Thứ Năm, 7 tháng 8, 2025

Tìm lại mặt người

Trích dịch từ bài Individual language and mass language của David Grossman trong tập Writing in the Dark.


Trong thế giới mà tôi đã mô tả, văn chương không có những đại diện có ảnh hưởng tại các trung tâm quyền lực, và tôi thấy khó có thể tin rằng văn chương có thể thay đổi được điều đó. Nhưng nó có thể đề xuất những cách khác để sống trong thế giới ấy. Sống với một nhịp điệu nội tại và một tiếp diễn nội tại đáp ứng nhu cầu cảm xúc và tinh thần của chúng ta cần nhiều hơn rất nhiều so với những gì các hệ thống bên ngoài áp đặt thô bạo lên chúng ta.

Khi đọc một cuốn sách hay, tôi trải nghiệm một sự sáng rõ bên trong: cảm thức về sự duy nhất của bản thân trở nên rõ ràng. Cái giọng nói đều đặn, chính xác chạm tới tôi từ bên ngoài làm sống dậy những giọng nói bên trong tôi, một số trong đó có lẽ đã im lặng cho đến khi giọng nói kia, hay cuốn sách cụ thể này, đến và đánh thức chúng. Và ngay cả khi cùng một thời điểm hàng ngàn người cùng đọc cuốn sách mà tôi đang đọc, thì mỗi người đều đơn độc đối diện với nó. Với mỗi người, cuốn sách ấy là một loại giấy quỳ hoàn toàn khác nhau.

Một cuốn sách hay — và số lượng như thế không nhiều, vì văn chương, tất nhiên, cũng chịu ảnh hưởng của những cám dỗ và rào cản từ truyền thông đại chúng — có thể cá nhân hóa và kéo người đọc đơn lẻ ra khỏi đám đông. Nó cho người đó một cơ hội để cảm nhận cách mà những nội dung tinh thần, ký ức, và những khả thể hiện sinh có thể nổi lên, trồi dậy từ bên trong anh ta, từ những nơi chốn xa lạ, và chúng là của riêng anh ta. Là trái ngọt từ chính cá tính của anh ta  mà thôi. Là kết quả của những tinh luyện thầm kín nhất. Và trong văn hóa đại chúng của đời sống thường nhật, trong sự ô nhiễm toàn diện của ý thức chúng ta, thật khó để những nội dung hồn ấy có thể trồi lên từ sâu thẳm nội tâm và trở nên sống động.

Ở trạng thái tốt nhất, văn chương có thể kết nối chúng ta với số phận của những con người xa lạ và khác biệt. Đôi khi, nó có thể tạo ra trong ta một cảm giác kinh ngạc khi nhận ra rằng ta đã thoát khỏi số phận của những người lạ ấy trong đường tơ kẽ tóc, hoặc khiến ta buồn bã vì đã không thực sự gần gũi với họ. Vì đã không thể vươn tay ra chạm tới họ. Tôi không nói rằng cảm xúc ấy lập tức thúc đẩy chúng ta hành động theo một hình thức nào đó, nhưng chắc chắn rằng nếu không có nó, thì sẽ không thể có bất kỳ hành động nào mang tính thấu cảm, dấn thân hay trách nhiệm.

Ở trạng thái tốt nhất, văn chương có thể tử tế với chúng ta: nó có thể làm dịu đi cảm giác bị xúc phạm vì sự phi nhân hoá mà ta phải chịu đựng khi sống trong những xã hội toàn cầu rộng lớn, vô danh. Sự xúc phạm khi ta bị mô tả bằng ngôn ngữ thô lỗ, bằng sáo ngữ, khuôn mẫu và định kiến. Sự xúc phạm khi ta trở thành — như Herbert Marcuse từng nói — con người một chiều.”

Văn chương cũng mang lại cho ta cảm giác rằng vẫn có cách để chống lại sự tùy tiện tàn nhẫn đã định đoạt số phận ta: ngay cả khi cuối Vụ án, Joseph K. bị chính quyền bắn “như một con chó”; ngay cả khi Antigone bị hành hình; ngay cả khi Hans Castorp cuối cùng cũng chết trong Núi thần — thì ta, kẻ đã đồng hành cùng họ qua những cuộc đấu tranh, vẫn khám phá ra sức mạnh của cá nhân trong việc giữ gìn phẩm giá làm người ngay cả trong những hoàn cảnh khắc nghiệt nhất. Đọc văn chương là hành vi khôi phục phẩm giá của chúng ta, khôi phục khuôn mặt nguyên sơ của ta, những khuôn mặt người, những khuôn mặt từng hiện hữu trước khi bị xóa nhòa giữa đám đông. Trước khi chúng ta bị trưng thu, bị quốc hữu hóa, và bị bán sỉ cho kẻ trả giá thấp nhất.

 

 


Thứ Ba, 5 tháng 8, 2025

Hư cấu - Một đối thoại

Dịch từ bài Fiction  - A Dialogue trong tập More Matter của John Updike.



BỐI CẢNH: Một think tank (chả hiểu think tank ở đây là gì, tạm để nguyên) vô trùng giữa sa mạc California. Những bức tường trắng cong được chia thành các hình chữ nhật bởi những hàng đinh tán hầu như không thề nhìn thấy, treo các thiết bị máy tính với dây cáp và phụ kiện; những bản in  tác phẩm của Klee, Mondrian và Escher được đóng khung; cùng những bó hoa sa mạc tí hon, mới hái, sáng lấp lánh cắm trong các bình mạ vàng gắn trên giá treo tường. Tham gia cuộc trò chuyện, một sự kiện do một nhánh đặc biệt của NASA tổ chức nhằm giải thích nền văn minh Mỹ cho sinh vật ngoài hành tinh, là Farquhar, một cây bút tạp văn ít tên tuổi từ  Indiana tới, và Chokchög, một sứ giả đến từ Sao Hỏa. Chokchög có màu nâu đỏ, bề mặt ánh kim, hình dáng giống kiến, duy chỉ nhiều chân hơn. Hệ thần kinh đã được phát triển qua hàng thiên niên kỷ để điều phối số lượng chân phong phú ấy (mỗi chân có nhiều khớp gối xoay linh hoạt) cùng ba chiếc ăng ten linh hoạt mọc ra từ đầu sinh vật ngoài hành tinh này, theo các nhà tiến hóa học, là lời giải cho trí tuệ phi thường của nó; ở loài Homo sapiens, sự phát triển tương ứng có thể được truy về ngón cái đối kháng, tầm nhìn hai mắt và tư thế đứng thẳng.

Farquhar ngồi trên một chiếc ghế hình cầu bọc da nhân tạo Naugahyde; Chokchög thì ở trên sàn, trừ khi thảo luận trở nên đặc biệt sôi nổi. Cả hai đều đeo micro và tai nghe truyền tải bản dịch tức thời. Vì sinh vật Sao Hỏa không có tai, tai nghe của nó được cắm vào một ổ cắm điện bốn chấu khoan trực tiếp vào hộp sọ, nơi không có dây thần kinh.

CHOKCHÖQ: Hãy giải thích lại cho tôi, hỡi anh bạn Trái Đất hiếu khách, về văn chương hư cấu. Có phải nó là chuyện về những người chưa từng tồn tại nhưng lại thường rất giống với những người mà tác giả từng biết rõ?

FARQUHAR: Không hẳn vậy, bạn ngoài hành tinh của tôi. Nói thế này đi: Nhân vật hư cấu là sự khách thể hóa những ấn tượng có thực về cuộc sống do tác giả tiếp nhận. Bởi vì họ không có thực, tác giả tự do xâm phạm sự riêng tư của họ và thuật lại cho ta những suy nghĩ, cảm giác của họ, bất kể thoáng qua hay vụn vặt thế nào. Do vậy ông ta – hay bà ta, vì giống cái của loài chúng tôi có khả năng sản xuất văn chương hư cấu một cách xuất sắc – cung cấp cho độc giả hình ảnh của cuộc sống gần gũi và sống động hơn bất kỳ thể loại nào bị ràng buộc bởi thực tại, chẳng hạn lịch sử, xã hội học, hay ngay cả tự truyện, có thể mang tới. Văn chương hư cấu còn thật hơn cả thật, ta có thể nói vậy.

CHOKCHÖQ: Ta có thể nói vậy nếu ta chấp nhận lượng hóa thứ không thể định lượng.

FARQUHAR: Xin lỗi, chúng ta hơi phải phụ thuộc vào máy dịch ở đây. Hãy xem một vài ví dụ. (Các kỹ thuật viên của think tank vận bộ áo liền quần màu xám dịch chuyển các sợi dây cáp và nạp vào hệ thần kinh của Chokchög  văn bản số hóa cuốn Ulysses của James Joyce và Chiến tranh và Hòa bình của Bá tước Leo Tolstoy. Tín hiệu truyền đi, kèm theo tiếng tích nhẹ, mất mười bảy giây. Mí mắt của Chokchög, dịch chuyển theo chiều ngang, chớp hai lần.)

CHOKCHÖQ: Napoleon này là người thật à? Dublin này là thành phố thật à?

FARQUHAR: Đúng vậy, nhưng cả Napoleon lẫn Dublin đã được tái tạo lại; vấn đề không phải là thông tin. Văn chương hư cấu hướng đến các nơ-ron phức tạp hơn các nơ-ron thu thập dữ liệu. Văn chương hư cấu nhằm tạo ra ảo giác về trải nghiệm, nhờ vậy ta biết sống là như thế nào.

CHOKCHÖQ: Lạ nhỉ. Trên Sao Hỏa, chúng tôi biết chắc rằng mình đang sống ngay khi các điều dưỡng mớm cho chúng tôi  món cháo đã được nữ hoàng nhai qua,  khi còn đang ở giai đoạn ấu trùng.

FARQUHAR: Chính xác.  Văn chương hư cấu là trải nghiệm đã được ai đó nhai qua rồi. Tiểu thuyết là trải nghiệm đã được ai đó nhai lại rồi. Đây, hãy thử những món này để có ý niệm về kích cỡ. ( Middlemarch Bà Bovary của Flaubert được nạp. Mười hai giây tiếng tích nhẹ như lông vũ).

CHOKCHÖQ:  Tôi hiểu rồi. Văn chương hư cấu viết về những khó khăn của việc làm phụ nữ. Ở Sao Hỏa, chỉ các nữ hoàng của chúng tôi mới được phép có cái tôi. Chúng tôi thấy rằng nhiều hơn một nữ hoàng cho mỗi một triệu công nhân và điều dưỡng làm mất cân bằng xã hội.

FARQUHAR: Khoan đã, anh bạn -  văn chương hư cấu cũng có thể viết về đàn ông mà. Để xem – (Robinson Crusoe, Đi tìm thời gian đã mất Vụ án được chuyển qua đầu tiếp nhận của người Sao Hỏa. Tròn bốn mươi giây tích tắc, trong thời gian đó cậu ta nhấp nháy nhanh hơn và cái ăng ten nhiều khúc của cậu ra thò ra để ngắt một bó hoa sa mạc trên tường.)

