hàm Yên. Tuyên nhiệt tình gọi cho một nhà xe, xe ấy đang trên đường về Hà Nội nhưng đã đi qua khỏi ngã ba Tân Quang rồi, hẹn sẽ chờ bọn tôi. Tuyên lái xe con đuổi theo, hết cả huyện Bắc Quang, sau năm bảy cuộc gọi mà không thấy xe khách kia đâu. Ắt đợi bọn tôi lâu quá nên họ đi rồi. Lúc ấy, tôi định nhờ Tuyên thả dọc đường, chỗ nào đông đúc để chúng tôi bắt xe khách hoặc cùng lắm taxi về Nội Bài. Qua khỏi Hàm Yên trời đã hơi tối, Tuyên bảo thôi để em đưa anh chị về tới Nội Bài luôn. Thế là một người không quen đã chở chúng tôi thẳng tới Nội Bài như Uber, chúng tôi nằn nì mãi Tuyên mới nhận một ít tiền xăng, rồi sau đó Tuyên sẽ lái 3 tiếng nữa về thẳng nhà ở tận Lạng Sơn. Chúng tôi bay về Sài Gòn, tới nhà đã 2 giờ sáng. 7 rưỡi sáng, tôi vào văn phòng, lại nhập vào guồng quay bất tận, để lại sau lưng những ngày nắng đẹp. Chuyến đi này, chỉ tiếc đường lên Tây Côn Lĩnh vẫn còn sạt lở nhiều không leo được, đành hẹn một lần khác trở lại Hoàng Su Phì. 



Thứ Ba, 23 tháng 9, 2025

Chia động từ

Có thể nào viết về sự thấu cảm bằng một lối viết giàu lý tính được không? Được. Go, Went, Gone của Jenny Erpenbeck là một bằng chứng. Đây là cuốn thứ hai tôi đọc của bà, sau Kairos. Tôi cũng đang đọc Hạc trắng xòe cánh của Yoko Tawada, nhà văn Nhật sáng tác bằng cả tiếng Nhật lẫn tiếng Đức.

Vì sao tôi chọn đọc Jenny Erpenbeck, Yoko Tawada, Yoko Ogawa hay Rachel Cusk mà không phải là những người như Jane Austen, Virginia Woolf? Thực ra họ đâu có loại trừ nhau? Có những lúc ta trở về cổ điển, với những giá trị đã được hình thành, xác nhận. Nhưng có những lúc ta cần sống ở thì hiện tại, hít thở không khí của thì hiện tại. Austen, Woolf đâu có viết về vấn đề nhập cư, hay ô nhiễm môi trường, lão hóa dân số. Muốn đọc những vấn đề đương đại, nhất định phải đọc những nhà văn ở thời chúng ta rồi.

Go, Went, Gone đề cập một trong những vấn đề thách thức của xã hội châu Âu hiện đại: vấn đề tỵ nạn . Một mặt, sau tất cả những bài giảng về nhân văn, nhân đạo, châu Âu liệu có thể nào làm ngơ, bỏ mặc người tỵ nạn - những người đang chạy trốn đói nghèo, chiến tranh, bạo lực; một mặt, cho họ một chỗ ở thì nước sở tại sẽ gánh chịu những gánh nặng nào về mặt kinh tế, những rạn nứt và bất ổn nào về mặt xã hội? Đó là một tình thế tiến thoái lưỡng nan. 

Jenny Erpenbeck, tất nhiên không phải chính trị gia, không phải nhà làm chính sách, không có tham vọng giải quyết vấn đề hóc búa này trong tiểu thuyết của mình. Nhưng với tư cách là một nhà văn, bà cho thấy một con người châu Âu cụ thể, trong tác phẩm này là Richard, một giáo sư Hy La về hưu, có thể gần gũi và cảm thông với những người châu Phi tỵ nạn như thế nào. Richard đã giúp rất nhiều cho những người châu Phi kém may mắn đó, dành cho họ thật nhiều thời gian. Có thời điểm, có thể một trong những người được ông giúp đã phản bội sự tốt bụng của ông, nhưng ông không quá bận tâm về việc ấy. Lòng tốt của ông dành cho những con người xa lạ là vô điều kiện, đến mức ta phải đặt câu hỏi: vì sao lại tốt đến như thế được? 

Nhưng dẫu ông và bạn bè mình có thể là những người tốt, họ không thể nào giải quyết được câu chuyện nhập cư cho tới nơi tới chốn. Người giải quyết phải là chính quyền, là chính sách, luật pháp. Và những thể chế ấy, tức là nước Đức, đặt ra vô số rào cản để những người châu Phi kém may mắn kia có thể nhập cư một cách hợp pháp. Có lẽ đó là câu trả lời chính thức của châu Âu?

Bình thường, khi đọc phải những câu văn thừa thãi cảm xúc, tôi hay gào lên làm ơn tiết chế lại. Đọc Jenny Erpenbeck, tôi rơi vào thái cực ngược lại. Cách viết quá tiết chế của bà khiến tôi bức xúc! Làm ơn thêm một chút tình cảm vào, làm ơn đãi bôi một chút, viết gì mà khô như ngói thế này, đầu óc tôi cứ kêu gào như thế. Tuy văn Erpenbeck có thể kém hấp dẫn, nhưng dù sao vẫn dễ chịu. Kể cả vậy, sau Kairos và cuốn này, thì tôi nghĩ đọc bà như thế là đủ rồi.

Thứ Ba, 16 tháng 9, 2025

Into Thin Air

Bên Rubik Books gửi tặng tôi cuốn Into Thin Air vừa phát hành. Không nhầm thì đây là bản dịch thứ hai của cuốn này. Trước kia tôi sẽ không quan tâm lắm đến đề tài leo núi, nhưng giờ thì khác. Tôi nhớ lần leo đỉnh Mentok Kangri ở Ladakh bất thành năm 2023. Chuyến đi đó được kể lại ở đâyNăm đó chỉ vừa bay tới Leh ở độ cao 3500m thì vài tiếng đồng hồ sau tôi đã cho chó ăn chè liên tục và đầu đau như búa bổ. Uống thuốc vào giúp tôi hồi phục chút ít. Nhưng sau đó khi trekking từ độ cao 4500m đến base camp ở độ cao 5200m tôi đã đi như zombie, chỉ bằng 1/10 sức lực bình thường, và đấy là trong điều kiện thời tiết tốt, nắng ấm, gió nhẹ, hoàn toàn chưa phải đối đầu với băng, tuyết, chưa phải đụng tới kỹ năng leo núi tuyết.

