Hiển thị các bài đăng có nhãn tản mạn. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn tản mạn. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 15 tháng 1, 2025

Tản mạn những ngày AODOYOD

Suốt những ngày ai ở đâu ở yên đó, trời Sài Gòn trong veo. Chỉ số ô nhiễm trên Air Visual thường xuyên xanh ngắt. Trên app, Sài Gòn xanh như Sydney, như Montreal, như London. Chiều chiều, sau giờ làm việc, tôi hay ra ngồi ban công. Nhìn sang các căn hộ khác, cũng có nhiều người ngồi ở ban công, những ban công vốn thường chỉ là nơi phơi quần áo.

Có tiếng đàn piano chập chững từ căn hộ nào đó vọng sang. Trước kia, hiếm khi nghe âm thanh từ hàng xóm. Một phần, có lẽ khu căn hộ này cách âm tương đối tốt, phần khác, khi bận rộn với những âm thanh của riêng mình, ta ít khi nghe được những âm thanh khác từ bên ngoài.

Đêm, côn trùng dường kêu to hơn. Hay có lẽ chúng cũng kêu to như bình thường - chúng chưa từng chịu đựng cảnh bị giam trong bốn bức tường - chỉ có đôi tai ta là nhạy cảm hơn. Có một lần, tôi choàng dậy vào nửa đêm vì tiếng côn trùng inh ỏi, vớ tay lấy điện thoại để ghi âm dàn hợp xướng côn trùng. Sáng dậy xem lại máy, thấy không có bản ghi âm nào cả. Hay ai đó đã thức dậy trong đêm, không phải tôi? Lẽ nào lũ côn trùng không có thật.

Cách đây hai hôm, sáng mới ngủ dậy, vận hết lòng dũng cảm, tôi đi bộ hơn hai trăm mét ra đầu ngõ. Lần đầu tiên sau hơn hai tháng tôi đi xa nhà tới thế. Nhìn tới lui không thấy bóng đồng phục nào, chỉ vài xe tải con chở hàng lao vun vút, tôi dấn thêm một chút, băng hẳn qua bên kia đường, tiến sát tới mé sông. Con sông còn đó, vẫn bồng bềnh chảy, vài cánh chim chao liệng trên mặt nước. Tôi hít một hơi dài không khí mát mẻ buổi sớm mai, rồi lại một hơi dài, một hơi dài nữa. Yên chí dòng sông vẫn còn đó, chưa bị mang đi cách ly tập trung, tôi khấp khởi trở về nhà.

Bạn nhắn tin, nói vừa được đặc cách đi một vòng thành phố. Những bậc thềm trước bưu điện trung tâm nơi khách du lịch thường chen chân check-in, học sinh cuối cấp hay tụ tập chụp ảnh lưu niệm, giờ phủ đầy rêu xanh, các khe đá cỏ mọc lún phún. Giãn cách thêm ít bữa, biết đâu cây mọc thành rừng, thú dữ về trú ngụ, bạn đùa. 

Vài hôm nữa, gặp nhau, ta sẽ nói gì?  Không biết giọng có cất lên thành tiếng, hay lời chưa ra khỏi miệng lại bị nuốt vào trong, như một nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư? 

Gà đang gáy trưa bên sông

Lần cuối cùng nghe gà đang gáy trưa bên sông là khi nào, tôi không còn nhớ lắm. Nhưng chỉ cần khép hờ mắt lại, tôi sẽ tưởng tượng ra. Phải là một miền quê nào đó yên ắng lắm. Nắng trưa lấp loáng mặt sông. Nóng. Cơ hồ không có ai ngoài đồng, hay trên đường. Mọi hoạt động tạm thời dừng lại. Cả cây cối cũng cơ hồ thiu thiu ngủ. Giữa khung cảnh gần như tuyệt đối yên tĩnh đó, chợt vang lên tiếng một chú gà giở quẻ, làm náo động một thoáng không gian trưa.

***

Cách đây vài tuần, hai chị em tôi đánh xe đưa ba má về quê sau mấy tuần an dưỡng ở Sài Gòn. Những chuyến đi khác, nếu đi cùng sắp nhỏ và sắp to, tôi thường mở những thể loại nhạc sôi động hơn, phù hợp với tuổi hoa niên thời đại phôn khôn, như Imagine Dragons, hoặc Sơn Tùng MTP. Nhưng lần này, để chiều chuộng cái tai của người U90, tôi mở Văn Cao, Phạm Duy, Đoàn Chuẩn – Từ Linh. Chính trong chuyến đi này chúng tôi nghe lại Mùa xuân đầu tiên.

Rồi dặt dìu mùa xuân theo én về
Mùa bình thường mùa vui nay đã về
mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên
Với khói bay trên sông, gà đang gáy trưa bên sông
một trưa nắng cho bao tâm hồn

Bài hát ra đời năm 1976, sau khi kết thúc chiến tranh. Phải không còn tiếng súng, tiếng bom, thì mới có những buổi trưa làng quê yên ắng đến nỗi ta có thể nghe được tiếng “gà đang gáy trưa bên sông.”

Giữa bao tưng bừng của những ca khúc ca ngợi thống nhất thì ít mà chiến thắng thì nhiều, Mùa xuân đầu tiên dìu dặt một mình một cõi. Âm nhạc vẫn có nét vui, nhưng không vui theo kiểu hồ hởi, phấn khởi, mà là cái vui lẫn trong cái ngùi ngùi. Nhạc sĩ vẫn gọi mùa xuân ấy là “mùa vui”, nhưng đồng thời cũng gọi ấy là “mùa bình thường”.  Phải rất lớn, thì mới có thể nhìn nhận mùa xuân đầu tiên sau chiến tranh là điều bình thường, và phải là, nên là “mùa bình thường”, chứ không phải mùa của tự hào hay mùa của quang vinh. Và điều cần làm, nên làm khi ấy là “từ nay người biết yêu người…”. Giai điệu ấy, lời nhạc ấy, tuy đằm thắm, sâu xa, nhưng lạc quẻ, khiến bài hát bị cất đi một thời gian khá lâu.

***

Bây giờ, không cần phải đợi xuân về ta mới nghe hay hát Mùa xuân đầu tiên. Bất cứ lúc nào muốn ta cũng có thể ngâm nga:

Giờ dặt dìu mùa xuân theo én về
Mùa bình thường, mùa vui nay đã về.
Mùa xuân mơ ước ấy xưa có về đâu
với khói bay trên sông, gà đang gáy trưa bên sông
một trưa nắng thôi hôm nay mênh mông.

Điều đáng buồn là, bây giờ tuy không còn bom rơi, đạn nổ, nhưng tiếng gà gáy trưa đã trở nên quá xa xỉ. Thường, buổi trưa, ta chỉ có thể nghe tiếng đục đẽo, tiếng xe rồ máy, hay tiếng karaoke.