CHOKCHÖQ: Tôi hiểu rồi. Thật lắm lo âu. Sự bất ổn của đàn ông trong vũ trụ là đề tài ở đây.

FARQUHAR: Tôi ghét phải tỏ ra tranh cãi, anh bạn biết đấy, nhưng thực ra văn chương hư cấu không chỉ có một đề tài đâu – nó nói về tất cả và không gì cả cùng một lúc. Nó là lời khẩn cầu với linh hồn toàn thể. Nó hiện sinh, nó mang tính bản thể, nó ngẫu nhiên, nó siêu việt. Nó trải rộng như cuộc đời, vừa cao lại vừa sâu, vừa nông cạn vừa đắng cay  thậm chí lại còn tăm tối nữa. Đây, hãy thay đổi nhịp độ một chút. Người Pháp gọi những món này là nouvelles. (Toàn bộ truyện ngắn của Anton Chekhov, Katherine Mansfield, Guy de Maupassant, Machado de Assis và Ernest Hemingway được tải trong hai mươ mốt giây. Bằng một cử chỉ  bất khả ngăn chặn đầy bất ngờ, Chokchög nhét những bông hoa sa mạc vào mặt và bắt đầu nhai. Cái hàm của cậu ta, cũng như mí mắt, di chuyển theo chiều ngang. Mũi cậu ta cứng và có hình lưỡi cày, từ việc đào các thành phố dưới lòng đất.)

CHOKCHÖQ: Thật nhiều tính người. Nhân loại dường như là một giống loài trong vũ trụ không bao giờ chán việc ngắm mình trong gương.  Một tấm gương khá mềm, trong trường hợp văn chương hư cấu. Nó thể hiện rất ít quá trình tiêu hóa, các quy luật vật lý, và hoạt động lao động sản xuất của giai cấp vô sản, nhưng lại chú tâm bất thường đến chuyện trăng gió và tán gẫu. (Ăng ten của cậu ta  đang định vị một bó hoa khác trên tường.)

FARQUHAR: Hượm đã, anh bạn. Yêu đương và chuyện gẫu thì có gì sai? Khiến cho thế giới xoay tròn, phải không?  Cái điều về văn chương hư cấu mà cậu không hiểu đó là, nó ngon lành.

CHOKCHÖQ: (vừa xơi xong bó hoa thứ hai; những đốm hồng và xanh lam của mô cây còn dính vào hàm dưới sáng bóng ánh kim): Ngon hơn, có lẽ, đối với người viết hơn là người đọc. Tôi được biết là cứ mỗi một người đọc trên hành tinh này lại có tới ba người viết tiềm năng.

FARQUHAR: Tóm được cậu rồi, anh bạn siêu âm lịch Ferdinand của tôi. Những lý thuyết phê bình mới nhất của chúng tôi cho thấy rằng sự phân biệt giữa người viết và người đọc hoàn toàn là ảo tưởng. Người viết chính là người đọc, đọc những gì mình viết khi anh ta viết, quan sát văn bản tự tạo ra, và người đọc trong khi đọc lại tạo ra câu chuyện ở những cảnh trí mình tưởng tượng ra, những gương mặt mình nhìn thấy: đó là câu chuyện cuộc đời anh ta! Không có gì giống như văn chương hư cấu về sự xuyên giao vi tế; nó mở rộng những cảm thông và cho ta sống nhiều cuộc đời hơn cuộc đời của chính mình. Đó là cuộc sống dưới kính hiển vi, từng lát một, nhưng cũng là cuộc sống trên thiên giới, giữa những vì sao. Này! (trở nên phấn khích) – nếu các cậu cũng có chút văn chương hư cấu trên Sao Hỏa thì các cậu đã ra khỏi các đường hầm nhếch nhác, lắm luật lệ từ lâu rồi, tới chỗ để chúng tôi có thể nhìn thấy các cậu, và các cậu đã không làm nổ tung cái máy dò Magellan năm nọ. Nói thật là các cậu sẽ không độc ác, bài ngoại và hoang tưởng đến vậy.

CHOKCHÖQ: (dùng hai chiếc xúc tu linh hoạt ôm chặt đầu Farquhar và há rộng cái miệng màu nâu đỏ của mình đến mức đáng sợ): Ngươi đã xúc phạm lối sống của người Sao Hỏa chúng ta! (Các kỹ thuật viên cảnh giác lập tức phóng ra các luồng điện cực mạnh, kéo dài sáu giây , qua cáp máy tính và làm sinh vật ngoài hành tinh choáng váng. Chokchög ngã ngửa ra, những chi thể yếu ớt vẫy vẫy, phát ra những âm thanh khò khè mơ hồ mà máy dịch thuật truyền tải thành:)  Ồ! Thứ văn hư cấu đó thật sự choáng thật đấy! Nhưng ta vẫn không chắc người Trái Đất các ngươi có thể xuất khẩu được nó.
 
 


Thứ Sáu, 1 tháng 8, 2025

Top 10 của John Updike

Tôi hầu như không đọc nổi tiểu thuyết của John Updike, tất nhiên với những cuốn tôi có dịp chạm tới. Tôi vui vẻ move on qua các tác giả chứ không cáu bẳn, phàn nàn gì. Chuyện tôi không đọc được ông là do tôi chứ không phải do ông. Ông hẳn nhiên là một tên tuổi lớn.

Nhưng các bài tiểu luận, điểm sách, tản văn, viết ngắn của ông thì tôi thích. Chúng hài hước và uyên bác. Tôi có cuốn More Matter của ông 900 trang, gồm vài trăm bài viết ngắn, về mọi thứ trên đời. Lâu lâu tôi đọc một chút, lâu lâu tôi thuổng một miếng.

Sau đây  là danh sách 10 tác phẩm văn học vĩ đại nhất thiên niên kỷ thứ hai, theo John Updike. 

1/ Summa Theologica của Thomas Aquinas, thế kỷ XIII;

2/ The Divine Commedy của Dante Alighieri, thế kỷ XIV, bản dịch tiếng Việt là Thần khúc, không rõ đã dịch hết chưa;

3/ Don Quixote của Miguel de Cervantes Saavedra, thế kỷ XVII, đã có ít nhất hai bản dịch tiếng Việt;

4/ Comedies, Histories, and Tragedies của William Shakespeare, thế kỷ XVII, dịch cũng nhiều nhưng chắc chưa hết;

5/ Candide của Voltaire, thế kỷ XVIII, đã có bản dịch;

6/ The History of the Decline and Fall of the Roman Empire, thế kỷ XVIII, hình như đã dịch vài tập. Không rõ tại sao Updike lại coi cuốn này là tác phẩm văn học;

7/ Chiến tranh và hòa bình của Leo Tolstoy, thế kỷ XIX, đã  có hai bản dịch;

8/ Lũ người quỷ ám của Fyodor Dostoevsky, thế kỷ XIX, đã dịch;

9/ Đi tìm thời gian đã mất của  Marcel Proust, thế kỷ XX, đã dịch được hai tập;

10/ Ulysses của James Joyce, thế kỷ XX, chưa dịch.

Ông cũng tự nhận là danh sách này Eurocentric.

Thứ Tư, 30 tháng 7, 2025

Chuyện kể về tình yêu và bóng tối - Amos Oz

Đọc xong Chuyện kể về tình yêu và bóng tối từ hai tuần trước mà chưa viết gì về nó, tôi cảm thấy có lỗi với cuốn sách, mặc dù chưa biết mình có thể viết gì. Tuy vậy, đây là một trong vài cuốn sách ấn tượng mạnh nhất với tôi trong năm đọc sách này (năm đọc sách cũng kiểu như năm tài chính ấy, năm đọc sách của tôi trùng với năm dương lịch vì tôi dùng Goodreads để track những gì mình đọc từ hơn chục năm qua, để mỗi dịp cuối năm có thể nhìn lại năm qua mình đã đọc gì). Ngoại trừ những cuốn đọc lại kiểu như Trăm năm cô đơn, Âm thanh và cuồng nộ hay Người thủy thủ bị biển khước từ, thì những cuốn đáng kể nhất tôi đọc được từ đầu năm tới giờ gồm Tuyết xuân của Mishima, Nostalgia của Mircea Cartarescu, Death in Spring của Merce Rodoreda (một cuốn khác mà tôi cũng cần ghi lại đôi dòng) và cuốn này, Chuyện kể tình yêu và bóng tối (CKTYBT).

CKTYBT là hồi ký của Amos Oz, nhà văn Israel. Trước giờ tôi rất lơ mơ về lịch sử Israel, Palestine, nghe tin tức thì nhiều nhưng chưa bao giờ để tâm vì sao ở đó liên miên đánh nhau, ai đánh nhau với ai và vì sao. Trong cuốn này, Amos Oz kể chuyện cá nhân và gia đình, nhưng lịch sử cá nhân và gia đình ông gắn bó chặt chẽ với lịch sử Israel, đâm ra tôi biết đôi chút về lịch sử quốc gia này và đọc xong có động lực để tìm hiểu thêm tí chút, hiểu hơn về cái gì đang diễn ra ngày nay tại Gaza. Cha mẹ Amos Oz là người Do Thái từ Đông Âu di cư về Palestine trong những năm đầu thế kỷ XX, một mặt trốn tránh phong trào bài Do Thái đang lên cao (rất nhiều bà con họ hàng của họ là nạn nhân), một mặt theo đuổi giấc mơ phục quốc, tạo dựng nên một quốc gia Israel trên đất Palestine. Cả hai người đều giỏi giang, yêu văn chương, triết học, cha ông thông thạo nhiều thứ tiếng, ước mơ trở thành giáo sư nhưng chỉ thành thủ thư, mẹ ông đắm chìm trong Chekhov, Tolstoy, Maupassant..., còn bản thân Amos Oz thì bộc lộ nhiều phẩm chất ưu tú từ bé. Cứ ngỡ họ sẽ là một gia đình hạnh phúc, nhưng không hiểu vì sao, không thật sự rõ vì sao, hôn nhân giữa cha mẹ Amos Oz cứ chuội dần đi, trở thành không thể chịu đựng nổi đối với mẹ của Amos Oz. Mẫu hình hôn nhân này sau này có lẽ được Amos Oz đưa vào cuốn Michael của tôi, đã có bản dịch tiếng Việt từ cách đây nhiều năm. Người mẹ của Amos Oz rồi sẽ tự tử khi ông mười hai tuổi. Tất nhiên đó là một cú sốc đối với cậu con trai. Sau cái chết của mẹ, mối quan hệ của Oz với cha không bao giờ như trước nữa. Ông  đổi họ: Oz là cái họ ông chọn, nghĩa là sức mạnh, họ gốc của ông là Klausner, đồng thời rời nhà dọn đến ở tại một kibbutz, một dạng công xã hay hợp tác xã của Israel, tất nhiên phức tạp hơn vì mọi người sẽ sống chung, ăn ở tập thể, không có sở hữu cá nhân. 