Vậy mới biết leo núi thực thụ kinh khủng như thế nào. Một so sánh dễ hình dung, như Jon Krakauer đã chỉ ra trong cuốn sách này: leo đỉnh Everest nghĩa là leo tới độ cao ngang ngửa một máy bay dân sự. Ở độ cao đó, mức oxy chỉ bằng 1/3 so với ở mực nước biển. Người leo núi dễ dàng gặp các chứng phù não, phù phổi, ảo giác, ấy là chưa kể muôn vàn hiểm nguy từ cái lạnh, tuyết lở, băng rơi, bão tuyết. Kể cả là một nhà leo núi lão luyện, không có gì đảm bảo 100% khi leo những đỉnh núi cao sẽ trở về. Ở độ cao 8000m, không ai biết được những gì có thể xảy ra. Ở độ cao 8000m, nếu chinh phục thành công và trở về, cũng khó thuật lại chính xác những gì đã xảy ra. Và câu nói ám ảnh tôi nhất khi đọc cuốn sách này: ở độ cao 8000m, không thể nói tới chuyện đạo đức - đây là câu của một nhà leo núi người Nhật giải thích cho việc nhìn thấy một nhà leo núi khác gặp nguy hiểm nhưng không cứu, vì không thể cứu, vì không có sức lực để cứu, vì nếu cứu có nghĩa là bản thân có thể chết.
Muôn vàn hiểm nguy như thế khi chinh phục những đỉnh núi cao nhưng vì sao người ta vẫn leo núi? "Bởi vì ngọn núi ở đó." Nếu chỉ có thể ngồi nhà chăn ấm nệm êm lướt TikTok thì hãy bớt mở miệng chỉ trích những người có tinh thần phiêu lưu mạo hiểm. Văn minh nhân loại đã được thúc đẩy biết bao bởi những người có tinh thần phiêu lưu và ai cũng biết người Việt có cống hiến như thế nào cho văn minh nhân loại.
Into thin air là hồi ký của của nhà báo, nhà leo núi người Mỹ Jon Krakauer về thảm hoạ xảy ra trong cuộc chinh phục Everest năm 1996 cướp đi sinh mạng của 12 nhà leo núi, trong đó có những nhà leo núi kỳ cựu. Bản dịch mới do Rubik Books thực hiện.

Thứ Hai, 18 tháng 8, 2025

When the Night is Over

Alice Munro có một truyện ngắn tên là Gấu trèo về qua núi. Truyện này nằm trong tập Ghét, thân, thương, yêu, cưới được dịch và in ở Việt Nam cách đây gần 10 năm rồi, hồi bà mới đoạt giải Nobel. Mặc dù đã đọc vài tập khác của bà và ca ngợi bà hết lời, tôi mới chỉ đọc tập này gần đây thôi, chính xác là sau khi đọc một cuốn gì đó quá dày, tôi muốn thoát ra, thay đổi không khí đọc cái gì đó ngăn ngắn, tôi nghĩ truyện của Munro sẽ phù hợp. Điều kỳ lạ là tôi không thấy Munro thấm thía như trước nữa. Có thể không phải tập này kém hơn so với các tập kia - nó vẫn được coi là một tập truyện tiêu biểu của bà - có thể chỉ là do tôi khác đi. Nói ngay tôi không bị ảnh hưởng bởi scandal liên quan tới vụ bà đối xử với con gái mình. Đó là một cách ứng xử không chấp nhận được, nhưng tôi luôn tách bạch văn với người. Tập này, tôi chỉ đọc được bốn, năm truyện là thấy đủ và dừng lại; trong số đó tôi chỉ thích truyện được lấy làm tựa cho tập Ghét, thân, thương, yêu, cướiGấu trèo về qua núi. Nhưng thích là thích khi đọc, là thích  cái ấn tượng hai truyện ấy mang đến cho tôi lúc đó, chứ sau thì cũng không nhớ nữa. Nói đúng ra thì tôi nhớ một chút về cái mối tình oái oăm và trò tinh nghịch tai quái của hai cô bé trong Ghét, thân, thương, yêu, cưới, nhưng Gấu trèo về qua núi viết về cái gì thì tôi hoàn toàn không nhớ cho đến khi mở cửa sổ trên máy tính ra và viết những dòng này. Tất nhiên khi bắt tay gõ thì chỉ cần vài cái nhấp chuột đơn giản tôi đã được "nhắc" lại nội dung truyện, biết rằng Trần Ngọc Hiếu đã đăng một bản dịch truyện này trên blog của bạn ấy. Chỉ mong sau này tôi không bị Alzheimer. 

***

Tôi vẫn còn nợ các bạn tôi một lời giải thích về tư duy tiểu thuyết là gì. Số là trong một chuyến đi gần đây, chủ đề tiểu thuyết được đưa ra bàn thảo, và tôi đã trót đưa ra là lời nhận xét là nhà văn X đó có tư duy tiểu thuyết. Gần như vừa nói xong là tôi biết sẽ bị vặn vẹo ngay tư duy tiểu thuyết là gì. Quả thưc như thế, các ông bạn tôi không buông tha cho tôi. Điều bí mật là mặc dù đã đọc nếu không đến số nghìn, thì cũng đã hàng trăm tiểu thuyết rồi, tôi có biết tư duy tiểu thuyết là gì đâu. Hoặc nói đúng hơn, tôi có biết, nhưng diễn đạt cho ra đầu ra đũa thì là một vấn đề khác. Câu buột miệng của tôi cần được giải thích bằng một tiểu luận, các bạn cho tôi khất, nhưng tiểu luận không phải nghề của tôi. 

***

Cái chết là nghề của tôi là tên một tiểu thuyết của nhà văn Pháp Robert Merle, Trần Dần dịch, viết về một trong những cai ngục của một trại tập trung dân Do Thái của Đức Quốc xã. Anh ta không phải là kẻ ác độc. Anh ta chỉ muốn làm tốt nhiệm vụ được giao. Nỗi bận tâm của anh ta là làm thế nào giết được nhiều người nhất mà tốn ít công sức nhất. Anh ta coi việc làm cho người ta chết là một công việc, và vì đó là công việc, và vì anh ta là có thái độ làm việc chuyên nghiệp, nên anh ta tìm mọi cách để nâng cao hiệu suất công việc của mình. Giết bằng súng thì quá tốn đạn, lại còn phải lo cho có đủ người thực hiện việc bắn, mà số người cần phải giết thì quá nhiều. Đó là lý do anh ta nghĩ tới dùng hơi ngạt và lò thiêu.