 

 

Chủ Nhật, 29 tháng 3, 2015

Henry Miller nơi quán cóc

Kể từ ngày phát hiện ra quán cóc gần công ty, nằm trong con hẻm cụt, và dưới một gốc cây, trông giống như cây si nhưng còn nhỏ, khép nép nằm sát mép tường, hầu như trưa nào tôi cũng ăn thật nhanh, rồi lững thững cầm cuốn sổ tay sang ngồi ở đấy. Khó có thể nói rằng quán có gì đặc biệt. Trưa nào, ngoài tôi chỉ có mấy cậu hẳn cũng làm công ty nào gần đấy, kéo đến làm ly cà phê, rít điếu thuốc, đánh ván cờ, hoặc hí hoáy trên smartphone. Hết giờ nghỉ trưa mọi người kéo nhau đi, nhanh như lúc kéo đến. Cà phê ở quán không tệ, nhưng còn lâu lắm mới bén gót thứ cà phê Arabica bạn Quyên thửa riêng cho tôi bên cafesieusach. (Ờ, cà phê ngon nên nhắc đến, chứ bản thân những nhãn hiệu hay quảng cáo có chữ siêu sạch này ngầm ẩn một nỗi buồn, buồn hơn rất nhiều so với nỗi buồn vu vơ khi ngắm mưa rơi, đợi từng giọt nâu rơi và lòng ai chơi vơi. Gần đây tôi phỏng vấn một số sinh viên luật năm cuối để tuyển tập sự cho bộ phận Pháp chế của công ty (tôi ghét từ pháp chế này ghê gớm, nhưng đây là ví dụ tiêu biểu về việc chung sống hòa bình với những thứ mình ghét, vì cứ ghét mà đạp đổ rất dễ xảy ra chiến tranh), các em đều sắp tốt nghiệp từ lớp Chất lượng cao. Một mặt, tôi hiểu nhu cầu trường Luật muốn tạo ra một nhóm sinh viên đặc tuyển, có khả năng đáp ứng tốt hơn nhu cầu thị trường lao động; một mặt, tôi nghĩ đó là chuyện bất thường.  Rất khó hình dung một lớp cử nhân chất lượng cao ở một đại học nước ngoài, xa như của Mỹ, Úc, hay gần như láng giềng Singapore chẳng hạn, nơi bác Lý vừa mới qua đời đã dấy lên một loạt tranh luận ở Việt Nam thay cho tranh luận về chặt cây hay ôm cây, tranh luận này, đến lượt nó thay thế cho tranh luận về có ruồi hay không có ruồi, mà chắc chắn nếu không có ruồi thì tôi đã viết một tiểu thuyết vĩ đại ngang ngửa 2666 của Roberto Bolano hay xa hơn, Tristram Shandycủa Laurence Sterne, cả hai đều có hằng hà sa số những đoạn ngoại đề, ngoại đề thôi chứ không trữ tình, cuốn đầu, đọc xong đã có thể coi là một thành tựu vĩ đại, vì bản tiếng Anh đã dài hơn 900 trang ken đặc chữ, thỉnh thoảng chèn vào những liên tưởng lạ lùng, đôi khi từ thần thoại Hy Lạp, đôi khi từ Kinh Thánh, đôi khi từ một thế giới khác, có lẽ vì bản thân Bolano không chỉ là tiểu thuyết gia mà còn là nhà thơ, và ông coi mình là nhà thơ hơn là tiểu thuyết gia, và ông cũng nói cuốn sách duy nhất của ông không làm ông đỏ mặt khi nhắc tới lại là Antwerp, một cuốn sách khổ nhỏ, mỏng dính, chưa tới trăm trang, về hình thức là văn xuôi nhưng về tinh thần lại gần với thơ hơn, vì vậy khó đọc do chứa đựng quá nhiều hình ảnh khó nắm bắt, tuy tôi có thể nuốt hơn một cuốn 900 trang như 2666 hay gần 700 trang như The Savage Detectives, nhưng không thể nào đọc quá ba trang cuốn Antwerp này mà không bỏ sách xuống, một tình trạng rất khác tình cảnh khi đọc 2666, bởi đọc 2666 có muốn bỏ sách xuống cũng khó, vì ngay khi nảy ra ý định đó thì người đọc đã tê tay, một vấn đề cho thấy để đọc sách ngoài việc ham đọc, muốn đọc, người ta còn phải có thể lực tốt, đó có thể là lý do mà nhiều bạn bè tôi, sau khi tốt nghiệp đại học đã trở nên xa lạ với sách, cụ thể họ không đọc nữa, việc họ không đọc có nhiều nguyên nhân, tôi đoán thế, nhưng một trong các nguyên nhân có thể  là họ sa sút về thể lực, nên nhấc cuốn sách lên và giữ nó trên tay hàng giờ là một đòi hỏi quá khắc nghiệt về mặt thể chất, mà để nghiền ngẫm sự sa sút về thể chất đó, họ thà ngồi hàng giờ ở quán cà phê thả từng vòng khói vào hư không, về nguyên tắc là vô định, còn cuốn thứ hai, tức cuốn của Laurence Sterne, có thể coi là một ông tổ về tiểu thuyết, thì mất hàng trăm trang mà chưa kể xong sự ra đời của mình, motif này được nhìn thấy lại trong Những đứa con của nửa đêm của Salman Rushdie, phải gần hai trăm trang sách khổ to và chữ nhỏ, khoảng cách giữa các chữ hẹp, thì nhân vật tôi mới kể xong chuyện mình chào đời, mà sự chào đời ấy đã được mở ra theo phong cách cổ tích ngay từ dòng đầu tiên của cuốn sách, vốn nằm trên kệ nhà tôi từ rất lâu, nếu nói đến bản tiếng Anh thì còn lâu hơn nữa, tôi vốn có sở thích chất sách quanh nhà, bụi bặm tuy khó tránh khỏi nhưng được bao quanh bởi sách là một thú vui, chưa kể, băn khoăn chọn đọc cuốn nào vào thời điểm nào lại là một thú vui khác, chẳng hạn mới ăn cơm xong thì đọc cuốn gì, trước khi đi ngủ thì đọc cuốn gì, và trong ba mươi phút nghỉ trưa thì có thể đọc cuốn gì, đến mệnh đề này thì tôi đã đi rất gần đến chủ đề của bài viết, nhưng rất có thể những gì tôi viết sẽ không đâu vào đâu, nếu chỉ chăm chăm đi tìm mục đích, rất nhiều khi ta quá chăm chú đến mục đích mà quên mất đường đi, trong khi đường đi là cả một niềm vui lớn, chẳng hạn mới gần đây, rất gần, cụ thể là hôm kia, tôi hoàn thành một việc, rất tình cờ việc ấy đã lấy mất của tôi chín tháng mười ngày, hoặc cũng có chỉ thể chín tháng chín ngày, dĩ nhiên tôi rất vui, rất nhẹ nhõm khi xong việc, nhưng liệu có thể nào tôi đợi đến những chín tháng mười ngày, hoặc cũng có thể chín tháng chín ngày, để hưởng một niềm vui, biết rằng niềm vui ấy không kéo dài quá hai mươi tư tiếng, ắt không, vì cho dù chín tháng mười ngày hoặc chín tháng chín ngày, tôi sẽ không kiên nhẫn đến thế nếu trên đường đi tôi không bỏ qua chút cơ hội nào tận hưởng từng giây phút lăn lê bò toài trên đường, mở rộng tầm mắt, trao đổi với bạn bè, đào sâu suy ngẫm, làm quen với những người bạn mới, và những thứ thu lượm trên đường đi như thế, vô hình hay hữu hình, đều quý giá, mang lại cho tôi sự sảng khoái không kém hơn sự sáng khoái khi hoàn thành công việc, hay ví như việc đọc sách, nhất là tiểu thuyết, đọc tiểu thuyết để làm gì, nhiều người đặt câu hỏi, rất lạ nhiều người hay hỏi như thế, về phương diện này với tư cách một môn nghê thuật tiểu thuyết có vẻ bị đối xử kém công bằng so với hội họa hay âm nhạc, vì giả dụ nếu ai đó hỏi người khác nghe bản nhạc này để làm gì hẳn thế nào cũng bị ném cho một tia nhìn nghi hoặc hoặc khinh khi. Henry Miller, người đồng hành cùng tôi trong suốt hơn hai tháng qua, người cùng tôi ngồi trong góc quán hoặc dưới gốc cây, một thứ cây gần giống cây si nhưng còn nhỏ, tán không quá xum xuê, chỉ đủ để làm dịu một chút cái nắng chang chói của tháng ba, đã bảo nếu ông đọc được một đoạn hay trong một cuốn sách, thì ông sẽ không đọc tiếp, ông sẽ ngưng lại, sẽ đi ra đường, sẽ ngửa mặt nhìn trời, nghe chim hót, hít một hơi thở dài, để cho âm hưởng của đoạn văn đẹp đẽ hoặc sáng láng ấy ngân nga trong đầu, chẳng lý gì mà phải vội vã  lao sang trang tiếp theo, lao về đoạn kết, cái đẹp cần được chắt chiu và tận hưởng. Tôi học ngay bài ấy và áp dụng với chính ngay sách của ông, nên gần hai tháng qua mà sách ông tôi chưa đọc xong, vì cứ đọc được vài đoạn, hoặc nhiều lắm một hai trang là tôi dừng lại, ngẩng mặt lên trời nhìn trần nhà, hoặc nếu đang dưới gốc cây thì nhìn tán cây, hít một hơi dài trong lúc chân gõ nhịp theo giọng Sơn Tùng MTP, hoặc đơn giản nhấc ly cà phê luôn luôn là cà phê đá, cũng được quảng cáo là cà phê sạch nhưng không phải cafesieusach, làm một ngụm. Ghép chữ sạch, hoặc siêu sạch, vào thương hiệu hay quảng cáo của mình rõ ràng không phải phát minh của các bạn chủ cafesieusach. Trước đó, ta đã có nước mía siêu sạch, tôi không biết nên viết hoa hay viết thường, nhưng tôi ý muốn nói đến các tủ nước mía thường xuất hiện tại các trung tâm thương mại, giá bán một ly tầm từ mười bảy đến hai mấy nghìn đồng. Và dĩ nhiên, ta còn có rau sạch, thịt sạch, hải sản sạch, đậu hũ sạch, nước tương không 