Đoạn trên là một tóm tắt rất tồi của hơn 640 trang sách khổ lớn. Thời buổi này đọc được hết ngần ấy chữ trong vòng hai tuần cũng là một thành tích đáng tự hào. Ừ, tôi đang tự hào. Tất nhiên nếu muốn tìm hiểu về lịch sử Israel thì Google hay một con AI nào đó sẽ cho ra ngay một bản tóm tắt, chả phải vật vã với một cuốn sách dày cộm để làm gì. Tuy nhiên, câu chuyện trong CKTYBT trên hết là một câu chuyện cá nhân, câu chuyện cá nhân mới là đáng kể và đáng đọc, những thứ khác chỉ là collateral damages. Cái có thể giữ tôi lại suốt hơn 600 trang mà không bỏ dỡ, nhảy qua những thứ khác là khả năng kể chuyện của Amos Oz và những thứ nhỏ nhỏ mà khi đọc tôi thấy khoái chết đi được.

Thứ nhỏ nhỏ về việc chọn mua pho mát:

Amos Oz viết như thế này về việc băn khoăn giữa việc chọn mua pho mát Ả Rập hay Do Thái. Về bổn phận thì phải mua pho mát Do Thái, tuy nhiên, pho mát Ả Rập thì rẻ hơn, lại vâng lời Kinh thánh. "Một mặt, giọt máu đào hơn ao nước lã, nên bổn phận của chúng tôi là mua pho mát Tnuva và chỉ Tnuva mà thôi; mặt khác, Kinh thánh dạy cần "một luật pháp cho cả ngươi lẫn ngoại kiều sinh sống giữa các ngươi", nên đôi lúc cũng cần mua của mấy ông Ả Rập láng giềng,"vì các ngươi đã là ngoại kiều ở đất Ai Cập". Thêm nữa, thử tưởng tượng xem Tolstoy sẽ khinh miệt chừng nào những kẻ đi mua pho mát mà lại chọn loại này chứ không phải loại khác chỉ vì khác biệt tôn giáo, quốc tịch hay sắc tộc! Các giá trị phổ quát để đâu? Chủ nghĩa nhân đạo đâu rồi? Tình hữu ái giữa người với người nữa? Nhưng lại nữa, thật thấp hèn làm sao, yếu đuối và bủn xỉn chừng nào nếu đi mua pho mát Ả Rập chỉ vì bớt được vài đồng mil, chứ không phải pho mát của những người tiền phong đã vì chúng tôi một nắng hai sương lao động!"  Chỉ nội bằng cái chuyện giằng xé giữa việc mua pho mát Ả Rập hay Do Thái ở phần đầu cuốn sách, Amos Oz là set luôn cái tone cho việc kể về những mâu thuẫn Ả Rập - Do Thái về sau. 

Thứ nhỏ nhỏ về sách:

Về tình yêu của cha mình đối với sách: "Ba tôi với sách của ông có một mối quan hệ gần như thể xác. Ông thích cầm vào sách, vuốt ve sách, ngửi sách. Ông có khoái cảm gần như xác thịt đối với sách: ông không thể ngăn mình với lấy sách, sờ soạng sách, cả sách của người khác cũng không từ. Và thời đó sách quả là quyến rũ hơn ngày nay nhiều lắm, thứ sách rất hợp để ngửi, để ve vuốt, mân mê. Có những sách chữ vàng trên bìa da thơm nức, hơi thô, sờ vào muốn nổi da gà, cứ như đang sờ mó một thứ gì riêng tư, cấm đoán, một thứ gì chính nó cũng sởn lên, run lên khi bị đụng vào. Và còn những sách khác đóng bìa cứng bọc vải, dán bằng thứ keo có mùi nồng nàn làm sao. Mỗi cuốn sách đều có mùi hương riêng, bí mật và khiêu khích. Đôi khi vải tuột khỏi bìa, như một chiếc váy lơi lả, và thật khó mà cưỡng lại khỏi ngó vào khoảng tối giữa tấm thân và lớp áo, hít mà cái mùi váng đầu kia." Chưa bao giờ tôi đọc được ở đâu một đoạn viết về sách mà sexy, gợi tình như thế. Thử thay từ "cuốn sách" bằng "cô gái" xem sao.

Nhiều thứ nhỏ nhỏ khác, và nhiều thứ nhỏ nhỏ khác nữa. Gõ lại những đoạn tôi thích sẽ hơi nhiều và khá mỏi tay. Tốt nhất nếu quan tâm thì nên đọc ngay sách.

Cần nói thêm, cuốn sách này do An Lý dịch. Bản dịch của cô thật xuất sắc, cho dù dịch vòng qua tiếng Anh chứ không phải tiếng Hebrew. Nếu không nhờ bản dịch chưa chắc tôi đã thích cuốn sách đến vậy.

Thứ Năm, 24 tháng 7, 2025

Mạng xã hội

Trên mạng xã hội, tôi quan sát thấy nhiều người có tố chất tốt, tư duy tốt, viết lách tốt và thực sự đã có nhiều bài viết chất lượng. Nếu họ điều tiết được cái đầu ra của họ, tập trung vào một vài mảng họ hiểu biết rành rẽ nhất, thì công chúng có lẽ được lợi và biết ơn họ rất nhiều. Tuy nhiên, không rõ do nghiện mạng xã hội hay ngáo like, vấn đề gì họ cũng nhảy vào cho ý kiến, từ đó không tránh khỏi hời hợt, tự mâu thuẫn, hay tiêu chuẩn kép. Viết không vì nhu cầu tự thân mà viết vì muốn thu hút đám đông trước sau gì cũng hỏng. Bài thuốc cho những người như vậy, theo tôi là berberin.

Thứ Tư, 23 tháng 7, 2025

Rời

 + Một cuốn sách phải tạo nên một nhịp điệu. Nhịp điệu ấy có thể nhanh, có thể chậm, có thể biến hóa, nhưng không được giật cục. Tác giả phải quán xuyến được nhịp điệu. Nhịp điệu hỏng là sách hỏng. 

+ Không viết về những cuốn sách dở. Đọc sách dở đã là một tra tấn, viết về sách dở là tra tấn gấp đôi, gấp ba. Xin được thanh thản.

+ Phải biết cảnh giác với đám đông, và cảnh giác với chính mình.

+ Đòi hỏi mọi người phải ứng xử giống nhau hay giống mình là một hình thức của sự độc đoán.

Chủ Nhật, 13 tháng 7, 2025

Hemingway trả lời phỏng vấn

Bài trả lời phỏng vấn của Hemingway cho The Paris Review là một trong những bài sớm nhất, và theo tôi nằm trong hàng đặc sắc nhất các bài phỏng vấn của tạp chí này. Nếu siêng và rảnh thì tôi sẽ dịch hết ra. Còn lúc chưa siêng và chưa rảnh lắm, tôi tóm tắt một ít dưới đây:

+ Hemingway có thói quen viết vào lúc sáng sớm, khi chưa có ai quấy rầy. Ông bắt đầu bằng việc đọc lại những gì đã viết, và bởi vì hôm trước ông dừng lại ở chỗ biết rằng cái gì sẽ xảy ra kế tiếp [trong câu chuyện], ông sẽ tiếp tục từ chỗ đó. Trình tự này lặp lại mỗi ngày. "Khi bạn ngừng lại bạn trống rỗng, nhưng cùng lúc không bao giờ trống rỗng mà tràn đầy, như khi làm tình với người bạn yêu. Không có gì có thể làm tổn thương bạn, không có gì xảy ra, không có gì có ý nghĩa gì cho đến ngày kế tiếp khi bạn lại tiếp tục làm việc đó. Chờ cho đến ngày hôm sau là thứ khó nhất cần vượt qua."

+ Được hỏi Hemingway có thường viết đi viết lại không, ông trả lời cũng tùy. Nhưng trang cuối của Giã từ vũ khí, ông viết lại ba mươi chín lần. 

+ "Bạn có thể viết bất kỳ khi người ta để yên cho bạn, không xen ngang... Nhưng chắc chắn khi đang yêu là viết hay nhất."

+ Hỏi: Ông coi đâu là hình thức đào tạo tốt nhất đối với người muốn trở thành nhà văn:
Đáp: Anh ta hãy  tự treo cổ bởi anh ta thấy rằng viết giỏi khó đến mức bất khả. Rồi hãy cắt dây không nương tay và rồi anh ta hãy tự buộc mình phải viết tốt đến mức có thể cho hết phần đời còn lại. Ít ra khi đó anh ta có thể bắt đầu với chuyện treo cổ. (Câu trả lời này, nếu tôi nhớ không nhầm, có được nhắc lại trong cuốn Never Any End to Paris của Enrique Vila-Mata.)

+ Được hỏi khi viết ông có bị ảnh hưởng bởi những gì đang đọc không, câu trả lời của ông đại ý chỉ có Ulysses của James Joyce.

+ Khi được hỏi về ảnh hưởng của những người đương thời lên tác phẩm của mình, câu trả lời của về Gertrude Stein rất thú vị: " Cô Stein viết khá dài và khá không chính xác về ảnh hưởng của cô ta đối với tác phẩm của tôi. Cô ta cần làm như vậy sau khi cô đã học cách viết thoại trong một cuốn sách có tên là Mặt trời vẫn mọc."

+ Khi được hỏi ông học viết nhiều nhất từ ai, Hemingway liệt kê một danh sách rất dài: Mark Twain, Flaubert, Stendhal, Chekhov..., đáng chú ý ông liệt kê rất nhiều họa sĩ. Ông nói ông từ các họa sĩ nhiều chẳng kém từ các nhà văn.

+ Được hỏi liệu tiểu thuyết của ông có chứa các biểu tượng không, ông trả lời: "Tôi cho là có vì các nhà phê bình cứ tìm ra hoài. Nếu ông không phiền, tôi không thích nói chuyện về chúng và bị hỏi về chúng. Viết sách viết truyện mà không bị yêu cầu giải thích đã là khó lắm rồi. Giờ còn giảng giải nữa thì các chuyên gia giải thích còn việc đâu mà làm. Nếu đã có năm, sáu chuyên gia giỏi thích rồi thì tôi xen vào công việc của họ làm gì? Hãy đọc bất cứ thứ gì tôi viết cho vui thôi. Rồi nếu bạn tìm thấy thứ gì [trong khi đọc], ấy là thứ đo lường nỗ lực đọc của bạn."