***

Tôi đang bắt đầu đọc Gia đình bé mọn của Dạ Ngân. Cuốn này ra đời cũng hai mươi năm rồi, tôi có nghe tên nhưng chưa bao giờ chú ý. Gần đây, bạn Lê Hồng Lâm nồng nhiệt giới thiệu trên Facebook nên tôi mua về đọc. Tôi thường đọc khoảng hơn chục cuốn cùng lúc, có cuốn sẽ đọc cho xong, có cuốn bỏ dở nửa chừng, không hẳn vì dở mà vì chưa phải thời điểm thích hợp để nhập vào cuốn đó. Một lý do nữa là tôi thường xuyên rinh sách mới về nhà, cuốn nào mới được mang về cũng nhủ thầm sẽ đọc cho xong mớ này, nhưng cũng thường xuyên chuyện đó không bao giờ xảy ra. Thỉnh thoảng tôi xem lại những tấm ảnh mình chụp sách mới mua post trên FB tầm cách đây chục năm, nhận ra mình mới đọc xong chừng hai, ba cuốn trong đống sách mua hồi đó. Hôm trước gặp Bảo Chân, Chân tặng tôi hai cuốn bạn dịch, rồi nhắc tới cuốn của Khải Đơn và Phan Thúy Hà, thế là tôi lại lọ mọ đặt mua, sách tới nhà hôm qua. Vậy là tôi đọc cuốn của Khải Đơn và Gia đình bé mọn cùng một lúc. Đọc Gia đình bé mọn được mấy mươi trang, chưa thể nói gì về nó, nhưng có sự thú vị trong việc nhặt ra những từ lạ hoặc hiếm dùng: "nôn nang", "ươn yếu", "cụ bị".... "Cụ bị" thì tôi hiểu gần như là "chuẩn bị", còn hai từ kia tôi gặp lần đầu, trong ngữ cảnh có thể đoán lờ mờ nhưng chưa thật sự rõ nghĩa. Sự lấn át của văn học dịch so với văn học trong nước hai chục năm qua, cái hay thì không nói làm gì, nhưng cái dở rõ là làm cho ngôn ngữ ngày càng nghèo đi. Ngôn ngữ phải sinh sôi bởi các nhà văn chứ không phải các dịch giả. Lệ thuộc vào bản gốc, dịch giả dẫu có tài hoa bay bổng cách mấy khó lòng đi khỏi cái khuôn do bản gốc quy định. Ấy là chưa kể đa số bản dịch trên thị trường chỉ ở mức tầm tầm. Đọc tiếng Việt của các nhà văn giỏi vẫn có niềm khoái thú riêng, trước hết là ở cách họ dùng từ, chơi đùa với tiếng mẹ đẻ như thế nào. Nói đi cũng nói lại, ở thì hiện tại, không quá nhiều nhà văn Việt Nam khiến tôi khâm phục về ngôn ngữ. Cuốn của Khải Đơn tôi vừa đọc được ba truyện. Truyện thứ nhất hãy còn mang dáng dấp của một tản văn - trước đây cô cũng ra hai tập tản văn rồi, mà tản văn thì tôi không đọc, nói chung ai viết tôi cũng không đọc, đó không phải văn chương nghiêm túc. Truyện thứ hai và thứ ba trong tập Con rối hát ngoài rừng xa thì đáng chú ý hơn nhiều. Trong cả hai truyện, Khải Đơn tạo được một không khí mập mờ. Liệu đây có phải là không khí chủ đạo cho cả tập hay không thì phải đọc được hết cả tập mới biết. Trong truyện Sâu của biển, chỉ trong vài trang tôi nghĩ Khải Đơn mang đến ấn tượng sâu đậm hơn nguyên cuốn tiểu thuyết đình đám cùng đề tài, Thuyền, của Nguyễn Đức Tùng. Cuốn Thuyền hỏng về nhịp, mặc dù tác giả là nhà thơ. Thuyền được nhiều người ca ngợi vì đề tài, nhưng đề tài (alone) có bao giờ làm nên tác phẩm đâu?

***

Nhưng hai tuần qua, tôi không thật sự đọc ra đầu ra đũa cuốn sách nào, ngược lại xem được rất nhiều phim hay. Cái này nhờ ơn bạn Kỳ đã chỉ tôi cách cài app lậu lên TV. Tôi không ưa xem phim trên máy tính, mà ở VN muốn xem được phim hay chỉ có cách xem phim lậu. Nay cài được app lậu lên TV thật là sung sướng. Có một thời gian tôi đăng ký Mubi đàng hoàng, nhưng kho phim của Mubi cũng hạn chế. Nhờ app lậu tôi coi được một loạt phim hay: The Good, the Bad and the Weird; The Dreamers; Lust, Caution (xem lại mà như xem lần đầu), Stand by Me, We Need to Talk about Kevin; The Handmaiden; Oldboy - toàn phim lâu lắc nhưng phim nào cũng hay, mỗi cái hay một kiểu. Xem Stand by Me xong mới biết cậu bé trong phim là diễn viên River Phoenix, anh của Joaquin Phoenix rất nổi tiếng, mỗi tội River Phoneix nổi sớm mà chết cũng sớm, lúc mới 23 tuổi, vì ma túy quá liều.

***

When the Night is Over là một bài hát của Lord Huron. Dạo này tôi nghe ban này nhiều. Bỏ Spotify chuyển qua Apple Music khiến tôi có hứng thú nghe nhạc trở lại. Chất lượng âm thanh của Apple Music tốt hơn mà nó cũng recommend nhạc tốt hơn Spotify. Con AI của Spotify ngày càng lởm. Thời đầu dùng Spotify, tôi cứ nhong nhóng chờ sang tuần để xem nó giới thiệu gì trong mục Weekly Discovery; về sau, nó giới thiệu toàn bài chán oặt, hay có cái kiểu mình thích bài nào thì nó giới thiệu những bản cover lại chính bài ấy, mà kém hơn. Dùng Apple Music, nếu muốn chuyển những playlist đã tạo ở Spotify, có thể dùng một cái app tên là Songshifter. 