3-MCPD (một đỉnh cao). Và ta còn có xe buýt mẫu, tuyến đường văn minh, khu phố văn hóa. (Tôi đau lòng biết bao khi thấy bao nhiêu khu dân cư thuần hậu, nhất là ở miền quê, cũng bị dựng lên một cổng sắt vô tri dương dương tấm bảng khu phố văn hoá.) Và giờ thì cử nhân chất lượng cao. Câu hỏi đặt ra đơn giản là: Vậy, phần còn lại thì sao? Rau độc, thịt ôi, nước tương có thể có 3-MCPD và cử nhân chất lượng dấu chấm hỏi? Khi cái đáng lẽ ra là quy chuẩn, là thông thường, lại được quảng bá như yếu tố tạo sự khác biệt, thì ấy là điều bất thường. Điều đáng nói là người tiêu dùng đang phải trả một cái giá cao hơn để được hưởng thụ những dịch vụ, hàng hóa với những tiêu chuẩn lẽ ra là thông thường ấy. Pay the premium to get the standard, not pay the premium to get the premium.) Hôm đầu tiên đến quán, tôi đi một mình. Tôi phát hiện ra quán này sau một bữa trưa lang thang đi ăn một mình. Tôi hay đi ăn trưa một mình không phải vì không tìm ra ai đi cùng, mà vì ít ai chịu đi bộ xa như tôi, vả lại đi một mình cũng tốt, có thể suy nghĩ không bị ai quấy rấy. Trong lúc khoái trá nhâm nhi cà phê, tôi đã kịp vẽ ra kế hoạch mình sẽ làm gì với quán cà phê này trong những ngày sắp tới. (Kế hoạch ấy là, như đã nói, ăn trưa thật nhanh rồi ra đây ngồi tầm 30-40 phút, cầm thêm một cuốn sách. Để cầm sách đi ra đi vào công ty mà không bị ai thắc mắc, tốt nhất kẹp vào một cuốn sổ. Tôi nhớ đã có sẵn một cuốn sổ bìa da, đúng hơn là giả da, trong văn phòng. Sổ năm 2012 hay 2013 gì đó, loại in sẵn ngày tháng năm trên từng trang. Tôi sẽ gỡ hết đống ruột vô dụng bên trong và kẹp sách vào là đã có thể ngụy trang hoàn hảo cho cuốn sách.) Đến lúc gọi tính tiền, sờ túi, thì mới phát hiện ra mình không mang ví theo. Anh chủ quán khoác tay nói bữa sau tính. Bữa sau tôi tự khai, chứ anh chủ quán không thấy đâu, mà chị chủ quán cũng không biết tôi là con nợ. Bữa sau là bữa tôi ngồi với Vĩnh, nên thật ra cũng chưa mang sách theo. (Về Vĩnh: Tôi mới gặp Vĩnh lần thứ hai, mặc dù anh em đọc nhau trên mạng đã lâu. Vĩnh không hay viết về văn chương sách vở như tôi. Vĩnh xuất thân làm  toán, chuyển sang làm báo, rồi giờ làm đậu phụ, hay có những kiến giải về thời sự mà tôi chia sẻ. Ngoài đời, Vĩnh không hoạt ngôn như trên mạng, tôi cũng thế, đâm ra anh em ngồi với nhau chủ yếu nhìn trời, thỉnh thoảng buông một câu, như cà phê thỉnh thoảng rơi một giọt. Vĩnh cũng rất thích cái quán mà tôi phát hiện ra. Có lẽ vì cũng như tôi, ngồi trong những quán như thế này, Vĩnh nhìn ra tinh thần của hẻm Sài Gòn. Tinh thần ấy là gì, đừng hỏi tôi. Cũng hệt như trong nhiều lần tán dóc với bạn bè, mỗi lần tranh luận về dịch thuật, tôi hay nói rằng trong dịch tiểu thuyết, quan trọng nhất là chuyển tải đúng “tông” tác phẩm. Cũng đừng hỏi tôi “tông” là cái gì, làm sao thì biết đúng “tông” hay không đúng “tông”. Chẳng phải thứ gì cũng đo đếm, định lượng được đâu. Ảnh chứng minh nhân dân chụp đúng từng nét một, không bỏ qua cả cái một cái nốt ruồi e thẹn nằm lấp ló, thì vẫn chỉ có thể là ảnh chứng minh nhân dân chứ chẳng thể nào là ảnh nghệ thuật được.) Phải đến bữa sau nữa thì cái kế hoạch mà tôi vẽ ra từ hôm đầu tiên đến quán mới bắt đầu được thực hiện. Cuốn sách tôi chọn mang theo là cuốn tôi đã bắt đầu đọc từ khá lâu, nhưng mỗi ngày chỉ đọc được hai, ba trang, chủ yếu trước giờ đi ngủ. Đó là một cuốn tuyển tất cả những gì Henry Miller viết về viết văn, trích ra từ những cuốn sách khác của ông. Sách do một nhà Henry Miller học biên soạn (kiểu như nhà Văn Cao học, hay nhà Vũ Trọng Phụng học). Tôi biết đến cuốn này nhờ vào cuốn Con đường sáng tạo của Nguyễn Hữu Hiệu, trong đó Nguyễn Hữu Hiệu có dịch một bài viết của Henry Miller. Đây là một cuốn sách thích hợp để đọc vào những giờ nghỉ trưa ngắn ngủi, mỗi lần vốn chỉ đủ thời gian đọc vài trang và cũng chỉ nên đọc vài trang, vì ta có thể mở bất cứ trang nào và đọc bất cứ đoạn nào, hoàn toàn không cần dùng bookmark. (Tiện thể, vài năm gần đây, mua sách thường được tặng kèm bookmark, thật là cái phong hoá sách của ta bây giờ đã bằng năm bằng mười năm ngoái.) Hầu như trang nào cũng có vài câu khiến tôi phải dừng lại, đọc lại, hoặc dừng lại hẳn, như thể trưa hôm đó với tôi đọc được câu đó thôi là đủ, mặc dù văn của Henry Miller là thứ văn cực kỳ trôi chảy, như một dòng sông không ngừng tuôn, biết rằng để viết được dòng văn tuôn chảy ấy, Henry Miller đã trải qua những năm vật vã như thế nào. Ông đã viết văn chuyên chú trong bảy năm trời liên tục mà không xuất bản được bất kỳ một cuốn sách nào. (Yên tâm nhé bạn, hai cuốn tiểu thuyết nhét trong hộc tủ chưa là gì, mặc dù trường hợp của bạn sách không ra được lý do có khác.) Ông đã học được rằng, người ta phải viết nhiều, rất nhiều, trước khi ký tên của mình lên một cuốn sách. Ông đã học được rằng, để trở thành nhà văn, người ta phải từ bỏ mọi thứ và không làm bất cứ gì khác ngoài viết, rằng người ta phải viết và viết và viết, kể cả khi tất cả mọi người trên thế giới khuyên bạn nên bỏ cuộc, bảo bạn rằng văn chương của bạn là thứ rác rưởi, không ai tin bạn cả. Ông đã nhận ra rằng không phải ngủ một đêm dậy là người ta trở thành nghệ sĩ, mà trước hết, “bạn phải bị nghiền nát, để cho những quan điểm trái ngược của bạn bị huỷ diệt. Bạn phải bị xoá sạch với tư cách một con người để tái sinh như một cá thể.” Ông cũng học được rằng chỉ cần mỗi ngày viết đều đặn hai hay ba tiếng đồng hồ thôi thì người ta có thể viết được những cuốn sách dày cỡ nào cũng được, không nhất thiết phải đính mông vào ghế mười tiếng một ngày. Một chiến lược tương tự có thể áp dụng cho việc đọc: đều đặn đọc mỗi ngày hai tiếng, người ta có thể đọc được hầu hết những gì đáng để đọc. Đừng hỏi lấy đâu ra hai tiếng một ngày. Nếu có thời gian xem tivi, uống bia, chém gió, lướt web, lên facebook, đi ra đi vô không làm gì, thì tất có thời gian để đọc. Vấn đề là muốn hay không mà thôi. Ở quán cà phê cóc này mỗi trưa tôi đọc Miller. Anh chị chủ quán rất ý tứ, hôm nào tôi ngồi ngoài sân thì thôi, hôm nào tôi ngồi trong nhà dẫu đang mở Sơn Tùng hay Bằng Kiều anh chị sẽ chuyển sang nhạc không lời hoặc tắt hẳn. Thật ra có để nhạc có lời tôi cũng không phiền. Tôi đọc Miller và tôi xiết bao mong những người bạn viết của tôi cũng được đọc cuốn này. Bạn viết, tức là bạn có viết lách, không phải bạn viết theo nghĩa bạn văn. Tôi chưa bao giờ coi tôi là người viết cả. Tôi đặc biệt nhớ tới Đức. Tôi nghĩ nếu quẳng nó sang Paris bảy năm chắc nó sẽ viết được như Miller, vì nó có những phẩm chất khá giống Miller. Chẳng hạn những chuyện nó viết đều là tự truyện. Miller cũng thế. Một thời điểm nào đó ông quyết định rằng ông chỉ có thể viết về những gì mà ông biết rõ, mà biết rõ nhất là cuộc đời của chính mình, vì vậy toàn bộ sách ông biết đều là tự truyện. Ông rẻ rúng văn chương, ông đặt cuộc đời lên trên văn chương, hơn một lần ông nói rõ điều đó. Tất nhiên, có những nhà văn ông yêu thích và chịu ảnh hưởng, nhưng những người ông ngưỡng mộ hơn cả là Jesus, Lão Tử, Thích Ca, Ramakrishna, Krishnamurti, vì ảnh hưởng của họ đối với cuộc đời. Ông nói: “Thước đo duy nhất tôi sử dụng là cuộc đời: con người ta đứng thế nào trong mối tương quan với cuộc đời.” Và nói: “Các thiên tài đều là những con đĩa hút chung thứ máu: cuộc đời.” Máu sẵn có, vấn đề ta có biết cách hút hay không thôi. Tôi mong người viết, cho dù tài tử hay chuyên nghiệp, như Đức đọc được cuốn sách này. Nhưng Đức không thạo tiếng Anh, mà chỉ giỏi tiếng Nga. Có lẽ tôi sẽ dịch cuốn sách này, Henry Miller on Writing, sang tiếng Nga cho nó.