+ Về style: Những gì những kẻ a-ma-tơ gọi là style thông thường chỉ là sự kỳ quặc không thể tránh khỏi (unavoidable awkwardnesses) trong việc nỗ lực làm ra những thứ chưa tồn tại trước đó. Gần như không có tác phẩm cổ điển nào giống những tác phẩm cổ điển khác trước đó. Thoạt tiên người ta chỉ nhìn thấy sự kỳ quặc. Rồi mọi người nghĩ rằng sự kỳ quặc đó là phong cách rồi bắt đầu bắt chước. Ấy là điều đáng tiếc.

+ Nếu nhà văn ngừng quan sát thì coi như ông ta đã xong phim.

+ Nguyên lý tảng băng trôi rất nổi tiếng được đề cập trong bài phỏng vấn này: Đại khái cứ mỗi phần viết ra thì có bảy, tám phần ẩn đi. Nếu một nhà văn bỏ đi vài thứ bởi vì anh ta không biết, không hiểu rõ, thì nó sẽ tạo ra lỗ hổng trong câu chuyện. 

+ "All you can be sure  about a political-minded writer is that if his work should last you will have to skip the politics when you read it."

+ "Tài năng cốt lõi nhất của một nhà văn giỏi là một máy dò cứt nội tại, chống sốc. Đây là ra-đa của nhà văn và tất cả nhà văn lớn đều có nó."


Thứ Năm, 12 tháng 6, 2025

Không có gì

Hai tuần liên tiếp bận như cún, một tuần đi họp ở Barcelona, bay đi bay về cộng vô số cuộc họp to nhỏ khác, không có thời gian sờ tới blog, nhìn lại số view hằng ngày vẫn đều đều thế mới tài! Nghĩa là đâu đó vẫn có người lục lọi blog này kể cả khi không có bài mới. Đặt gạch dưới đây những thứ muốn viết, nhưng chưa có thời gian để viết:

+ Tiếp tục tóm tắt các bài phỏng vấn quan trọng trên The Paris Review, nếu có thời gian thì dịch hẳn một vài bài, chẳng hạn bài Faulkner;

+ Viết về các cuốn mới đọc gần đây: Âm thanh và cuồng nộ (phù, cuối cùng đã thực sự đọc xong); Death in Spring, The Tunnel.

+ Bonus tấm ảnh một kiệt tác khuân từ Barcelona về:





Thứ Sáu, 30 tháng 5, 2025

James Baldwin trả lời phỏng vấn

Theo chỗ tôi biết, hiện diện của James Baldwin trong tiếng Việt còn khá ít ỏi: một bản dịch Điệu buồn cho Charlie của Sài Gòn trước 1975 (Phan Lệ Thanh dịch - PLT cũng là người dịch Goodbye, Columbus của Philip Roth) , bản dịch Căn phòng của Giovanni (Duy Đoàn dịch) gần đây do Tao Đàn in; tôi cũng từng nhìn thấy bản dịch của If Beale Street Could Talk có lẽ dịch thời bao cấp. Hình như chỉ có thế. James Baldwin viết nhiều, cả tiểu thuyết và tiểu luận đều có những cuốn xuất sắc. Bài phỏng vấn James Baldwin do The Paris Review thực hiện năm 1984. Dưới đây là những điểm đáng lưu ý:

+ James Baldwin có một thời tuổi trẻ sống ở Paris, chính thời gian ấy tạo cảm hứng cho ông viết tiểu thuyết đầu tay Căn phòng của Giovanni. Khi đến Paris, ông không biết một chữ tiếng Pháp nào. Lý do ông chọn Pháp là, thực ra ông không chọn Pháp, mà chỉ muốn thoát khỏi New York. Là người da đen sống ở New York thời kỳ đó, theo ông chỉ có hai lựa chọn: giết hay bị giết.

+ James Baldwin học cách viết từ ai?  Ông đọc rất nhiều. Hai nhà văn có ảnh hưởng lớn đến ông là Dostoievski và Balzac, đặc biệt là Balzac.

+ TBC


Thứ Hai, 19 tháng 5, 2025

Không còn tình yêu - Javier Marías

Truyện ngắn của Javier Marías


Rất có thể mục tiêu chính của các hồn ma, nếu họ vẫn tồn tại, là ngăn cản mong muốn của những người còn sống, hiện ra khi sự có mặt của họ không được chào đón và lẩn biến đi nếu có ai trông chờ hay đòi hỏi. Tuy vậy, các tài liệu mà Ngài Halifax và Ngài Rymer thu thập được trong những năm 1930 cho ta biết, đôi khi, có những thỏa thuận giữa ma và người.


Một trong những trường hợp khiêm nhượng và cảm động nhất là chuyện về một bà cụ sống ở thị trấn Rye, khoảng năm 1910: một nơi chốn phù hợp cho những mối quan hệ lâu bền, vì cả Henry James lẫn E.F. Benson đều từng sống ở Rye độ vài năm trong cùng ngôi nhà có tên là Lamb House, (họ sống ở đó trong những quãng thời gian khác nhau, Benson thậm chí còn trở thành thị trưởng), hai nhà văn rất mực bận rộn với những chuyến viếng thăm và sự trông đợi, hay có lẽ, niềm hoài nhớ ấy. Thời trẻ, bà cụ này (nhũ danh Molly Morgan Muir) là người hầu cho một quý bà cao tuổi, giàu có; Molly giúp việc cho bà, gồm cả việc đọc tiểu thuyết để bà dịu nỗi buồn chán vì bà chẳng có nhu cầu gì mấy mà lại gánh chịu cảnh góa phụ từ sớm và không thể tránh khỏi: theo người dân trong thị trấn, bà Cromer-Blake đã phải chịu đựng sự thất vọng ngang trái thi thoảng trong tình yêu sau cuộc hôn nhân ngắn ngủi, và có lẽ điều này - hơn là cái chết của ông chồng ít được hay hoàn toàn không được nhớ tới - đã khiến bà có vẻ cáu bẳn và thu mình vào cái tuổi mà những phẩm chất ấy ở một phụ nữ không còn hấp dẫn hay duyên dáng hay là đối tượng đùa cợt nữa. Sự chán nản khiến bà uể oải đến nỗi bà gần như không thể tự mình đọc cái gì một mình trong im lặng, vì vậy bà sai người hầu đọc to cho bà nghe những chi tiết về các chuyện tình và cảm xúc mà với mỗi ngày trôi qua - và chúng trôi qua rất nhanh và đơn điệu - dường như càng xa cách hơn căn nhà ấy. Bà luôn lắng nghe thật lặng lẽ, tuyệt đối đắm chìm trong câu chuyện, và thảng hoặc lắm mới yêu cầu Molly Morgan Muir đọc lại một đoạn hay một mẩu đối thoại mà bà không muốn giã từ mà trước hết không cố tỏ ra lưu luyến. Mỗi khi Molly đọc xong, nhận xét duy nhất của bà là: “Molly, giọng của cô thật dễ thương. Với chất giọng đó cô sẽ tìm thấy tình yêu.”


Chính trong những buổi đọc ấy hồn ma của ngôi nhà xuất hiện: mỗi tối, khi Molly đang đọc những câu văn của Stevenson, Jane Austen, Dumas hay Conan Doyle, cô có thể nhận ra hình dáng một chàng trai trẻ, thuần hậu, một anh chàng vững chải. Lần đầu thấy anh, đứng tì hai khuỷu tay trên lưng ghế bà già đang ngồi, như thể anh ta đang chăm chú lắng nghe truyện cô đang đọc, cô suýt rú lên vì sợ hãi. Nhưng chàng trai trẻ ngay lập tức nhấc một ngón tay lên môi trấn an, ra hiệu cô cứ tiếp tục và đừng tiết lộ sự có mặt của anh. Anh có một gương mặt hiền lành, và một nụ cười bẽn lẽn thường trực trong đôi mắt giễu cợt, thỉnh thoảng nhường chỗ cho, giữa những đoạn u sầu, vẻ nghiêm túc ngây thơ và đầy cảnh giác của một người không rành rọt cách phân biệt giữa cái có thực và cái tưởng tượng. Cô gái nghe theo, cho dù trong ngày đầu tiên đó, cô không thể không ngước lên quá thường xuyên nhìn qua cái chỏm trên đầu bà Cromer-Blake, người cũng nhìn lên theo, như thể tự hỏi một cái mũ giả định nào đó đang bị lệch hay như thể đèn không đủ sáng. “Gì thế, cô bé?” bà nói, hơi bực mình. “Sao cô cứ ngước nhìn cái gì hoài vậy?” “Không có gì ạ,” Molly Muir đáp, “chỉ là cách cháu cho mắt nghỉ ngơi trước khi quay lại cuốn sách thôi. Đọc lâu thế này làm cháu mỏi mắt.” Chàng trai khăn quấn quanh cổ khẽ gật đầu và cử chỉ đó có nghĩa là cô gái sau này có thể tiếp tục thói quen ngước nhìn và nhờ đó ít ra có thể thỏa mãn con mắt tò mò của mình. Vì, kể từ đó, đêm nào cũng thế, trừ rất ít ngoại lệ, cô đọc cho bà già mà cũng là đọc cho anh, mà bà già chưa bao giờ ngoảnh lại hay khám phá ra sự hiện diện của chàng trai trẻ.


Chàng trai không nấn ná hay xuất hiện vào bất cứ lúc nào khác, do đó trong suốt bao năm trời Molly Muir chưa bao giờ có cơ hội nói chuyện với anh hay hỏi anh là ai hay từng là ai hay tại sao anh lại nghe cô đọc sách. Cô ngẫm tới khả năng anh biết đâu là nguyên do của sự thất vọng trong tình yêu bị cấm đoán mà bà chủ của cô gánh chịu đâu đó trong quá khứ, nhưng bà chủ chưa bao giờ chia sẻ bí mật nào, bất chấp những lời bóng gió của những trang sách được đọc to ấy và của chính Molly trong những cuộc trò chuyện chậm rãi, trong đêm suốt cả nửa cuộc đời. Có lẽ tin đồn là không đúng và bà chủ chẳng có gì đáng để kể lại, ấy là lý do tại sao bà đòi nghe những câu chuyện xa xôi nhất, lạ lẫm nhất và khó xảy ra nhất. Hơn một lần, Molly có ý định làm điều tử tế, nói cho bà nghe chuyện gì diễn ra sau lưng bà để bà chia sẻ với cô niềm hào hứng nho nhỏ hằng ngày, kể cho bà nghe về sự hiện diện của một người đàn ông giữa những bức tường vô tính, trầm tư trong đó chỉ có tiếng vọng, đôi khi nguyên cả ngày đêm, của giọng họ; giọng của bà chủ ngày càng già hơn, lẫn thẫn hơn, còn giọng của Molly Muir, mỗi sáng, bớt đẹp đi một tí, yếu ớt hơn và nhợt nhạt hơn, và trái ngược với dự đoán, không mang đến tình yêu cho cô, ít nhất không phải là một thứ tình yêu sẽ ở lại, một thứ tình yêu có thể cầm nắm được. Nhưng bất cứ khi nào cô định đầu hàng sự quyến rũ đó, cô sẽ đột nhiên nhớ lại cử chỉ ra hiệu im lặng của chàng trai - ngón tay trên môi, thỉnh thoảng lặp đi lặp lại với ánh nhìn hơi có vẻ trêu chọc - và thế là cô giữ im lặng. Cô không muốn chọc giận anh chút nào. Có lẽ ma cũng dễ chán chường như góa phụ. 