***

Là người đọc tiểu thuyết ở thì hiện tại, Việt Nam hay bất kỳ đâu, thể nào ta cũng đọc ít nhất một cuốn của Haruki Murakami. Thật khó mà cưỡng nổi sức hút của tiểu thuyết của ông nhất là những cuốn thời kỳ đầu: Rừng Na uy, Biên niên ký chim vặn dây cót, Kafka bên bờ biển... Về sau, tiểu thuyết ông không còn mới mẻ nữa, tôi nghĩ cũng không sao. Không thể đòi hỏi quá nhiều. Kể cả không còn cuốn hút bởi tiểu thuyết của ông nữa, khi đọc lại những cuốn non-fiction như Mình nói gì khi nói về chạy bộ, hay đọc cuốn mới được dịch của ông, Nghề viết tiểu thuyết, tôi vẫn đồng cảm và quý mến con người nhà văn. Tất nhiên, một phần tôi là người chạy bộ: về chuyện này thì ông truyền cảm hứng ghê gớm. Kể cả không chạy bộ thì cuốn sách về chạy bộ của ông cũng chứa đựng nhiều thứ hay ho và, chắc một số người sẽ thích, hữu ích. Đọc Nghề viết tiểu thuyết, tôi quý ông ở chỗ thành thực và không cao đạo - về chỗ này thì tôi thấy lắm người thành tựu thì chả có gì mà đi đứng nói năng lúc nào cũng như ông kễnh, rất buồn cười. Ông cho ta cảm tưởng là viết tiểu thuyết dễ lắm, ai viết cũng được, có khi tôi cũng thử cầm bút lên mà viết một cuốn. Tôi còn quý ông ở chỗ là ông nói luôn ông là người không yêu nước - về chỗ này thì tôi giống ông, theo ý nghĩa là không có tự hào dân tộc. Tôi luôn thấy tự hào dân tộc là một tình cảm kệch cỡm. Tự hào dân tộc quá lố thì còn ngu xuẩn nữa. 

Murakami còn là người rất chuyên nghiệp và kỷ luật. Ông mô tả cách viết của ông thế này: mỗi ngày ông viết 4-5 tiếng, được đúng 10 trang. Một tháng ông viết 300 trang. 6 tháng ông viết 1800 trang. Nghe dễ không! Bản thảo đầu tiên cuốn Kafka trên bờ biển là 1800 trang, sau đó ông sẽ sữa chữa 4- 5 vòng, mỗi vòng 1 tháng hoặc vài tuần, đưa cho vợ đọc, sửa tiếp, gửi cho biên tập viên, sửa tiếp. Tôi cũng áp dụng cách làm này khi dịch sách. Tất nhiên thì tôi dịch rất ít và cũng lâu lâu mới dịch một cuốn. Nhưng nếu dịch, thì tôi cũng đặt ra chỉ tiêu cho mình mỗi ngày 1-2 trang gì đó, cuốn tuần gấp 3. Nói gì thì nói, dịch là một việc mang tính kỹ thuật hơn, kiểu gì có thời gian thì cũng dịch được, không như viết là công việc đòi hỏi sáng tạo. Đặt ra chỉ tiêu mỗi ngày viết 10 trang mà duy trì suốt 6 tháng đều đặn như thế thì thật kinh khủng.

***

Thỉnh thoảng tôi thấy một vài nhà văn hồ hởi share lại bình luận về tác phẩm của mình trên Facebook. Thật lòng tôi thấy thương thương. Đã viết ra được tác phẩm, tôi nghĩ nhà văn hãy nên kiêu ngạo một chút. Cái mình cần viết, muốn viết, mình đã viết rồi. Khen, chê, bình luận là chuyện của người khác. Hãy đứng bên ngoài nó. Vả chăng, tôi nghĩ nhà văn không nên lên Facebook, cái chốn ấy chỉ tổ làm hỏng người. Nếu vẫn muốn lên FB, thì hãy tách bạch khỏi thân phận nhà văn của mình. Nếu không lập được một cái profile khác, chí ít đừng nói gì tới văn chương trên ấy. 

***

Tôi đọc xong tập Con rối hát ngoài rừng xa rồi, mất nhiều thời gian hơn dự tính. Cuốn sách hơn 200 trang một chút, gồm 14 truyện ngắn, có truyện chỉ ba bốn trang. Vậy mà đọc khá lâu mới xong. Thứ nhất là không đọc nhanh được. Khải Đơn viết cô đọng và tương đối tiết chế, mắt phải dừng lại ở mỗi câu, chữ lâu hơn. Thứ hai, mỗi truyện đọc xong phải đọc lại một lượt, đâm ra bằng đọc hai cuốn. Nói chung, tôi nghĩ Khải Đơn thành công với tập truyện này, mặc dù đây mới là lần đầu tiên cô thử sức với văn chương hư cấu. Sâu của biển chắc là truyện xuất sắc nhất tập. Tôi cũng thích truyện Khung trời vô cực, nhưng nếu là biên tập viên, tôi sẽ đề nghị cắt gọt đi chút xíu, bớt kể lại, cất bớt thông tin để truyện ép-phê hơn. Nguyễn Ngọc Tư là người rất nghề với thao tác này. Các truyện ngắn của Tư về sau này gần như không thừa từ nào, chi tiết nào.

***

Xem phim Drive My Car xong khiến tôi muốn đọc lại truyện, nhưng tìm khắp nhà không ra tập Những người đàn ông không có đàn bà, thế là đành đặt mua lại. Sách tới hôm qua, tôi đọc lại truyện Drive My Car và hai truyện khác mà đạo diễn có mượn một vài chi tiết đưa vào phim là Kino và Scheherazade. Đạo diễn tên gì không nhớ dựng phim này quá giỏi, từ một truyện không quá đặc sắc như Drive My Car (tôi thấy hai truyện kia còn ấn tượng hơn) mà có thể dựng nên một phim quá đỗi day dứt. Anh diễn viên chính diễn bằng mắt thật xuất sắc, nhất là ở cảnh khi cô vợ ngồi trên người anh vừa làm tình vừa kể chuyện, còn anh nằm ngửa gửi ánh nhìn vào hư vô - không hẳn là bàng quan hay sao nhãng, mà như kiểu vừa tự vấn vừa chất chứa một nỗi bất an đang được kiềm nén. Phim dài ba tiếng nhưng xem có cảm giác qua thật nhanh. 




Thứ Năm, 7 tháng 8, 2025

Tìm lại mặt người

Trích dịch từ bài Individual language and mass language của David Grossman trong tập Writing in the Dark.


Trong thế giới mà tôi đã mô tả, văn chương không có những đại diện có ảnh hưởng tại các trung tâm quyền lực, và tôi thấy khó có thể tin rằng văn chương có thể thay đổi được điều đó. Nhưng nó có thể đề xuất những cách khác để sống trong thế giới ấy. Sống với một nhịp điệu nội tại và một tiếp diễn nội tại đáp ứng nhu cầu cảm xúc và tinh thần của chúng ta cần nhiều hơn rất nhiều so với những gì các hệ thống bên ngoài áp đặt thô bạo lên chúng ta.

Khi đọc một cuốn sách hay, tôi trải nghiệm một sự sáng rõ bên trong: cảm thức về sự duy nhất của bản thân trở nên rõ ràng. Cái giọng nói đều đặn, chính xác chạm tới tôi từ bên ngoài làm sống dậy những giọng nói bên trong tôi, một số trong đó có lẽ đã im lặng cho đến khi giọng nói kia, hay cuốn sách cụ thể này, đến và đánh thức chúng. Và ngay cả khi cùng một thời điểm hàng ngàn người cùng đọc cuốn sách mà tôi đang đọc, thì mỗi người đều đơn độc đối diện với nó. Với mỗi người, cuốn sách ấy là một loại giấy quỳ hoàn toàn khác nhau.