Thứ Hai, 8 tháng 12, 2014

Linh tinh mùa Giáng Sinh

Sáng nay, thứ hai đầu tuần, tôi đi viếng một người đồng nghiệp. Tin anh mất là là một cú sốc cho tất cả những người quen biết. Anh mới ngoài năm mươi, giữ một trong những vị trí cao nhất trong công ty. Anh đang phụ trách một dự án lớn. Hồi tháng 9, khoảng một tuần không gặp anh, email anh cũng không trả lời, cứ nghĩ anh đang bận đi công tác như mọi khi. Sau đó mới biết anh bị chẩn đoán ung thư gan. Anh vừa tiễn cậu con trai lên đường du học mới vài tuần trước đó. Còn nhớ, giữa lúc dự án đang bận rộn, anh nghỉ phép mấy ngày. Anh không nói gì nhưng đồng nghiệp bảo gia đình anh tranh thủ đi chơi cùng nhau trước lúc cậu con trai lên đường. Sáng nay, nhìn di ảnh anh, không khác mấy hình anh vẫn dùng trong các ấn phẩm nội bộ công ty. Cậu con trai học lớp 11, mặt mũi khôi ngô, giống anh như tạc, cả cách nói chuyện.

Đi viếng về, tôi và một anh đồng nghiệp ghé quán ăn trưa. Anh em bảo nhau, sống đấy chết đấy, phù du lắm, thế nên phải bớt sân si. Tôi phục những người có khả năng chửi người khác cả năm trời. Tôi cũng phục những người nuôi mối thù năm này sang năm nọ. Chả phải nói gở, ngày nào đọc tin trên báo, cũng có người đang yên đang lành bị BMW đâm vào người hoặc bị thép trên trời rơi xuống. Có ai đang vui khỏe hình dung ra cái chết của mình đâu. Tranh giành nhau, hận thù nhau, lỡ đạp phải cái cống mà không có nắp lúc mưa to, hay rút tiền trúng cái ATM chập mạch, cũng chết. Xuống tuyền đài còn ai mà ganh đua, bon chen. Sao không buông đi.

Cách đây năm năm, tôi bắt đầu đọc Paul Auster. Chủ đề yêu thích của Paul Auster là tính ngẫu nhiên, sự vô thường. Tất nhiên Auster không dùng chữ vô thường. Chữ này, trong ngôn ngữ nghệ thuật Việt, dường như dính chặt với Trịnh Công Sơn mất rồi. Có một truyện của Auster, đọc lâu quên tựa, hình như Oracle Night, kể chuyện một anh nọ, đêm ra đường đi dạo thì một tảng bê tông của một công trình xây dựng rơi xuống sát chân mình. Anh thoát chết trong gang tấc. Sự kiện ấy vĩnh viễn thay đổi cuộc đời anh. Những gì diễn ra sau đó, tôi không nhớ rõ lắm, nhưng có chi tiết anh ra phi trường, mua một vé máy bay bất kỳ, đi đến một thành phố xa lạ rồi nhốt mình vào một căn phòng nào đó.

Giáng sinh năm nay tôi không còn đọc Paul Auster. Những cuốn gần đây ông làm tôi chán ngấy. Nhưng Auster là một dấu ấn với tôi, đánh dấu thời gian tôi trở lại với tiểu thuyết.

Mùa Giáng sinh năm nay, tôi soi gương thấy tóc mình có vài điểm bạc. Tôi tập thể dục đều đặn, ý thức rõ rằng nếu không tập thì cơ thể có thể phản bội mình.