Sau khi bà Cromer-Blake mất, Molly vẫn ở trong ngôi nhà ấy, buồn và mất phương hướng nên cô ngừng đọc sách mất mấy ngày: chàng trai không xuất hiện. Tin rằng chàng trai quê muốn có được học vấn mà chàng rõ ràng là đã thiếu trong cuộc đời, nhưng cũng sợ rằng không phải vậy mà sự hiện diện của chàng gắn một cách bí ẩn với bà già mà thôi, cô quyết định đọc to trở lại để gọi anh về, lần này cô không chỉ đọc tiểu thuyết, mà còn cả sách về lịch sử và khoa học tự nhiên. Mất ít lâu chàng trai mới xuất hiện trở lại - có lẽ ma cũng để tang, họ có lý do làm điều ấy hơn ai hết - nhưng cuối cùng chàng cũng xuất hiện trở lại, có lẽ bị thu hút bởi những nội dung mới, mà chàng tiếp tục lắng nghe với cùng vẻ chăm chú, nhưng lần này chàng không đứng, tì vào lưng ghế, mà thoải mái ngồi hẳn xuống ghế bành, thỉnh thoảng vắt chân chữ ngũ, cầm tẩu thuốc trên tay, như một vị trưởng tộc mà anh không bao giờ trở thành.


Cô gái, ngày càng già đi, càng nói chuyện thân mật hơn với anh, nhưng chưa bao giờ được trả lời: ma không phải lúc nào cũng nói được, mà cũng không phải lúc nào cũng muốn nói. Và như thế mối liên kết đơn phương ấy phát triển, năm tháng cứ thế trôi qua, cho đến một ngày nọ chàng trai không hiện ra, rồi cả những ngày và tuần kế tiếp cũng không thấy chàng đâu. Cô gái, giờ đã khá già, thoạt tiên lo lắng như một người mẹ, sợ một tai nạn hay chuyện không may nghiêm trọng nào đó đã xảy ra với anh, không nhận thức được rằng những chuyện ấy chỉ có thể xảy ra với người sống, chứ ai không còn sống thì lại an toàn. Hiểu ra điều này, nỗi lo lắng của bà chuyển sang tuyệt vọng: tối tối, bà nhìn chằm chằm vào cái ghế bành trống rỗng và nguyền rủa sự im lặng, hỏi những câu hỏi đau buồn với hư không, ném những lời trách móc vào không gian vô hình, bà băn khoăn không biết mình đã phạm phải lỗi lầm gì và bà háo hức tìm những cuốn sách mới có thể khơi dậy lòng hiếu kỳ của chàng trai để khiến chàng quay trở lại, những thể loại mới và tiểu thuyết mới, và bà nôn nao chờ đợi từng kỳ truyện Sherlock Holmes mới, vì bà tin tưởng kỹ năng và văn chương của ông hơn bất kỳ món mồi khoa học hay văn chương nào khác. Bà tiếp tục đọc to mỗi ngày, để xem chàng trai có đến hay không.


Một tối nọ, sau nhiều tháng sầu muộn, bà phát hiện ra cái đánh dấu sách kẹp trong một cuốn của Dickens mà bà đã kiên nhẫn đọc cho chàng trai trong khi chàng vắng mặt không còn ở chỗ bà đánh dấu nữa, mà đã được dời sang chỗ khác cách đó nhiều trang. Bà cẩn thận đọc trang chàng đánh dấu, và rồi, cay đắng bà hiểu ra và gánh chịu nỗi thất vọng vốn có thể đến trong mọi cuộc đời, cho dù cuộc đời ấy kín đáo hay tĩnh lặng đến thế nào chăng nữa. Trong trang sách ấy, có một câu như thế này: “Và khi cô già đi và nhăn nheo, chất giọng mờ đục của cô không còn làm chàng vui sướng nữa.” Ngài Rymer nói rằng bà già ấy trở nên phẫn uất như một người vợ bị từ chối, và rằng, hoàn toàn không chấp nhận phán xét này và không chịu câm lặng, bà lớn tiếng mắng mỏ khoảng không: “Ngươi không công bằng. Ngươi không già đi và ngươi cứ muốn có những giọng đọc trẻ trung, tươi tắn, ngươi muốn ngắm những gương mặt đầy căng rạng rỡ. Đừng nghĩ là ta không hiểu ngươi, ngươi trẻ trung và vẫn mãi trẻ trung. Nhưng ta đã dạy dỗ ngươi, giải khuây cho ngươi bao nhiêu năm nay, nếu nhờ ta mà ngươi học được bao nhiêu điều, kể cả học đọc, thì cũng đừng tới mức mà ngươi để lại cho ta những lời nhắn phũ phàng qua chính cuốn sách mà ta luôn chia sẻ với ngươi. Hãy nhớ rằng khi bà mất đi, ta có thể dễ dàng đọc trong im lặng, nhưng ta đã không làm vậy. Ta biết ngươi có thể đi tìm những giọng nói khác, không có gì ràng buộc ngươi với ta và đúng là ngươi chưa từng đòi hỏi gì ở ta, nên ngươi chẳng nợ nần gì ta. Nhưng nếu ngươi có chút lòng biết ơn nào, ta yêu cầu ngươi ít nhất một tuần một lần đến nghe ta đọc và hãy kiên nhẫn với giọng của ta, cho dù giọng ta không còn đẹp đẽ và không còn làm ngươi vui sướng, bởi vì giờ đây nó sẽ không bao giờ mang tình yêu đến cho ta. Ta sẽ cố tiếp tục đọc tốt hết sức mình. Nhưng hãy tới, bởi vì giờ đây ta đã già, ta mới là người cần ngươi đến đây giải khuây cho ta.”


Theo Ngài Rymer, hồn ma thanh xuân thuần hậu vĩnh hằng đó không phải là hoàn toàn không  hiểu biết và chàng đã nghe rõ lý do hay ít ra cũng hiểu biết ơn nghĩa là gì: từ đó, cho đến khi chết, Molly Morgan Muir hào hứng và sốt sắng đợi đến mỗi thứ Tư, ngày mà tình yêu câm lặng và không chạm tới được của bà chọn để trở về với quá khứ của thời của chàng, mà thực ra, ở đó không có quá khứ và không có thời gian. Và người ta nghĩ rằng chính điều ấy đã khiến bà sống thêm nhiều năm nữa, tức là, với một quá khứ và một hiện tại và cả một tương lai hay có lẽ chỉ là niềm hoài nhớ.


Dịch từ truyện "No More Loves" trong tập When I was Mortal của Javier Marías, theo bản tiếng Anh của Margaret Jull Costa 


Thứ Sáu, 16 tháng 5, 2025

William Faulkner trả lời phỏng vấn

Trong các bài phỏng vấn các nhà văn nhà thơ của The Paris Review, bài phỏng vấn Faulkner có lẽ nằm trong một vài bài ấn tượng nhất mà tôi đã đọc. Bài phỏng vấn này thực hiện năm 1956. Một số điểm cần nhớ:

+ Tác phẩm mới quan trọng, tác giả thì không, nếu không có người này thì người khác sẽ viết. Quan trọng là Hamlet Giấc mộng đêm hè đã được viết, chứ không phải là Shakespeare hay ai đó khác đã viết những vở kịch ấy. "The artist is of no importance. Only what he creates is important, since there is nothing new to be said."

+ Quan điểm rất buồn cười về tiểu thuyết gia, có lẽ nhiều phần tự trào: làm thơ không được, nên mới viết truyện ngắn, mà ông cho là "the most demanding form after poetry", và viết truyện ngắn không xong mới viết tiểu thuyết. Ai lý giải được vì sao nước Nam là cường quốc thơ mà tiểu thuyết gia đếm trên đầu ngón tay? và tất cả nhà văn đều viết truyện ngắn?

+ Làm thế nào để trở thành một tiểu thuyết gia nghiêm túc?: Cần chín mươi chín phần trăm tài năng, chín mươi chín phần trăm kỷ luật, chín mươi chín phần trăm lao động. "An artist is a creature driven by demons." Người nghệ sĩ hoàn toàn vô luân, ăn cắp ăn trộm gì cũng được miễn là xong việc. " He is completely amoral in that he will rob, borrow, beg, or steal from anybody and everybody to get the work done." Trách nhiệm duy nhất của nhà văn là đối với nghệ thuật của mình. "The writer's only responsibility is to his art." Nếu cần, thì trấn lột cả mẹ mình. " If a writer has to rob his mother, he will not hesitate."

+ Trả lời câu hỏi "what would be the best environment for a writer", Faulkner bảo không quan trọng, chỗ nào cũng được, miễn là có "peace" và "solitude". Ông còn bảo công việc lý tưởng nhất cho ông là làm chủ nhà thổ: không sợ đói, có nhà để ở, sổ sách thì đơn giản có tú bà lo hết, chỉ cần hối lộ cảnh sát là xong, buổi sáng thì yên tĩnh tha hồ viết lách, buổi tối nếu buồn chán thì sẵn có "social life"!

+ Nhà văn có cần tự do về kinh tế không? Trả lời: không, chỉ cần giấy và bút chì. "Good art can come out of thieves, bootleggers, or horse swipes.... Nothing can destroy the good writer. The only thing that can alter the good writer is death. Good ones don't have time to bother with success or getting rich."  Nhà văn tồi thì sẽ than vãn nếu như không có ruồi (câu này tôi thêm vào.)

+ Về kỹ thuật viết văn: "The young writer would be a fool to follow a theory. Teach yourself by your own mistakes; people learn only by error. The good artist believes that nobody is good enough to give him advice."

+ Tác giả đánh giá tác phẩm của mình bằng sự khách quan, trung thực và lòng can đảm. Ông cho rằng không tác phẩm nào của mình đáp ứng tiêu chuẩn của chính ông, và do đó, ông đánh giá tác phẩm của mình dựa trên tiêu chí tác phẩm nào khiến ông đau buồn nhất (grief and anguish), và đó là The Sound and The Fury.

+ "A writer needs three things: experience, observation, and imagination, any two of which - at times any one of which - can supply the lack of the others."

+ Khi được hỏi sao không đề cập inspiration, ông trả lời: "I don't know anything about inspiration because I don't know what inspiration is - I've heard about it, but I never saw it."