Một cuốn sách hay — và số lượng như thế không nhiều, vì văn chương, tất nhiên, cũng chịu ảnh hưởng của những cám dỗ và rào cản từ truyền thông đại chúng — có thể cá nhân hóa và kéo người đọc đơn lẻ ra khỏi đám đông. Nó cho người đó một cơ hội để cảm nhận cách mà những nội dung tinh thần, ký ức, và những khả thể hiện sinh có thể nổi lên, trồi dậy từ bên trong anh ta, từ những nơi chốn xa lạ, và chúng là của riêng anh ta. Là trái ngọt từ chính cá tính của anh ta  mà thôi. Là kết quả của những tinh luyện thầm kín nhất. Và trong văn hóa đại chúng của đời sống thường nhật, trong sự ô nhiễm toàn diện của ý thức chúng ta, thật khó để những nội dung hồn ấy có thể trồi lên từ sâu thẳm nội tâm và trở nên sống động.

Ở trạng thái tốt nhất, văn chương có thể kết nối chúng ta với số phận của những con người xa lạ và khác biệt. Đôi khi, nó có thể tạo ra trong ta một cảm giác kinh ngạc khi nhận ra rằng ta đã thoát khỏi số phận của những người lạ ấy trong đường tơ kẽ tóc, hoặc khiến ta buồn bã vì đã không thực sự gần gũi với họ. Vì đã không thể vươn tay ra chạm tới họ. Tôi không nói rằng cảm xúc ấy lập tức thúc đẩy chúng ta hành động theo một hình thức nào đó, nhưng chắc chắn rằng nếu không có nó, thì sẽ không thể có bất kỳ hành động nào mang tính thấu cảm, dấn thân hay trách nhiệm.

Ở trạng thái tốt nhất, văn chương có thể tử tế với chúng ta: nó có thể làm dịu đi cảm giác bị xúc phạm vì sự phi nhân hoá mà ta phải chịu đựng khi sống trong những xã hội toàn cầu rộng lớn, vô danh. Sự xúc phạm khi ta bị mô tả bằng ngôn ngữ thô lỗ, bằng sáo ngữ, khuôn mẫu và định kiến. Sự xúc phạm khi ta trở thành — như Herbert Marcuse từng nói — con người một chiều.”

Văn chương cũng mang lại cho ta cảm giác rằng vẫn có cách để chống lại sự tùy tiện tàn nhẫn đã định đoạt số phận ta: ngay cả khi cuối Vụ án, Joseph K. bị chính quyền bắn “như một con chó”; ngay cả khi Antigone bị hành hình; ngay cả khi Hans Castorp cuối cùng cũng chết trong Núi thần — thì ta, kẻ đã đồng hành cùng họ qua những cuộc đấu tranh, vẫn khám phá ra sức mạnh của cá nhân trong việc giữ gìn phẩm giá làm người ngay cả trong những hoàn cảnh khắc nghiệt nhất. Đọc văn chương là hành vi khôi phục phẩm giá của chúng ta, khôi phục khuôn mặt nguyên sơ của ta, những khuôn mặt người, những khuôn mặt từng hiện hữu trước khi bị xóa nhòa giữa đám đông. Trước khi chúng ta bị trưng thu, bị quốc hữu hóa, và bị bán sỉ cho kẻ trả giá thấp nhất.

 

 


Thứ Ba, 5 tháng 8, 2025

Hư cấu - Một đối thoại

Dịch từ bài Fiction  - A Dialogue trong tập More Matter của John Updike.



BỐI CẢNH: Một think tank (chả hiểu think tank ở đây là gì, tạm để nguyên) vô trùng giữa sa mạc California. Những bức tường trắng cong được chia thành các hình chữ nhật bởi những hàng đinh tán hầu như không thề nhìn thấy, treo các thiết bị máy tính với dây cáp và phụ kiện; những bản in  tác phẩm của Klee, Mondrian và Escher được đóng khung; cùng những bó hoa sa mạc tí hon, mới hái, sáng lấp lánh cắm trong các bình mạ vàng gắn trên giá treo tường. Tham gia cuộc trò chuyện, một sự kiện do một nhánh đặc biệt của NASA tổ chức nhằm giải thích nền văn minh Mỹ cho sinh vật ngoài hành tinh, là Farquhar, một cây bút tạp văn ít tên tuổi từ  Indiana tới, và Chokchög, một sứ giả đến từ Sao Hỏa. Chokchög có màu nâu đỏ, bề mặt ánh kim, hình dáng giống kiến, duy chỉ nhiều chân hơn. Hệ thần kinh đã được phát triển qua hàng thiên niên kỷ để điều phối số lượng chân phong phú ấy (mỗi chân có nhiều khớp gối xoay linh hoạt) cùng ba chiếc ăng ten linh hoạt mọc ra từ đầu sinh vật ngoài hành tinh này, theo các nhà tiến hóa học, là lời giải cho trí tuệ phi thường của nó; ở loài Homo sapiens, sự phát triển tương ứng có thể được truy về ngón cái đối kháng, tầm nhìn hai mắt và tư thế đứng thẳng.

Farquhar ngồi trên một chiếc ghế hình cầu bọc da nhân tạo Naugahyde; Chokchög thì ở trên sàn, trừ khi thảo luận trở nên đặc biệt sôi nổi. Cả hai đều đeo micro và tai nghe truyền tải bản dịch tức thời. Vì sinh vật Sao Hỏa không có tai, tai nghe của nó được cắm vào một ổ cắm điện bốn chấu khoan trực tiếp vào hộp sọ, nơi không có dây thần kinh.

CHOKCHÖQ: Hãy giải thích lại cho tôi, hỡi anh bạn Trái Đất hiếu khách, về văn chương hư cấu. Có phải nó là chuyện về những người chưa từng tồn tại nhưng lại thường rất giống với những người mà tác giả từng biết rõ?

FARQUHAR: Không hẳn vậy, bạn ngoài hành tinh của tôi. Nói thế này đi: Nhân vật hư cấu là sự khách thể hóa những ấn tượng có thực về cuộc sống do tác giả tiếp nhận. Bởi vì họ không có thực, tác giả tự do xâm phạm sự riêng tư của họ và thuật lại cho ta những suy nghĩ, cảm giác của họ, bất kể thoáng qua hay vụn vặt thế nào. Do vậy ông ta – hay bà ta, vì giống cái của loài chúng tôi có khả năng sản xuất văn chương hư cấu một cách xuất sắc – cung cấp cho độc giả hình ảnh của cuộc sống gần gũi và sống động hơn bất kỳ thể loại nào bị ràng buộc bởi thực tại, chẳng hạn lịch sử, xã hội học, hay ngay cả tự truyện, có thể mang tới. Văn chương hư cấu còn thật hơn cả thật, ta có thể nói vậy.