Tôi phóng xe ra Nhã Nam thư quán, mua toàn bộ những tập thơ trong bộ Việt Nam Danh tác. Điêu tàn, Tiếng thu, Mê hồn ca, Lỡ bước sang ngang, Quê ngoại, Gái quê – Xuân như ý. Tôi ngồi ở Nhã Nam một mình, đọc lại những vần thơ mà phần lớn tôi từng thuộc lòng. Cảm giác đọc thơ từ những ấn phẩm xinh xắn vẫn khác. Sẽ rất vô duyên nếu đọc thơ trên Kindle. Thơ cần một đối xử khác, và với bộ sách này, thơ được đối xử đẹp.

Tôi đọc thơ, và nhớ lại những năm mười sáu, mười bảy tuổi của mình, và nghĩ về tuổi mười bảy của tác giả Điêu tàn, tuổi mười tám hai mươi của hầu hết các nhà thơ thời ấy. Không phải bài thơ nào của họ cũng vượt thời gian, nhưng không khí thơ mà họ tạo ra thời ấy thì vượt thời gian.

Mùa Giáng sinh năm nay, tôi nhìn những đứa con mình đang lớn lên. Tôi dựng cây thông Noel, cùng ba mẹ con đi mua đồ về rồi cùng nhau trang trí. Alpha hí hoáy suốt buổi chiều gói quà cho ba, mẹ, và em Pi. Gói quà cho ba, mẹ, Alpha viết dòng chữ: Ông già Noel kính tặng ba V., mẹ Q. Ông già Noel quả thật rất lễ phép.

Chiều chủ nhật, Alpha và Pi được đi xem liên hoan phim khoa học, có phim về ô tô chạy bằng chanh. Về nhà, Pi mơ màng, nếu trái đất này có thật nhiều chanh, thì tất cả ô tô có thể chạy bằng chanh và sẽ không còn ô nhiễm. Pi đã viết một bài văn ngắn về con chó Lucky đã chết của bác N., kết thúc bằng câu, em rất buồn khi nó chết, em mong nó sẽ sống lại.

Từng mùa Giáng sinh qua đi, những đứa trẻ lớn lên, chúng ta có già đi, nhưng vẫn không thôi lãng mạn và yêu thương.

Giáng sinh an lành.

Thứ Hai, 19 tháng 5, 2014

Taxi

Tôi chả nhớ đích xác lần đầu tiên mình đi taxi là khi nào, nhưng tôi chắc chắn rằng đến bây giờ mình phải có trên hai mươi năm kinh nghiệm đi taxi chứ không ít. Từ khi chưa đi taxi lần nào tôi đã biết taxi là một phương tiện tốn tiền, nhờ vào sách Streamline English. Cái thời tôi bập bẹ tiếng Anh, cả nước học cùng một giáo trình Anh ngữ. À, có thể hai, ngoài Streamline English còn có New Concepts, cả hai đều có những băng cát-sét sang đi sang lại chục lần, nghe tiếng người nói thì ít, tiếng rọt rẹt thì nhiều, đâm ra có một thế hệ nói tiếng Anh mở mồm ra toàn ọt ẹt. Sách Streamline English có một mẩu hội thoại đại khái một cô bảo anh đi taxi đi thì anh kia trả lời tao ếch phải là mi lơ ne. Từ đó tôi hiểu rằng phải mi lơ ne mới đi taxi được, nên dân Việt bây giờ hầu như ai cũng [từng] đi taxi.

Tôi ghét mọi sự khát quát hóa vội vàng, nhưng tôi tin quan sát taxi cho ta biết khá nhiều điều về một thành phố. Ở Brisbane, Úc, các bác tài taxi thường rất lịch thiệp, khách ngồi lên taxi rồi, đợi khách thắt dây an toàn xong sẽ nhã nhặn hỏi, “Where are you travelling today?”. Thời tôi mới sang Úc, do ảnh hưởng của sách Streamline English, nên cứ tưởng họ hỏi mình tính du lịch ở đâu. Mất một thời gian tôi mới nhận ra “travel” không nhất thiết phải là “du lịch” mà đơn giản chỉ là đi. Ở Singapore, tài xế taxi thường là các bác người Hoa già, nói tiếng Anh đậm giọng Hoa, phóng xe rất nhanh, thái độ cũng rất chuyên nghiệp, nhận thanh toán bằng thẻ tín dụng. Ở New York, giữa hành khách và tài xế, có một tấm kính chắn lên ắt vì tỷ lệ tội phạm cao ở đây, khách và tài xế giao tiếp với nhau thông qua mấy cái lỗ thông hơi . Tài xế taxi ở Mỹ gọi khách bằng sir, lịch sự nhưng không vồn vã, và dĩ nhiên khi xuống xe chớ quên tiền tip. Tài xế taxi ở Thượng Hải hay Quảng Châu thì ưa đổi làn liên tục, hình như triết lý của họ là làm đầy mọi khoảng trống, nên thấy bất cứ khoảng trống ở bất cứ làn nào là lao vào ngay. Triết lý này phù hợp với những người thiếu kiên nhẫn nhưng không thích hợp lắm với hội tiền đình.

Tài xế taxi ở Sài Gòn những năm trước thì có tật ưa để tổng đài kêu rột rẹt, nhưng giờ thì đỡ nhiều rồi. Lên taxi ở Sài Gòn, thường khách là người nói nơi đến, vì các bác taxi Sài Gòn nhìn chung khá kiệm lời. So với taxi Hà Nội chẳng hạn, thì các bác tài Sài Gòn đã ít bấm còi hơn rất nhiều, và nói chung là không có kiểu đá đèn đòi vượt liên tục. Tài xế taxi ở Đà Nẵng và Hội An lái xe lành, dễ thương, tuy nhiên vẫn có tật ưa bấm còi.

Mặc dù vậy, vô địch thủ về bấm còi vẫn là taxi Hà Nội. Các bác tài ở đây cũng rất ít kiên nhẫn, ưa đổi làn, và ưa chạy sát đít xe trước và nhá đèn. Họ cũng tích cực tham gia câu chuyện của khách. Nhiều lúc khách đang say sưa nói chuyện với nhau, chợt giật mình cái độp vì từ ghế trước bác tài hào hứng lên tiếng góp chuyện. Khi không góp chuyện, thì họ có thể gọi điện thoại, có khi còn nhắn tin, hoặc cao hứng cất tiếng hát. Có lần, trên đường từ sân bay về, bác tài của tôi liên tục gọi điện cho ai đó để hẹn điểm đón khách. Tôi bảo anh đang chở khách đây, khi nào khách xuống rồi thì anh hãy lo tìm khách khác chứ. Bác tài nghe chừng rất ngạc nhiên, bảo phải lo trước để khách này xuống thì có khách khác ngay. Anh chăm tăng gia sản xuất thế, vợ con ắt rất vui, riêng khách thì không vui lắm vì sợ anh ủn đít xe trước hay lủi vào con lươn.

Vậy hơn hai mươi năm kinh nghiệm đi taxi có ích gì? Thật ra cũng chẳng ích gì, ngoài việc giúp gõ được vài dòng gọi là mua vui cũng được một vài phút nghỉ trưa.

Thứ Ba, 1 tháng 4, 2014

Sự không thức thời của Linda Lê

Người ta có thể đặt câu hỏi tại sao Linda Lê, tuy sở hữu một bút danh không kém phần thời thượng so với Iris Cao, Jun Phạm, hay Hamlet Trương, nhưng tại Hội sách vừa qua, tác phẩm Thư chết của nữ tác giả không còn trẻ này lại hoàn toàn đứng ngoài Top 10 bán chạy nhất. Thậm chí, theo một nguồn tin chưa kiểm chứng, nếu lập danh sách Top 10 cuốn bán kém nhất, Thư chết có thể nằm trong đó. Tuy vậy, cho đến nay, chưa ai mặn mà với công tác thống kê này.