+ Faulkner đọc ai? Ông không đọc các tác giả cùng thời. Ông đọc đi đọc lại Cựu Ước, Dickens, Conrad, Cervantes, Flaubert, Balzac, Dostoyevsky, Tolstoy, Shakespeare. 

+ Về các nhà phê bình: Nghệ sĩ không có thời gian nghe nhà phê bình nói! "The ones who want to be writers read the reviews, the ones who want to write don't have the time to read reviews."

+ "Life is not interested in good and evil. Don Quixote was constantly choosing between good and evil, but then he was choosing in his dream state. He was mad. He entered reality only when he was so busy trying to cope with people that he had no time to distinguish between good and evil."

+ Về nghệ sĩ, nghệ thuật, sự hữu hạn và bất tử: "The aim of every artist is to arrest motion, which is life, by artificial means and hold it fixed so that a hundred years later, when a stranger looks at it, it moves again since it is life. Since man is mortal, the only immortality possible for him is to leave something behind him that is immortal since it will always move. This is the artist’s way of scribbling “Kilroy was here” on the wall of the final and irrevocable oblivion through which he must someday pass."

Thứ Tư, 14 tháng 5, 2025

Graham Greene trả lời phỏng vấn

Interviewer: Do you see much of your fellow authors?

Greene: Not much, they are not one's materials. A few of them are very dear friends of mine, but for a writer to spend much of his time in the company of authors is, you know, a form of masturbation. 

Một câu trả lời thật đích đáng. Nhà văn thực sự thì cần phải viết, chứ không cần đàn đúm. Đàn đúm chỉ tổ dẫn tới phê bình thù tạc. Nhớ tới mấy bài kiểu Sương Nguyệt Minh tán tụng Đất mồ côi của Cổ Viên Tạ Duy Anh mà chạnh lòng. Quả thực là masturbation - mutual masturbation

Đoạn phỏng vấn trên là trong bài phỏng vấn The Paris Review. Giờ đây, sau khi đã đọc kha khá sách của Graham Greene, tôi mới quay trở lại đọc bài ông trả lời phỏng vấn tạp chí này. Cảm giác của tôi là Greene có vẻ khó gần, không hề cởi mở. Ông trả lời có vẻ dè dặt và chủ động kết thúc bài phỏng vấn. Ông không chia sẻ, không nói nhiều như một số nhà văn khác, ví dụ như Faulkner (bài này rất đã) hay Baldwin. Không thu nhặt được quá nhiều thứ trong bài trả lời phỏng vấn của ông. Một vài điểm để nhớ:

+ Greene có một bộ sưu tập chai whiskey cỡ nhỏ (miniature). Không lạ nếu nhớ lại whiskey tràn ngập các tiểu thuyết của ông.

+ Người phỏng vấn nói rằng England Made Me là cuốn favorite của anh. Bản thân Greene cũng thích cuốn này. (Về sau thì ông nói ở đâu đó The Honorary Consul là cuốn ông thích nhất.) Để tìm đọc.

+ Greene không cho là Mauriac có nhiều ảnh hưởng lên ông.

+ Greene có xây dựng nhân vật từ đời thực không? Câu trả lời là không, "one never knows enough about characters in real life to put them into novels. One gets started and then, suddenly, one cannot remember what toothpaste they use, what are their views on interior decoration, and one is stuck utterly. No, major characters emerge; minor ones may be photographed."


Chủ Nhật, 11 tháng 5, 2025

Our Man in Havana - Graham Greene


Graham Greene chia tiểu thuyết của mình thành hai nhóm: nhóm giải trí và nhóm nghiêm túc. Nhóm nghiêm túc xoay quanh các chủ đề đạo đức, chính trị, thần học mà The Quiet American (Người Mỹ trầm lặng) là đại diện quen thuộc. Ngoài ra thì cả The Power and the Glory và The End of the Affair đều đã được dịch ở Sài Gòn trước 75 nay là hàng rất hiếm. Nhóm giải trí là các cuốn gián điệp, Graham Greene tự cho đó là những cuốn light reading, nhẹ nhàng hơn, nhưng thật ra chất lượng viết vẫn rất cao. 

Our Man in Havana thuộc nhóm giải trí, đọc nhẹ hơn các cuốn khác thật, buồn cười mà châm chích tệ quan liêu rất sâu cay. Trong cuốn này, một anh người Anh chuyên bán máy hút bụi sống ở Havana, bị vợ bỏ và có cô con gái tuổi teen tiêu tiền như nước cuốn, được MI6 - cơ quan tình báo Anh tuyển dụng làm điệp viên, trở thành "our man in Havana".  Để moi tiền từ MI6, anh ta phịa ra mạng lưới tình báo của mình, phịa ra các báo cáo mà London tin sái cổ. Đặc sắc nhất là chuyện phịa ra một công trình quân sự, có bản vẽ hẳn hòi - anh đã tháo tung một cái máy hút bụi ra và  vẽ kết cấu của nó! Rồi đến ngày phát hiện ra anh nói xạo, thì các cấp trên của anh để khỏi phải bẽ mặt đành theo thế phóng lao: anh không những không bị trừng phạt mà còn được trao huân chương. 

Our Man in Havana  có tính giải trí cao nhưng vẫn mang một chút Kafkaesque trong đó - một Kafka hài chứ không bi. Văn của Greene thì vẫn đỉnh như mọi khi.

Thứ Tư, 7 tháng 5, 2025

Văn Cao nói về thơ

Ngoài việc viết bài hát, làm thơ, vẽ, Văn Cao còn viết tiểu luận về thơ. Mấy dòng dưới đây trích trong bài Mấy ý nghĩ về thơ, tôi lưu giữ lâu nay trong sổ tay, không nhớ bản gốc đăng ở đâu.


"Chúng ta đọc một nhà thơ như đi theo một dòng sông. Dù bắt đầu từ khúc nào, dù ghé vào bến nào, chúng ta đều phải nghĩ là ngược lên nguồn thì đường dài lắm, mà xuôi ra biển thì biển còn xa. Hai điểm đầu và cuối đó đều thấy vô cùng. Ai muốn khám phá xem con đường ngược và đường xuôi như thế nào còn có thể tiếp tục nhau khai thác được nhiều. Cuộc đời và Nghệ thuật của nhà thơ phải là những dòng sông lớn càng trôi càng thay đổi, càng trôi càng mở rộng . Mỗi chữ mỗi câu, mỗi bài thơ mở ra cái quãng ngược, quãng xuôi, những cái không nói tới mà người đọc càng tìm thấy mãi. Sự thất bại thường gặp trong bài thơ là sự khép lại : khép tất cả sự muốn nghĩ và muốn nói. Người ta đã đánh giá sai lầm về trí tuệ của đại chúng. Tôi nghĩ rằng trí tuệ ấy, sẽ phong phú bởi vì nó dần dần được tập trung hết kho tàng của dĩ vãng (trong đó có phần trí tuệ của nhà thơ).
Có người nói thẳng tới cái vô cùng tận của trời xanh, có người nói cái vô cùng tận của trời xanh qua cái rộng của biển, cũng có người thấy trời xanh vô cùng tận trong bát nước và cũng có người chỉ nói tới một giọt ánh sáng để tìm thấy cái vô cùng tận của trời xanh . Có người phải tìm con đường lớn mới thấy dấu xe mà có người tìm thấy dấu xe trong một hạt bụi. Đấy là những khác nhau giữa những nhà thơ. Sao nghệ thuật không biết tìm ở đấy sự phong phú ? Sao người làm thơ không biết tìm riêng lấy một cách thể hiện ?"
(Mấy ý nghĩ về thơ - Văn Cao)

Thứ Ba, 6 tháng 5, 2025

Gửi VB - Phan Thị Vàng Anh

 

Khi người ta trẻ, ý là khi tôi còn trẻ, tôi thấy bạn bè mình ai cũng đọc truyện ngắn Phan Thị Vàng Anh. Vàng Anh là tác giả ngôi sao đối với giới trẻ đầu những năm 90. Bọn sinh viên chúng tôi hồi ấy thấy mình đâu đó trong những truyện của chị, mê cái không khí lành lạnh, kiểu nói năng của các nhân vật trong truyện chị, thậm chí có những kẻ còn quy ước khi viết thiệp không viết những lời chúc bởi “chúng chẳng bao giờ trở thành sự thật” như quan niệm một nhân vật của chị. Rồi chị lảng đi đâu đó, đám độc giả của chị ra trường đi làm, chẳng mấy khi sờ tới sách vở. Rồi một ngày tự nhiên thấy Phan Thị Vàng Anh xuất hiện với tư cách nhà thơ. Thơ chị cũng không giống thơ ai, mà đám độc giả ngày xưa sau những vấp ngã đầu đời lại một lần nữa thấy chị như viết cho mình, những là “Quờ tay tìm viên thuốc/ Ba năm rồi không sợ đụng nhầm tay ai” và “Chúng ta là bánh mì và chả lụa/ bán riêng và ăn chung”, và nhất là “giờ nằm yên và ngửa cổ/ cho đầu thõng xuống cạnh giường/ đề phòng nước mắt có chảy/ chầm chậm ngược dòng mà tuôn.”

Rồi chị cũng chẳng làm thơ nữa.

Gửi VB, in 2006, 51 trang, giá bìa 15.000 đồng, bằng giá một ổ bánh mì chả lụa. 

Thứ Hai, 28 tháng 4, 2025

Cá tháng Tư

Cá tháng Tư

Ta không phải kẻ ngoài cuộc
dẫu vui hay buồn, bàng quan hay háo hức
ta vẫn là một phần của thời gian này, không gian này
ta có thể lựa chọn thái độ
nào có thể lựa chọn tọa độ

Như là cá, ta bơi trong nước
là cá, ta thuộc về nước
nguyền rủa số phận cá nào có ích gì

Hãy đớp sự thật và bài tiết ra sự thật
có lẽ đó là điều duy nhất có ích 
đối với một con cá.

Thứ Ba, 22 tháng 4, 2025

Nostalgia - reading notes

Lần đầu tiên gặp từ "hoài nhớ", tôi thấy hơi lấn cấn. Có vẻ đó không phải là tiếng Việt - Việt mà là tiếng Việt - dịch, nghĩa là nó không tồn tại trong tiếng Việt trước khi được một dịch giả nào đó dịch ra, bịa ra. Nếu tiếng Việt không có từ tương đương thì dịch giả bịa ra từ mới là chuyện thường và nên làm. Bản thân tôi nghe từ "hoài nhớ" riết cũng quen tai rồi dùng theo. Nhưng bây giờ nhìn lại, tôi thấy không ổn. Đã "hoài" còn "nhớ", như thế thì khác gì "an yên" - một từ tôi rất ghét. Nhưng nên dịch nostalgia thế nào? Hoài vọng chăng? hay hoài niệm? Thôi chuyện đó tính sau.