CHOKCHÖQ: Ta có thể nói vậy nếu ta chấp nhận lượng hóa thứ không thể định lượng.

FARQUHAR: Xin lỗi, chúng ta hơi phải phụ thuộc vào máy dịch ở đây. Hãy xem một vài ví dụ. (Các kỹ thuật viên của think tank vận bộ áo liền quần màu xám dịch chuyển các sợi dây cáp và nạp vào hệ thần kinh của Chokchög  văn bản số hóa cuốn Ulysses của James Joyce và Chiến tranh và Hòa bình của Bá tước Leo Tolstoy. Tín hiệu truyền đi, kèm theo tiếng tích nhẹ, mất mười bảy giây. Mí mắt của Chokchög, dịch chuyển theo chiều ngang, chớp hai lần.)

CHOKCHÖQ: Napoleon này là người thật à? Dublin này là thành phố thật à?

FARQUHAR: Đúng vậy, nhưng cả Napoleon lẫn Dublin đã được tái tạo lại; vấn đề không phải là thông tin. Văn chương hư cấu hướng đến các nơ-ron phức tạp hơn các nơ-ron thu thập dữ liệu. Văn chương hư cấu nhằm tạo ra ảo giác về trải nghiệm, nhờ vậy ta biết sống là như thế nào.

CHOKCHÖQ: Lạ nhỉ. Trên Sao Hỏa, chúng tôi biết chắc rằng mình đang sống ngay khi các điều dưỡng mớm cho chúng tôi  món cháo đã được nữ hoàng nhai qua,  khi còn đang ở giai đoạn ấu trùng.

FARQUHAR: Chính xác.  Văn chương hư cấu là trải nghiệm đã được ai đó nhai qua rồi. Tiểu thuyết là trải nghiệm đã được ai đó nhai lại rồi. Đây, hãy thử những món này để có ý niệm về kích cỡ. ( Middlemarch Bà Bovary của Flaubert được nạp. Mười hai giây tiếng tích nhẹ như lông vũ).

CHOKCHÖQ:  Tôi hiểu rồi. Văn chương hư cấu viết về những khó khăn của việc làm phụ nữ. Ở Sao Hỏa, chỉ các nữ hoàng của chúng tôi mới được phép có cái tôi. Chúng tôi thấy rằng nhiều hơn một nữ hoàng cho mỗi một triệu công nhân và điều dưỡng làm mất cân bằng xã hội.

FARQUHAR: Khoan đã, anh bạn -  văn chương hư cấu cũng có thể viết về đàn ông mà. Để xem – (Robinson Crusoe, Đi tìm thời gian đã mất Vụ án được chuyển qua đầu tiếp nhận của người Sao Hỏa. Tròn bốn mươi giây tích tắc, trong thời gian đó cậu ta nhấp nháy nhanh hơn và cái ăng ten nhiều khúc của cậu ra thò ra để ngắt một bó hoa sa mạc trên tường.)

CHOKCHÖQ: Tôi hiểu rồi. Thật lắm lo âu. Sự bất ổn của đàn ông trong vũ trụ là đề tài ở đây.

FARQUHAR: Tôi ghét phải tỏ ra tranh cãi, anh bạn biết đấy, nhưng thực ra văn chương hư cấu không chỉ có một đề tài đâu – nó nói về tất cả và không gì cả cùng một lúc. Nó là lời khẩn cầu với linh hồn toàn thể. Nó hiện sinh, nó mang tính bản thể, nó ngẫu nhiên, nó siêu việt. Nó trải rộng như cuộc đời, vừa cao lại vừa sâu, vừa nông cạn vừa đắng cay  thậm chí lại còn tăm tối nữa. Đây, hãy thay đổi nhịp độ một chút. Người Pháp gọi những món này là nouvelles. (Toàn bộ truyện ngắn của Anton Chekhov, Katherine Mansfield, Guy de Maupassant, Machado de Assis và Ernest Hemingway được tải trong hai mươ mốt giây. Bằng một cử chỉ  bất khả ngăn chặn đầy bất ngờ, Chokchög nhét những bông hoa sa mạc vào mặt và bắt đầu nhai. Cái hàm của cậu ta, cũng như mí mắt, di chuyển theo chiều ngang. Mũi cậu ta cứng và có hình lưỡi cày, từ việc đào các thành phố dưới lòng đất.)

CHOKCHÖQ: Thật nhiều tính người. Nhân loại dường như là một giống loài trong vũ trụ không bao giờ chán việc ngắm mình trong gương.  Một tấm gương khá mềm, trong trường hợp văn chương hư cấu. Nó thể hiện rất ít quá trình tiêu hóa, các quy luật vật lý, và hoạt động lao động sản xuất của giai cấp vô sản, nhưng lại chú tâm bất thường đến chuyện trăng gió và tán gẫu. (Ăng ten của cậu ta  đang định vị một bó hoa khác trên tường.)

FARQUHAR: Hượm đã, anh bạn. Yêu đương và chuyện gẫu thì có gì sai? Khiến cho thế giới xoay tròn, phải không?  Cái điều về văn chương hư cấu mà cậu không hiểu đó là, nó ngon lành.

CHOKCHÖQ: (vừa xơi xong bó hoa thứ hai; những đốm hồng và xanh lam của mô cây còn dính vào hàm dưới sáng bóng ánh kim): Ngon hơn, có lẽ, đối với người viết hơn là người đọc. Tôi được biết là cứ mỗi một người đọc trên hành tinh này lại có tới ba người viết tiềm năng.

FARQUHAR: Tóm được cậu rồi, anh bạn siêu âm lịch Ferdinand của tôi. Những lý thuyết phê bình mới nhất của chúng tôi cho thấy rằng sự phân biệt giữa người viết và người đọc hoàn toàn là ảo tưởng. Người viết chính là người đọc, đọc những gì mình viết khi anh ta viết, quan sát văn bản tự tạo ra, và người đọc trong khi đọc lại tạo ra câu chuyện ở những cảnh trí mình tưởng tượng ra, những gương mặt mình nhìn thấy: đó là câu chuyện cuộc đời anh ta! Không có gì giống như văn chương hư cấu về sự xuyên giao vi tế; nó mở rộng những cảm thông và cho ta sống nhiều cuộc đời hơn cuộc đời của chính mình. Đó là cuộc sống dưới kính hiển vi, từng lát một, nhưng cũng là cuộc sống trên thiên giới, giữa những vì sao. Này! (trở nên phấn khích) – nếu các cậu cũng có chút văn chương hư cấu trên Sao Hỏa thì các cậu đã ra khỏi các đường hầm nhếch nhác, lắm luật lệ từ lâu rồi, tới chỗ để chúng tôi có thể nhìn thấy các cậu, và các cậu đã không làm nổ tung cái máy dò Magellan năm nọ. Nói thật là các cậu sẽ không độc ác, bài ngoại và hoang tưởng đến vậy.