Thư chết bán kém, liệu có phải vì Linda Lê tiếc tiền máy bay giá rẻ, không chịu xuất hiện tại Hội sách để ký tặng độc giả chăng? Hay tại vì Linda Lê không biết hát? Điều ấy có thể là một trong những nguyên nhân, nhưng còn lâu mới là yếu tố quyết định. Yếu tố quyết định ắt là tên sách. Hãy nhìn xem, những tên sách bán chạy đều chia sẻ các điểm chung dài dài, buồn buồn, nhè nhẹ, lăng lắng, chứa chan tình cảm, thậm chí, càng ít yếu tố nghĩa càng tốt. Chẳng hạn, Buồn làm sao buông, Nếu như không thể nói nếu như, Người yêu cũ có người yêu mới, hay Thương nhau để đó. Đằng này, Thư chết. Cộc lốc. Tối tăm. Hũ nút. Thư, hà cớ gì lại chết? Không ai hiểu được. Theo các chuyên gia về marketing, cũng như các đầu nậu sách vài chục năm kinh nghiệm, “chết” là một từ nhìn chung không nên đưa lên bìa sách. Chẳng ai muốn rước cuốn sách với cái tên xui rủi như thế về nhà.

Tuy nhiên, nếu khéo léo một chút, am hiểu thị trường một chút, người ta hoàn toàn có thể chuyển bại thành xụi, à nhầm, thành thắng. Người ta hoàn toàn có thể giữ lại chữ “thư” trong tên sách, thậm chí, có thể giữ cả chữ “chết”. Chẳng hạn như, Được thư anh em buồn muốn chết, hoặc Em viết thư cho ai kia rồi, anh đi chết đây.

Sự không thức thời của Linda Lê khiến tác giả này bỏ qua một cơ hội tuyệt vời để góp tên vào danh sách bestseller sách Việt. Về việc này, tác giả chỉ có thể tự trách mình. Âu cũng là một bài học cho những nhà văn không quan tâm đến xu hướng thị trường.




Thứ Sáu, 30 tháng 3, 2012

Tủ sách của ba tôi

Thêm một bài nữa trên Tuổi Trẻ Cuối  Tuần.  Phải bao nhiêu bài thì mới gỡ được cái điện thoại mất ở hội sách?:)




Mãi đến bây giờ, mỗi khi nhắm mắt lại, tôi vẫn có thể hình dung mồn một cái tủ sách của ba tôi. Như thể nó ở ngay trước mắt. Như thể lúc nào nó cũng ở cạnh tôi, trong nhà tôi.

Cái tủ sách ấy, lớn tuổi hơn tôi nhiều. Thậm chí, có thể nó lớn tuổi còn hơn cả anh chị tôi. Nếu tôi nhớ đúng, ba má tôi sắm cái tủ ấy từ khi mới lấy nhau.

Đó là một cái tủ phooc mi ca màu xám hồng vân gỗ cao ngang đầu một người lớn có chiều cao trung bình kê ngay phòng khách, bước vào là đập ngay vào mắt. Trên cùng, ngăn lớn nhất, có hai tấm kiếng lớn. Để lấy sách, ta chỉ có thể đẩy tấm kiếng về một bên. Nếu cuốn sách định lấy nằm hơi lệch về phía bên kia, thò tay không tới, thì ta buộc phải đẩy cả hai tấm kiếng về phía ngược lại. Ở ngăn này, ba tôi chỉ để sách khảo cứu, gồm những cuốn như Nho giáoViệt Nam sử lược của Trần Trọng Kim, Cao nguyên miền thượng của Toan Ánh và Cửu Long Giang, Bảng lược đồ văn học Việt Nam của Thanh Lãng, Cười của Dương Tấn Tươi… Ngăn giữa, là những cuốn sách khổ nhỏ hơn, nhiều thể loại. Lẫn trong đó là một tập thơ của ba tôi, viết bằng bút lông trên giấy pơ-luya màu, gồm những bài thơ ba tôi viết tặng bạn bè, nhưng nhiều nhất là viết cho má tôi. Cánh cửa của ngăn này là một tấm ván lớn bằng một cái mặt bàn học; khi ập lên, nó là cánh cửa đóng lại, có thể khóa được, còn khi hạ xuống, nó trở thành đích thị là một mặt bàn viết. Ngăn dưới cùng, ba tôi cất các giấy tờ quan trọng của gia đình.

Hồi tôi còn nhỏ, những cuốn sách ở ngăn trên cùng, sau lớp kiếng, có một sức hấp dẫn lớn lao. Có thể vì nó đẹp: cuốn nào gáy cũng dày, được bọc bằng giấy bóng kính, in trên giấy tốt, chữ rõ, thật khác biệt so với đám sách giấy đen của tôi. Cũng có thể vì, về nguyên tắc, tôi không được phép đọc chúng.

Tài sản của tôi, nói đúng hơn của ba anh chị em chúng tôi, nhưng tôi là người quản lý, là mấy trăm cuốn sách Kim Đồng và văn học lớn hơn tuổi Kim Đồng. Tuy nhiên, sau khi đọc mỗi cuốn trong kệ sách của mình đến bốn hay năm lần, cũng như đã chén sạch toàn bộ sách trong cái thư viện trường cấp I-II trước nhà, thì tôi rón rén tấn công sang tủ sách của ba. Nhưng hồi ấy, với tôi, đẩy tấm kiếng sang một bên để lấy được sách ra không phải là một việc đơn giản. Khe trượt thì sít, tấm kính dù có lõm nhỏ để víu nhưng vẫn trơn, chưa kể, muốn đẩy tấm kiếng ấy, tôi phải trèo lên ghế. Ngoài ra cũng phải nói, những cuốn sách ấy tôi đọc trong tư thế đứng trên ghế, hễ thoáng thấy bóng ba về thì lật đật nhét sách lại vào tủ. Và tẩu.

Tất nhiên, việc đọc lén lút như thế không qua được mắt ba tôi, vì ngoài cái bộ dạng lấm la lấm lét, thì tôi tự làm mình lộ tẩy bằng việc ưa lảm nhảm những gì đọc được. Một hôm, nghe tôi cứ lẩm bẩm Thủy Xá, Hỏa Xá, ba tôi bảo, “Lại lấy sách của ba đọc rồi phải không?”.  Ba tôi thừa biết, tôi chẳng thể nào biết được chuyện Thủy Xá, Hỏa Xá nếu không táy máy tới cuốn Cao nguyên miền thượng! Năm tôi học lớp bốn hay lớp năm gì đó, để quản lý cái sự đọc lộn xộn của tôi, ba tôi ra sắc lệnh, từ giờ trở đi, muốn đọc cuốn nào thì phải xin phép ba trước. Được lời như cởi tấc lòng, cuốn đầu tiên tôi xin phép được đọc là cuốn Tín ngưỡng Việt Nam của Toan Ánh! Ba tôi cười ngất, nói, “Cuốn đó ba đọc còn chưa hiểu hết, nói gì đến con.”

Những năm tám mươi khó khăn, nhà tôi bán lần bán hồi tài sản. Sau một thời gian, nhà hầu như chẳng còn thứ gì có giá trị, trừ cái tủ sách của ba. Một hôm đi học về, tôi thấy chị tôi đứng tựa cửa, nước mắt lặng lẽ rơi. Hỏi, tôi mới hay ba định bán cái tủ sách ấy. Bán cái tủ thôi, chứ sách thì chẳng ai mua, mà có mua cũng chẳng được bao. Tôi thẫn thờ. Có lẽ thấy mặt mày mấy chị em tôi ủ dột quá, nên ba thôi. Ăn uống có khổ cực một chút nhưng cả tủ lẫn sách đều còn. Còn cho tới giờ.