Tôi dùng entry này để ghi chú trong khi đọc Nostalgia của Mircea Cărtărescu, qua bản dịch tiếng Anh (bản gốc tiếng Romania). Tôi chỉ mới đọc một phần ba thôi nhưng thấy đây là văn chương đỉnh cao. So sánh như thế này: khi đọc  thơ Trần Dần, tôi thấy chữ nào cũng là thơ, câu nào cũng là thơ (nghe có vẻ kỳ quặc nhưng đọc những nhà thơ khác, nhiều khi cả tập thơ chỉ có đúng mỗi một câu là thơ, và lắm khi không có câu nào là thơ cả); khi đọc Nostalgia của Mircea Cărtărescu thì tôi thấy đoạn nào cũng là văn, trang nào cũng là văn. 

+ "Literature is teratology" - ngay trang đầu tiên đọc phải một mệnh đề ắt hẳn là quan trọng, mà không biết teratology là gì đành phải đi tra cứu. "Teratology là  khoc học nghiên cứu về các dị tật bẩm sinh, nguyên nhân và cách phòng ngừa chúng. Nó điều tra các cơ chế mà các yếu tố môi trường có thể làm gián đoạn sự phát triển bình thường, dẫn đến các dị tật hoặc các bất thường khác ở phôi hoặc thai nhi." Vậy chắc ý nói văn chương là thứ đào sâu vào các bất thường của con người, xã hội, ngôn ngữ? là bà đỡ cho những thứ méo mó, dị hợm, lai tạp, không theo quy tắc?

-------------

+ Kết cấu của Nostalgia bao gồm:

Prologue: Trong phần này, có truyện The Roullet Player.

Nostalgia: Phần này bao gồm các truyện Mentardy, The Twins và REM

Epilogue:  Truyện The Architect.

Tới lúc này tôi đã đọc xong The Roullet Player, Mentardy, The Twins. Đây đều là các truyện độc lập và chưa nhìn thấy mối liên kết giữa chúng.

+ The Roullet Player kể về một tay chơi trò cò quay Nga trong thế giới ngầm của Bucharest. Trò này đại để là nhét một viên đạn vào khẩu súng ngắn, ổ đạn súng ngắn thì có chỗ cho sáu viên, sau đó kê lên thái dương bóp cò. Xác suất chết là 1/6. Nếu chết thì tòi, nếu không chết thì thắng tiền cá cược. Tay chơi trong truyện này sẽ làm trò điên rồ là nâng dần số viên đạn trong ổ đạn lên, nghĩa là xác suất chết ngày càng lớn. Chắc chắn không nên kể câu chuyện kết thúc như thế nào. Bản thân câu chuyện hấp dẫn và gây sốc, nhưng đó chắc chắn không phải là ý đồ duy nhất của tác giả. Ông khẳng định lý do ông kể câu chuyện này là: "I knew the Roullet Player. Of this I cannot have doubts. In spite of the fact that it was impossible for him to exist, still, he existed. But there is a place in the world where the impossible  is possible, namely in fiction, that is, literature." Đấy có phải là nói về quyền năng của văn chương? Nếu các truyện trong tập có mối dây liên kết với nhau, thì đây liệu có phải là một trong những chủ đề?

+ Trong truyện này, còn có một điểm đáng chú ý khi tác giả lý giải về vận may của tay chơi: "When he lifted the pistol to his temple, he divided himself....". Lưu ý về sự phân tách của identity. Có thể đây cũng là một chủ đề khác.

------------

+ Trong truyện Mentardy, cậu nhóc tới sau từ một đứa bị bắt nạt lại trở thành nhà vua (hành vi ngồi trên ngai vàng), chinh phục được tất cả bọn trẻ ở trong khu nhà đó bằng những câu chuyện. Trong khi đám trẻ kia ban đầu chơi với nhau bằng những trò chơi trẻ con thông thường, một số mang màu sắc độc ác (nhân chi sơ, tính bản ác), thì Mentardy  - kẻ đến sau lại có một khả năng mà mấy đứa trẻ kia không có: khả năng kể chuyện. Bằng việc kể những câu chuyện mà cậu ta đã đọc và những câu chuyện cậu ta bịa ra, cậu ta trở thành thủ lĩnh của đám trẻ, đặt ra những luật lệ, quyết định những việc được làm và không được làm. Nhớ lại trong truyện The Roullet Player, khi tác giả sáng tạo ra nhân vật tay chơi roullet, tôi nghĩ đến quyền năng của văn chương. Trong truyện này, ta thấy quyền năng của người kể chuyện. Người kể chuyện giỏi là người người có thể thu phục đám đông, có nhiều bằng chứng như vậy trong lịch sử. Vừa đi đường, vừa kể chuyện thì còn thu phục được nhiều người hơn nữa. Lãnh đạo giỏi chẳng qua là người kể chuyện giỏi. Tạo ra được huyền thoại thì còn giỏi nữa.

----------------

+ Lời của Mentardy: "There are four different kinds of people: those who have not been born, those who are living, those who have died, and those who have not been born, are not living and have not died. They are the stars."

-------------

+ Trong các truyện đã đọc tới lúc này, The Twins có lẽ là truyện gây "bấn loạn" nhất.

+ Mở đầu truyện này, là một màn mô tả trang điểm rất dài dòng, từ từ rồi ta sẽ nhận ra người đang trang điểm là đàn ông, trang điểm cho thành phụ nữ, và mặc đồ của một người chị/em gái có chiều cao bằng anh ta. Cuối phần mở đầu, bức ảnh của hai đứa trẻ nắm tay nhau xuất hiện, dưới tấm ảnh có dòng chữ: THE TWINS. Đoạn mở đầu này viết bằng ngôi thứ hai "you". Nghe nói trong nguyên tác là một đại từ ngôi thứ ba nhưng không rõ chỉ nam hay nữ; khi dịch sang tiếng Anh thì dịch giả tiếng Anh chọn chuyển thành ngôi thứ hai để giữ nguyên sự mập mờ về giới tính đó.

+ Đoạn tiếp theo, người kể chuyện xưng tôi xuất hiện, và anh ta nói gì: " I will write not to construct a story, but to exorcise an obsession, to protect my poor soul from a monster, a monster terrifying not through hideousness but beauty." Tác giả nhắc tới hành động viết: "Since I began writing..."; nhiều lần về sau trong truyện này, ta sẽ lại thấy hành động viết được nhắc tới, như nhắc nhở người đọc rằng bạn đang đọc một câu chuyện ai đó viết ra thôi.

+ Sau hành động viết, ký ức bắt đầu ùa về... " a few lightining-like memories awaken". Người kể chuyện kể rằng khi nhỏ, mẹ anh mặc cho anh đồ bé gái, và hàng xóm sẽ gọi anh là Andriusa hay Andrea - đây là những cái tên con gái. Sau rồi ta sẽ biết tên anh là Andrei. Cậu bé mặc đồ con gái này sẽ chơi với một đứa con gái giống con trai tên là Marcela, và khi chúng chơi trò bác sĩ, chúng sẽ phát hiện ra cơ thể chúng khác nhau, và điều đó khó chấp nhận đối với cả hai.  "I remember how difficult it was to accept the evidence."

+ Đoạn tiếp theo lại kể về trại hè năm lớp ba. Đoạn này có một cậu bé mộng du tên là Traian. Fast forward, ta sẽ được biết về mối quan hệ khó khăn giữa người kể chuyện và con gái nói chung. Cậu ta nghĩ: "It seemed to me the most shameful thing was for someone to think I was in love."  Tầm mười ba, mười bốn tuổi, cậu ta yêu một cô gái trong lớp tên là Lili. Tình yêu này làm cậu phát sốt. Tới đây thì người kể chuyện ngưng kể và nhìn vào gương. Cần chú ý điểm này. Cái gương đã xuất hiện ở đầu truyện và bắt đầu lặp đi lặp lại. Có chỉ dấu là người kể chuyện đang bị bệnh gì đó, bởi vì có chi tiết "I explained to them... I needed to write story and once I was done she could call as many doctors as she liked."

+ Giai đoạn dậy thì, cậu trai này có những ý tưởng điên rồ và mâu thuẫn nhau. Một mặt, cậu ta nghiên cứu tranh ảnh khỏa thân, một mặt cậu ta cho rằng mình khác biệt mọi người, tình yêu không dành cho cậu, và cậu đang đi trên con đường sẽ đưa cậu "beyond the banal human condition" - vượt khỏi những thứ tầm thường của con người. Cậu tin rằng:" I didn't have the right to get to know a girl because I had a higher commisison to fulfill. I was convinced that immortality depends upon chastity and the moment you love or make love you taint yourself past all hope."

+ Năm cuối trung học, một cô gái chuyển từ trường khác tới, tên là Gina, làm cậu ta điêu đứng. (Ôi thuở học trò, ta luôn điêu đứng vì các cô gái chuyển trường, bất kể chuyển đến hay chuyển đi.) Phần chính của câu chuyện này sẽ là chuyện tình giữa Andrei và Gina, con quỷ cái xỏ mũi Andrei. 

+ Có một đoạn tả Andrei và Gina ngồi trong phòng Gina rất siêu thực, và cũng liên quan tới gương. Copy lại thì dài lắm, nhưng có câu này đáng lưu ý: "There was no longer any diffrerence between us, the mirrored and the real." Và rồi khi Andrei nhìn vào mắt Gina, thay vì thấy gương mặt mình, thì lại thấy gương mặt của chính Gina.

+ Tới đây, ta sẽ nhận ra người viết đang ở trong một nơi có lẽ là bệnh viện tâm thần. Những người tới thăm người kể chuyện được gọi là "her old folks", "her mother" rất confusing - "her" ở đây chỉ ai? Có lẽ chỉ người viết. Vì ta sẽ thấy rằng người viết được đưa vào khu nữ bệnh nhân: " The fact that they brought me to the women's ward disturbed me at first but I got used to it fairly quickly."

+ Mức độ confusion sẽ tăng lên chứ không giảm bớt, tới lúc người viết còn không rõ những trang viết này là của ai - "Are they her work or mine? Can I still discern what is hers and what is mine?."

+ "At times, we felt like  twins clustered together inside a hallucinatory uterus without exit, twins whose birth was refused  from their very incipience."

+ Và khi hai người make love lần đầu tiên thì sự chuyển hóa xảy ra: Andrei trở nên mang thân thể của Gina và ngược lại.

Tôi note những đoạn trên để mình dễ theo dõi câu chuyện. Còn vài chi tiết quan trọng nữa cuối câu chuyện này nhưng tôi cố ý bỏ qua. Tấm gương quả thật đóng một vai trò quan trọng trong câu chuyện hết sức bấn loạn này. 