CHOKCHÖQ: (dùng hai chiếc xúc tu linh hoạt ôm chặt đầu Farquhar và há rộng cái miệng màu nâu đỏ của mình đến mức đáng sợ): Ngươi đã xúc phạm lối sống của người Sao Hỏa chúng ta! (Các kỹ thuật viên cảnh giác lập tức phóng ra các luồng điện cực mạnh, kéo dài sáu giây , qua cáp máy tính và làm sinh vật ngoài hành tinh choáng váng. Chokchög ngã ngửa ra, những chi thể yếu ớt vẫy vẫy, phát ra những âm thanh khò khè mơ hồ mà máy dịch thuật truyền tải thành:)  Ồ! Thứ văn hư cấu đó thật sự choáng thật đấy! Nhưng ta vẫn không chắc người Trái Đất các ngươi có thể xuất khẩu được nó.
 
 


Thứ Sáu, 1 tháng 8, 2025

Top 10 của John Updike

Tôi hầu như không đọc nổi tiểu thuyết của John Updike, tất nhiên với những cuốn tôi có dịp chạm tới. Tôi vui vẻ move on qua các tác giả chứ không cáu bẳn, phàn nàn gì. Chuyện tôi không đọc được ông là do tôi chứ không phải do ông. Ông hẳn nhiên là một tên tuổi lớn.

Nhưng các bài tiểu luận, điểm sách, tản văn, viết ngắn của ông thì tôi thích. Chúng hài hước và uyên bác. Tôi có cuốn More Matter của ông 900 trang, gồm vài trăm bài viết ngắn, về mọi thứ trên đời. Lâu lâu tôi đọc một chút, lâu lâu tôi thuổng một miếng.

Sau đây  là danh sách 10 tác phẩm văn học vĩ đại nhất thiên niên kỷ thứ hai, theo John Updike. 

1/ Summa Theologica của Thomas Aquinas, thế kỷ XIII;

2/ The Divine Commedy của Dante Alighieri, thế kỷ XIV, bản dịch tiếng Việt là Thần khúc, không rõ đã dịch hết chưa;

3/ Don Quixote của Miguel de Cervantes Saavedra, thế kỷ XVII, đã có ít nhất hai bản dịch tiếng Việt;

4/ Comedies, Histories, and Tragedies của William Shakespeare, thế kỷ XVII, dịch cũng nhiều nhưng chắc chưa hết;

5/ Candide của Voltaire, thế kỷ XVIII, đã có bản dịch;

6/ The History of the Decline and Fall of the Roman Empire, thế kỷ XVIII, hình như đã dịch vài tập. Không rõ tại sao Updike lại coi cuốn này là tác phẩm văn học;

7/ Chiến tranh và hòa bình của Leo Tolstoy, thế kỷ XIX, đã  có hai bản dịch;

8/ Lũ người quỷ ám của Fyodor Dostoevsky, thế kỷ XIX, đã dịch;

9/ Đi tìm thời gian đã mất của  Marcel Proust, thế kỷ XX, đã dịch được hai tập;

10/ Ulysses của James Joyce, thế kỷ XX, chưa dịch.

Ông cũng tự nhận là danh sách này Eurocentric.

Thứ Tư, 30 tháng 7, 2025

Chuyện kể về tình yêu và bóng tối - Amos Oz

Đọc xong Chuyện kể về tình yêu và bóng tối từ hai tuần trước mà chưa viết gì về nó, tôi cảm thấy có lỗi với cuốn sách, mặc dù chưa biết mình có thể viết gì. Tuy vậy, đây là một trong vài cuốn sách ấn tượng mạnh nhất với tôi trong năm đọc sách này (năm đọc sách cũng kiểu như năm tài chính ấy, năm đọc sách của tôi trùng với năm dương lịch vì tôi dùng Goodreads để track những gì mình đọc từ hơn chục năm qua, để mỗi dịp cuối năm có thể nhìn lại năm qua mình đã đọc gì). Ngoại trừ những cuốn đọc lại kiểu như Trăm năm cô đơn, Âm thanh và cuồng nộ hay Người thủy thủ bị biển khước từ, thì những cuốn đáng kể nhất tôi đọc được từ đầu năm tới giờ gồm Tuyết xuân của Mishima, Nostalgia của Mircea Cartarescu, Death in Spring của Merce Rodoreda (một cuốn khác mà tôi cũng cần ghi lại đôi dòng) và cuốn này, Chuyện kể tình yêu và bóng tối (CKTYBT).

CKTYBT là hồi ký của Amos Oz, nhà văn Israel. Trước giờ tôi rất lơ mơ về lịch sử Israel, Palestine, nghe tin tức thì nhiều nhưng chưa bao giờ để tâm vì sao ở đó liên miên đánh nhau, ai đánh nhau với ai và vì sao. Trong cuốn này, Amos Oz kể chuyện cá nhân và gia đình, nhưng lịch sử cá nhân và gia đình ông gắn bó chặt chẽ với lịch sử Israel, đâm ra tôi biết đôi chút về lịch sử quốc gia này và đọc xong có động lực để tìm hiểu thêm tí chút, hiểu hơn về cái gì đang diễn ra ngày nay tại Gaza. Cha mẹ Amos Oz là người Do Thái từ Đông Âu di cư về Palestine trong những năm đầu thế kỷ XX, một mặt trốn tránh phong trào bài Do Thái đang lên cao (rất nhiều bà con họ hàng của họ là nạn nhân), một mặt theo đuổi giấc mơ phục quốc, tạo dựng nên một quốc gia Israel trên đất Palestine. Cả hai người đều giỏi giang, yêu văn chương, triết học, cha ông thông thạo nhiều thứ tiếng, ước mơ trở thành giáo sư nhưng chỉ thành thủ thư, mẹ ông đắm chìm trong Chekhov, Tolstoy, Maupassant..., còn bản thân Amos Oz thì bộc lộ nhiều phẩm chất ưu tú từ bé. Cứ ngỡ họ sẽ là một gia đình hạnh phúc, nhưng không hiểu vì sao, không thật sự rõ vì sao, hôn nhân giữa cha mẹ Amos Oz cứ chuội dần đi, trở thành không thể chịu đựng nổi đối với mẹ của Amos Oz. Mẫu hình hôn nhân này sau này có lẽ được Amos Oz đưa vào cuốn Michael của tôi, đã có bản dịch tiếng Việt từ cách đây nhiều năm. Người mẹ của Amos Oz rồi sẽ tự tử khi ông mười hai tuổi. Tất nhiên đó là một cú sốc đối với cậu con trai. Sau cái chết của mẹ, mối quan hệ của Oz với cha không bao giờ như trước nữa. Ông  đổi họ: Oz là cái họ ông chọn, nghĩa là sức mạnh, họ gốc của ông là Klausner, đồng thời rời nhà dọn đến ở tại một kibbutz, một dạng công xã hay hợp tác xã của Israel, tất nhiên phức tạp hơn vì mọi người sẽ sống chung, ăn ở tập thể, không có sở hữu cá nhân. 