Tôi lớn lên, đi xa, có gia đình riêng, rồi lập tủ sách riêng. Ở nhà tôi bây giờ, kệ sách xếp từ trước ra sau. Số sách tôi có phải gấp mấy chục lần số sách của ba tôi. Tôi thường đi lại trong nhà, ngắm nghía sách của mình. Thế nhưng, mỗi lần ngắm như thế, tôi vẫn nhớ về cái tủ sách cũ kỹ của ba. Tôi nhắm mắt lại, mồn một hình dung ra cái tủ sách chất chồng năm tháng ấy và tự hỏi, nếu hồi bé tôi không được ngắm cái tủ sách với những hàng sách uy nghi đằng sau hai tấm kiếng ấy, liệu tôi có yêu sách như bây giờ không?

Thứ Tư, 14 tháng 12, 2011

Có bạn

(Những chuyện kể dưới đây có thể hoàn toàn là hư cấu. Mà cũng có thể không.)

Tôi có một thằng bạn.  Tên nó là Lộc. (Đây là lần đầu tiên tôi tương tên người thật lên blog, vì không thể kể câu chuyện này mà không nhắc đến tên nó, mà viết tắt thì sợ tạo nhiều liên tưởng không tốt. Vả lại, đằng nào nó cũng không đọc blog này.)

Sáng, tôi rút điện thoại ra tính gọi nó. Cũng lâu tôi không gọi nó, chắc hai ba tuần gì rồi.  Trong danh bạ điện thoại có ba tên: Lộc, Lộc Chó, Lộc Con Lừa. Thằng này thỉnh thoảng lại đổi số, đó là lý do tại sao điện thoại tôi có đến ba số của nó. Tôi nhìn ba số, không nhớ ra nó đang xài số nào, đành lần lượt gọi cả ba. Một số không bắt máy, hai số ò í e. Chừng phút sau, điện thoại tôi bắt đầu hát, “One day you'll look to see I've gone. For tomorrow may rain”.  Người gọi là Lộc Chó. Tôi nhấc điện thoại, hoan hỉ, a, như vậy mày là chó, không phải là lừa. Nó nói, thằng chó.

Trưa, tôi đi ăn với nó. Hai thằng chửi nhau như chó.

***

Tôi có một thằng bạn, kém tôi vài tuổi. Tên nó là D., mà cũng có thể là K. D.K là Đếch Kare.

Đêm ở Hà Nội, nó chở tôi sang căn gác trọ của nó, quảng cáo Bảo Ninh từng ngồi đây viết Nỗi buồn chiến tranh. Căn gác nhìn xuống đường. Đường rộng và nhiều cây. Đêm, ít người qua lại.

Căn gác của nó có nhiều vỏ chai. Lúc tôi đến còn có một cô bé tôi gặp hai lần mà chả nhớ tên, và một cậu người Anh mới sang Việt Nam chín tháng nhưng đã nói tiếng Việt tương đối khá. Nó tắt đèn, bật nhạc. Chúng tôi ngồi bên khung cửa sổ, uống rượu và nhìn xuống đường. Con đường rộng, nhiều cây, ít người qua. Mùa đông luồn qua song cửa. Tôi nhìn cái giường đơn, nghĩ, không biết nó đã ngủ với bao nhiêu em ở đây?

Nó giơ ra hai cuốn sách, một to một nhỏ, nói, em tặng anh một cuốn, anh lấy cuốn nào. Tôi lấy cuốn to, tất nhiên. Nó ký tặng, bảo, anh chả bao giờ tặng em cuốn nào. Rồi nói, mai sáng em chở anh đi uống cà phê, hay anh muốn tối mai sau cái độ của anh đi nhậu tiếp? Tôi bảo, anh chả có nhu cầu gặp mày hai ngày liên tiếp.

Chúng tôi uống đến mười hai giờ đêm, tiếng Anh xen lẫn tiếng Việt. Dần về khuya, đường vắng hơn, trong phòng cũng lạnh hơn. Tôi nghĩ thầm, bỏ cha, sao mình thích mùa đông Hà Nội.

***

Tôi có một anh bạn, hơn tôi nhiều tuổi. Các bạn kém tôi chỉ vài tuổi gọi anh là bác. Tôi gọi anh là anh, liều quen miệng rồi. Anh có rất nhiều sách nhưng chưa cho tôi cuốn nào.

Lần đầu gặp anh ở Sài Gòn, anh bảo, mai mốt ra Hà Nội nhớ gọi anh.

Tối ở Hà Nội, tôi ngồi với anh và một số bạn khác ở một quán trên Nghi Tàm. Trời lạnh, uống tí rượu là ấm. Anh nói, sáng mai anh chở mày đi ăn phở Hà Nội.

Sáng, tôi dậy sớm, đánh răng, đọc tin nhắn của anh. Anh xin lỗi vì phải đi sớm nên không ăn sáng được. Tôi xuống nhà hàng của khách sạn, ăn sáng. Cái khách sạn này, lần trước tôi cũng ở đây, đã chẳng bảo với tôi rằng bữa sáng bao gồm trong giá phòng. Ăn xong, tôi về phòng, đánh răng, vào Facebook treo status, Răng đánh hai lần, thịt xương nát tan.

Trưa, có tin nhắn của anh trên Facebook. Anh bảo chiều qua anh ở Hải Phòng, về Hà Nội để gặp tôi, định sáng ăn sáng cùng tôi rồi mới quay lại Hải Phòng, nhưng có việc nên phải đi sớm hơn. Anh xin lỗi lần nữa. Tôi trả lời, không sao anh ơi, lần sau em ăn phở bù. Cả sách nữa nhé.

***

Khi có thể chửi nhau là chó, người ta là bạn.

Khi có thể nói năng phũ phàng với nhau, người ta là bạn.

Khi có thể bỏ công việc gặp nhau uống rượu một bữa, người ta là bạn.

Tôi có bạn.

Thứ Tư, 5 tháng 10, 2011

Trở lại Hội An (tiếp)

Tuy nhiên tôi biết, cho dẫu tôi mê cao lầu, tình yêu cao lầu của tôi chỉ là tình yêu du khách, qua đường gặp món hạp miệng thấy ngon thì mê, nhưng cái ngon ấy chỉ mới là cái ngon đầu môi chót lưỡi. Sẽ chẳng bao giờ tình yêu của tôi dành cho cao lầu có thể so đọ được với tình cảm mà một người quê gốc Hội An dành cho nó.  Cái ngon của một món ăn của một vùng quê đối với người quê xứ ấy không chỉ nằm ở vị giác, mà nằm ở cái trường kỷ niệm vây quanh nó: có thể đó là tiếng mưa rơi trên luống rau, là con ốc sên tí hon bò quanh lá, là món ăn mẹ nấu cho mỗi sáng, là món ăn chỉ xuất hiện trong mỗi bữa họp mặt gia đình, là bữa trốn trường cùng đám bạn rủ nhau đi ăn vặt, hay là hôm xì xụp trong lén lút với mấy đồng xu ăn trộm của bố mẹ.  Kỷ niệm có thể muôn hình vạn trạng nhưng cũng lại độc đáo, duy nhất.  Khi ăn món ăn quê nhà, món ăn đã ăn từ tấm bé, người ta ăn cả những kỷ niệm ấy: ăn ký ức. Đó là lý do tại sao một người sinh ra ở Đơn Dương như tôi, ăn bánh căn Đơn Dương, từ hồi bốn, năm tuổi, thì đến bây giờ lúc nào cũng thèm ăn bánh căn Đơn Dương tại Đơn Dương;  và cho dù tôi dẫn bạn bè từ nơi khác về Đơn Dương, cũng ngồi ăn ở quán ấy trong một ngày mưa gió  - thời tiết hết sức lý tưởng để ăn bánh căn -  thì bạn bè tôi cũng chẳng có được cùng cảm giác như tôi. Huống  hồ chi bạn nào đấy đọc bài về bánh căn của tôi, rồi ra Nha Trang, sau khi đẫy bụng một món nào đó, đi mua bánh căn mang về khách sạn ăn, xong rồi bảo món gì chán kinh, toàn bột với nước mắm, chả ra cái vẹo gì. Ăn như thế thì đúng chẳng ra cái vẹo gì thật.