======

+ REM là truyện dài nhất trong tập và có lẽ thể hiện rõ nhất tham vọng của Mircea Cărtărescu. Đúng là sau khi đọc REM xong thì tôi thấy tham vọng của Mircea Cărtărescu rõ ràng hơn. Ở trong The Roullet Player, MC đã nói tới quyền năng của văn chương trong việc kiến tạo ra nhân vật bất khả - dạng con người không thể tồn tại trong đời thực, trong Mentardy, MC nói tới quyền năng của người kể chuyện hay người bịa chuyện, còn trong REM thì sao? Giữa chập chùng mơ và thực, có những chỉ dấu cho thấy MC muốn sánh ngang với Thượng đế. Thượng đế tạo ra thế giới trong bảy ngày. Trong REM có bảy bé gái, bảy trò chơi, bảy giấc mơ, và giấc mơ thứ bảy tạo nên một vòng lặp đồng thời một cầu nối với thực tại, xóa nhòa thực tại.

+ Những dòng đầu tiên của REM tả các kệ sách. Những cái tên người, tên tạp chí nhắc ở đây ắt có ý đồ cả: Julio Cortazar, Garcia Marquez là hai cái tên mà MC thừa nhận là chịu ảnh hưởng; còn The Library for All chắc là một tribute tới Borges, và The Universe là chỉ dấu cho tham vọng của MC.

+ Những trang đầu của truyện này, MC đổi narrator liên tục, khi thì chàng trai, khi thì là con chó (?), khi thì là omniscient narrator. Cũng như trong các truyện khác, MC thường xuyên thu hút người đọc tới hành động viết. Thỉnh thoảng lại kêu "dear reader" rất tha thiết.

+ Chàng trai, Vali, trong truyện này được tiết lộ sẽ là tác giả của truyện The Roulete Player! Cô gái, trong một đêm giao thừa, đi ra một bờ hồ băng giá đầy sương, gặp một cậu bé đang quỳ trên băng. Chi tiết này chính là chi tiết trong truyện The Twins và cậu bé nọ chính là Andrei.

+ Phần chính của truyện này là câu chuyện mà cô gái, Nana, sẽ kể cho chàng trai sau khi ngủ với nhau. Nghe giống Nghìn lẻ một đêm không? Chính thế, chàng trai sẽ gọi cô gái là Scheherazade. Trong phần này, Nana, khi là cô bé 12 tuổi sẽ gặp gỡ Egor - người khổng lồ, được Egor tặng một cái vỏ sò mà với cái vỏ sò này cô sẽ mơ bảy giấc mơ; cùng thời gian đó chơi trò Nữ hoàng với sáu người bạn gái của mình trong bảy ngày.

+ Một đoạn Egor nói với Nana: "I dream incessantly of a creator who, through his art, can actually influence the life of all beings, and then the life of the entire universe, the most distant star, to the end of space and time. And then to substitute himself for the universe, to become the World itself. Only in such a way can a man, an artist, fulfill his purpose."  - Đoạn này rồi sẽ vang vọng trong truyện cuối cung của tập, The Architect.

+ Trong mười sáu năm liên tục, Egor viết hàng nghìn trang giấy. Anh viết gì? Chỉ một chữ "no". Nhưng anh nói gì: " I don't write mechanically. I want that every single no, and I mean every single one of them, to be thought and felt from the depth of its marrow. To be lived with all my nerves, with all my flesh.

+ Thời gian là kẻ hủy diệt vĩ đại, hơn tất cả bom đạn, chiến tranh, thiên tai. Không ai chống chọi nổi thời gian.

=====

+ Truyện cuối cùng, The Architect thì mọi chuyện khá rõ ràng, mà mỏi tay quá cũng không note nữa.





Chủ Nhật, 20 tháng 4, 2025

Bài thơ về con mực

Tất cả đều phải vui, không ai được buồn 
Tất cả đều tự hào, không ai nên phiền toái
Tất cả mưa rơi, tất cả nắng cháy
Sau tất cả, chỉ còn tất cả thôi 

Còn xó xỉnh nào cho em và tôi
Nói bậy, chửi thề, cười mỉa và hôn nhau bất chấp những tiếng ồn 
Ngày hôm qua cổng thành đã sập
Đàn bò bất chấp luật giao thông tràn ra lòng đường
Kỳ lạ thay mắt nhìn cùng một hướng

Em rên khẽ, trong đáy ly bia mắt em sáng rực
Con mực ống ngày mai lên bìa trang nhất
Sự man rợ không phải là ảo tưởng
Cái nóng điên rồ không giết nổi tiếng karaoke
Tất cả đồng lòng nhấn còi xe.

Thứ Bảy, 19 tháng 4, 2025

Mắt trần - Yoko Tawada

Đang trong cơn đọc văn học Nhật nên tôi vớ lấy Mắt trần của Yoko Tawada xơi luôn. Cuốn này tôi mua sách cũ trên mạng.

Yoko Tawada là nhà văn Nhật sống ở Đức, viết bằng cả tiếng Nhật lẫn tiếng Đức, đã có Mắt trầnChàng chó được dịch ở Việt Nam. Cần phân biệt nàng với Yoko Okawa, tác giả của Giáo sư và công thức toán, Quán trọ hoa diên vỹ, Kết tinh thầm lặng, Nhật ký mang thai. Mắt trần in ở Việt Nam từ 2011 nhưng hầu như không ai biết tới. Tôi còn đọc Chàng chó qua bản tiếng Anh trước khi biết Tawada đã từng được dịch ở Việt Nam. Nàng tới Việt Nam qua bàn tay bà đỡ của NXB Phụ Nữ, chắc là một trong vài nhà xuất bản còn tự làm sách mà không phụ thuộc vào các công ty liên kết.

Tác giả Nhật viết bằng tiếng Đức, nhưng nhân vật chính trong Mắt trần lại là một cô gái Việt. Cô mười bảy, mười tám tuổi gì đó, được cử sang Đông Đức dự hội nghị thanh niên, nhưng rồi bị bắt cóc, bỏ trốn, và trôi dạt sang Paris. Không thị thực, không gia đình, không ngôn ngữ – cô tồn tại như một bóng ma trong lòng châu Âu, len lỏi qua các toa tàu, những căn phòng tạm bợ và những buổi sáng không biết mình đang ở đâu.
Kỳ lạ thay, thứ duy nhất cô bám víu vào là hình ảnh nữ minh tinh Catherine Deneuve. Cô xem đi xem lại các bộ phim của Deneuve, thuộc lòng từng cảnh, từng lời thoại, và dần dần trôi vào một thế giới nơi điện ảnh thay thế cho hiện thực – hay ít nhất, là một hiện thực dễ chịu hơn. Đôi lúc không phân biệt đâu là cảnh phim, đâu là chuyện đời cô. Vì sao lại là Catherine Deneuve? Không rõ lắm, nhưng có lẽ trong một thời đại nơi mọi thứ đều được xác định bằng giấy tờ và ranh giới, việc mơ về một gương mặt trên màn ảnh cũng là một cách để thể hiện khát vọng được hiện hữu.
Trừ Đông Dương, tôi chưa xem các phim khác có Catherine Deneuve. Nếu xem rồi đọc cuốn này chắc thích hơn, bởi mỗi chương sách được xây dựng quanh một cuốn phim mà Catherine Deneuve đóng. Ngoài ra, nếu chuộng logic sẽ thấy trong truyện quá nhiều thứ phi logic; tuy nhiên, có vẻ xây dựng một câu chuyện logic không phải là mối quan tâm của tác giả. Tôi cũng không biết vì sao tác giả lại đặt tên truyện là Mắt trần (tiếng Anh là The Naked Eye) luôn.

Thứ Tư, 16 tháng 4, 2025

Kokoro (Nỗi lòng/ Lòng người) - Natsume Soseki

Kokoro có hai bản dịch ở Việt Nam, một là bản của Đỗ Khánh Hoan  - Nguyễn Tường Minh dịch là Nỗi lòng và hai là bản của Đặng Lương Mô dịch là Lòng người. Tôi đọc bản của Đặng Lương Mô. Không phải do chọn lựa gì mà chỉ là vì không có bản kia. Đọc phần Lời người dịch của Đặng Lương Mô, thấy ông đề xuất cách dịch là Lòng người chứ không phải Nỗi lòng cũng khá thuyết phục.

Kokoro là một trong những cuốn đọc xong mà tôi không biết nói gì. Trên bề mặt, truyện có vẻ tẻ. Ở phần một, cậu thư sinh xưng tôi tình cờ làm quen với một người hơn tuổi mà cậu ta gọi là "thầy". Cậu thư sinh sẽ thường xuyên thăm viếng người gọi là thầy này, cũng có thể gọi là có chút thân thiết giữa hai người, nhưng người thầy vẫn giữ một khoảng cách và một chút bí ẩn nhất định. Điều đáng chú ý này là người thầy này không viết lách, không nghiên cứu, không giảng dạy và cũng không đi làm gì cả. Phần hai là chuyện cậu thư sinh tốt nghiệp đại học, về quê ở với cha mẹ, cha cậu khi đó đang ốm nặng. Phần ba là lá thư của người thầy gửi cho cậu thư sinh, kể lại chuyện của thầy khi trẻ, mối quan hệ bạn bè với một người bạn gọi là K - chính là người thầy đi thăm mộ hàng tháng. Lá thư này thực chất là di thư, vì khi cậu thư sinh nhận được thì người thầy đã tự sát rồi. Lá thư này vừa là lời thú tội, vừa phản ánh triết lý sống, vừa là sự dằn vặt của một con người không tha thứ cho chính mình. Tôi để ý thấy cả cậu thư sinh và ông thầy kia gần như không có bạn, cậu thư sinh chỉ có mối quan hệ với ông thầy, còn ông thầy kia dường như chỉ có một người bạn là K. Cả hai có vẻ đều cô độc.

Tôi không hiểu vì sao phần thứ hai lại cần thiết. Có thể bỏ hoàn toàn phần hai ra mà không ảnh hưởng tới cấu trúc của câu chuyện. Phần một và phần ba kết nối với nhau đủ thành một câu chuyện vừa đẹp, xoay quanh chủ đề lòng người, về việc lòng dạ con người ta có thể thay đổi như thế nào trước tiền bạc hoặc trước tình cảm trai gái. 

Đọc nhiều văn học Nhật Bản rồi thì không còn bất ngờ nữa về việc người Nhật có thể dễ dàng tự sát như thế nào. Có vẻ đối với họ việc sống hay không sống không phải là vấn đề quan trọng. Danh dự là quan trọng, hẳn nhiên, nhưng ý nghĩa của đời sống cũng quan trọng, và do vậy khi họ thấy sống không có ý nghĩa thì đi tìm ý nghĩa trong cái chết. Có những thứ người phương Tây chẳng bao giờ hiểu được người Á Đông, mà giữa người Á Đông với nhau thì người Việt cũng khó mà hiểu được người Nhật. Tinh thần, cốt cách của họ hoàn toàn khác. Cho nên đọc truyện Nhật, xem phim Nhật ta sẽ thường thấy những thứ "weird".