Đoạn trên là một tóm tắt rất tồi của hơn 640 trang sách khổ lớn. Thời buổi này đọc được hết ngần ấy chữ trong vòng hai tuần cũng là một thành tích đáng tự hào. Ừ, tôi đang tự hào. Tất nhiên nếu muốn tìm hiểu về lịch sử Israel thì Google hay một con AI nào đó sẽ cho ra ngay một bản tóm tắt, chả phải vật vã với một cuốn sách dày cộm để làm gì. Tuy nhiên, câu chuyện trong CKTYBT trên hết là một câu chuyện cá nhân, câu chuyện cá nhân mới là đáng kể và đáng đọc, những thứ khác chỉ là collateral damages. Cái có thể giữ tôi lại suốt hơn 600 trang mà không bỏ dỡ, nhảy qua những thứ khác là khả năng kể chuyện của Amos Oz và những thứ nhỏ nhỏ mà khi đọc tôi thấy khoái chết đi được.

Thứ nhỏ nhỏ về việc chọn mua pho mát:

Amos Oz viết như thế này về việc băn khoăn giữa việc chọn mua pho mát Ả Rập hay Do Thái. Về bổn phận thì phải mua pho mát Do Thái, tuy nhiên, pho mát Ả Rập thì rẻ hơn, lại vâng lời Kinh thánh. "Một mặt, giọt máu đào hơn ao nước lã, nên bổn phận của chúng tôi là mua pho mát Tnuva và chỉ Tnuva mà thôi; mặt khác, Kinh thánh dạy cần "một luật pháp cho cả ngươi lẫn ngoại kiều sinh sống giữa các ngươi", nên đôi lúc cũng cần mua của mấy ông Ả Rập láng giềng,"vì các ngươi đã là ngoại kiều ở đất Ai Cập". Thêm nữa, thử tưởng tượng xem Tolstoy sẽ khinh miệt chừng nào những kẻ đi mua pho mát mà lại chọn loại này chứ không phải loại khác chỉ vì khác biệt tôn giáo, quốc tịch hay sắc tộc! Các giá trị phổ quát để đâu? Chủ nghĩa nhân đạo đâu rồi? Tình hữu ái giữa người với người nữa? Nhưng lại nữa, thật thấp hèn làm sao, yếu đuối và bủn xỉn chừng nào nếu đi mua pho mát Ả Rập chỉ vì bớt được vài đồng mil, chứ không phải pho mát của những người tiền phong đã vì chúng tôi một nắng hai sương lao động!"  Chỉ nội bằng cái chuyện giằng xé giữa việc mua pho mát Ả Rập hay Do Thái ở phần đầu cuốn sách, Amos Oz là set luôn cái tone cho việc kể về những mâu thuẫn Ả Rập - Do Thái về sau. 

Thứ nhỏ nhỏ về sách:

Về tình yêu của cha mình đối với sách: "Ba tôi với sách của ông có một mối quan hệ gần như thể xác. Ông thích cầm vào sách, vuốt ve sách, ngửi sách. Ông có khoái cảm gần như xác thịt đối với sách: ông không thể ngăn mình với lấy sách, sờ soạng sách, cả sách của người khác cũng không từ. Và thời đó sách quả là quyến rũ hơn ngày nay nhiều lắm, thứ sách rất hợp để ngửi, để ve vuốt, mân mê. Có những sách chữ vàng trên bìa da thơm nức, hơi thô, sờ vào muốn nổi da gà, cứ như đang sờ mó một thứ gì riêng tư, cấm đoán, một thứ gì chính nó cũng sởn lên, run lên khi bị đụng vào. Và còn những sách khác đóng bìa cứng bọc vải, dán bằng thứ keo có mùi nồng nàn làm sao. Mỗi cuốn sách đều có mùi hương riêng, bí mật và khiêu khích. Đôi khi vải tuột khỏi bìa, như một chiếc váy lơi lả, và thật khó mà cưỡng lại khỏi ngó vào khoảng tối giữa tấm thân và lớp áo, hít mà cái mùi váng đầu kia." Chưa bao giờ tôi đọc được ở đâu một đoạn viết về sách mà sexy, gợi tình như thế. Thử thay từ "cuốn sách" bằng "cô gái" xem sao.

Nhiều thứ nhỏ nhỏ khác, và nhiều thứ nhỏ nhỏ khác nữa. Gõ lại những đoạn tôi thích sẽ hơi nhiều và khá mỏi tay. Tốt nhất nếu quan tâm thì nên đọc ngay sách.

Cần nói thêm, cuốn sách này do An Lý dịch. Bản dịch của cô thật xuất sắc, cho dù dịch vòng qua tiếng Anh chứ không phải tiếng Hebrew. Nếu không nhờ bản dịch chưa chắc tôi đã thích cuốn sách đến vậy.

Thứ Năm, 24 tháng 7, 2025

Mạng xã hội

Trên mạng xã hội, tôi quan sát thấy nhiều người có tố chất tốt, tư duy tốt, viết lách tốt và thực sự đã có nhiều bài viết chất lượng. Nếu họ điều tiết được cái đầu ra của họ, tập trung vào một vài mảng họ hiểu biết rành rẽ nhất, thì công chúng có lẽ được lợi và biết ơn họ rất nhiều. Tuy nhiên, không rõ do nghiện mạng xã hội hay ngáo like, vấn đề gì họ cũng nhảy vào cho ý kiến, từ đó không tránh khỏi hời hợt, tự mâu thuẫn, hay tiêu chuẩn kép. Viết không vì nhu cầu tự thân mà viết vì muốn thu hút đám đông trước sau gì cũng hỏng. Bài thuốc cho những người như vậy, theo tôi là berberin.