***

Tôi có một người bạn Úc. Bà là một người yêu quý Việt Nam thật lòng, thật đến nỗi tôi hay tự hỏi tại sao bà lại yêu Việt Nam như thế. Bà có dây mơ rễ má gì với cái đất nước này như tôi đâu. Tôi không hình dung ra được, một cách khách quan, làm sao một người lại có thể yêu quý được một đất nước khác.  Sinh ra lớn lên trong nước ấy thì đã hẳn, vì khi ấy yêu nước là bổn phận, làm gì có lựa chọn.

Bà bạn của tôi mê tít Hội An. Gần như mỗi năm bà sang Việt Nam một lần, gần như lần nào bà cũng ghé Hội An. Có năm đến để may cái áo dài, có năm đến để sửa cái áo dài may năm trước, có năm đến chỉ để lang thang, đi dạo vơ dạo vẩn, ngắm nhìn cuộc sống người dân, hít thở không khí của thành phố cũ kỹ, nhỏ và đẹp này. Tôi không chắc Nguyên Ngọc có phải là người đầu tiên gọi ra  đặc tính nhỏ và đẹp của Hội An hay không, nhưng tôi biết chắc Nguyên Ngọc là người giả định rằng, đại ý, nếu Hội An bị kéo giãn ra, hay giả những con phố của Hội An không chật đến nỗi người nhà bên này có thể bắt tay người nhà bên kia mà cả hai không phải ra khỏi nhà, thì Hội An sẽ chẳng còn là Hội An nữa.

Tôi nghĩ, không khí của Hội An là chính cái lôi kéo du khách phương Tây và những người như bà bạn Úc của tôi đến đây, chứ không phải là một cái nhà cổ, một cái đình hay một cái chùa nào. Đã ghé thăm tất cả những địa điểm lịch sử của Hội An trong chuyến đi trước, lần này chúng tôi thuê hai cái xe đạp, hai bạn lớn chở hai bạn nhỏ, đi loanh quanh trong phố, không  có một điểm dừng chân cụ thể nào trong đầu. Bảy năm trước, chúng tôi cũng thuê hai xe đạp, đạp ra tận Cửa Đại, ngang qua cây cầu và khúc sông lặng tênh gợi một vẻ thanh bình tuyệt đối. Giờ chúng tôi, vướng hai cái đuôi, không đạp xa được, vì hai cái đuôi cứ bảo đau mông (ấy là chưa kể không chịu làm đuôi mà còn bảo, “Con là đầu cơ!”), nên chỉ vòng vòng trong phố cổ, ghé một hàng chè ven đường ăn ly chè đậu xanh đá, rồi dừng chân xem hát bài chòi, xem người ta chơi bịt mắt đập niêu trên phố.  Cũng nói thêm, khi thuê xe đạp, người cho thuê chỉ hỏi chúng tôi ở khách sạn nào, rồi giao xe mà chẳng đòi hỏi vật gì thế chân; còn khi ghé hàng chè, quen thói Sài Gòn xuống xe tính khóa, bà chủ hàng đã vội xua tay có để đến mai cũng không ai lấy. Hội An quả vẫn còn hội nét bình an.

Thứ Hai, 3 tháng 10, 2011

Trở lại Hội An

Tôi trở lại Hội An sau bảy năm.

Tôi chợt nhận ra tôi hay bắt đầu các bài viết của mình bằng cách rọi về một kỷ niệm trong quá khứ. Nói một cách tuyệt đối, chỉ trẻ sơ sinh mới không có quá khứ, còn bắt đầu biết ăn biết đi rồi biết nói là đã bắt đầu có quá khứ rồi, cho dù ta có ý thức về nó hay chăng nữa. Càng lớn tuổi quá khứ càng chất chồng, thế nên người trẻ bao nhiêu đời vẫn hóng người già kể chuyện xưa. Còn ông bà bố mẹ mở miệng ra nhắc nhở con cháu là ngày xưa bố thế này, ngày xưa ông thế kia; bạn bè lâu ngày gặp nhau không khỏi hàn huyên chuyện cũ. Ai có sống vội sống vàng cho mấy, có ưa bàn chuyện tương lai năm mười năm sau, vẫn không thể không hoài niệm. Nên giả có một ngày quay lưng lại thấy sau lưng trống hoác, tịnh không chút kỷ niệm nào, thì người lại giật mình “bơ vơ như trẻ sơ sinh”. 

Trong chuyến đi Hội An này tôi mang theo mình ba cuốn sách: Chân dung Dorian Gray của Oscar Wilde, Vượn trần trụi của Desmond Morris và Tùy bút của Võ Phiến. Những lúc không chơi đùa, không phải dắt hai bạn nhỏ và một bạn lớn đi ăn, đi bơi, hay đi chơi, tôi lại lôi sách ra đọc. Tôi cao tuổi nhất so với cả ba bạn còn lại đâm ra ngủ ít nhất và đọc nhiều nhất. Đi chơi năm ngày thì tôi đọc trọn vẹn cả ba cuốn, cộng lại cũng được nghìn trang.

 Tưởng như tôi có thể nhại Lev Tolstoy mà nói: “Mọi cuốn sách dở đều giống nhau, nhưng mọi cuốn sách hay lại hay theo một kiểu.” Trong khi Chân dung Dorian Gray là một áng luận văn tuyệt diệu về nhục thể, Vượn trần trụi cung cấp những góc nhìn thú vị từ góc độ của một nhà động vật học về con vật người, thì Tùy bút là một thứ rượu ngon nhưng độ không cao lắm, đủ để mỗi ngày nhâm nhi một chút thì người lúc nào cũng ngất ngây nhưng không đến nỗi say không còn biết trời đất là gì. Vì lẽ đó, cuốn Tùy bút này đặc biệt thích hợp một kỳ nghỉ.  Đoạn “bơ vơ như trẻ sơ sinh” trên kia chính là cái cảm giác Võ Phiến mô tả trong mùa xuân đầu tiên trên đất Mỹ, nhận ra trên đất nước mới này, cảnh sắc đẹp thì đẹp đấy nhưng chẳng có tình; ông khám phá ra rằng đó là vì ông chẳng có kỷ niệm nào với xứ sở này - mọi kỷ niệm đã có đều là với đất nước mà ông để lại sau lưng.  Cái cảm giác chợt trống hoác ấy ông gọi là “bơ vơ như trẻ sơ sinh”.

Cuốn của Võ Phiến đọc ở Hội An càng đặc biệt thích hợp, vì trong đó có bài về Hội An.  Tôi nhớ nhận xét của ông về món cao lầu, [trích không chính xác nguyên văn] “xứ sở này luống tuổi đến mức món ăn của nó cũng không đủ sức đi xa”.  Đó là một nhận xét dí dỏm, tinh tế và hết sức trìu mến. Vào thời điểm Võ Phiến viết bài đó, hủ tíu đã thống lãnh miền Nam, phở đã trở thành món quốc hồn, bún bò Huế vừa bắt đầu biểu dương thanh thế ở Sài Gòn, còn cao lầu ít vẫn nhìn thấy ở đâu ngoài Hội An. Ngay cả vào năm 2011 này, món cao lầu đi xa lắm chắc cũng chừng ba chục cây số  tới Đà Nẵng  (nhờ con đường thẳng băng mới mở nhân hội nghị APEC cách đây vài năm), chứ ở Sài Gòn cao lầu chỉ mới tạm trú một cách thưa thớt, KT3 còn chưa có, nói chi chuyện hộ khẩu thường trú. Năm 2004, tôi và người yêu mới vào rọ ở Hội An hai ngày ăn cao lầu sáu bữa ở sáu quán khác nhau; cao lầu ở mỗi quán khác nhau chút đỉnh, nhưng vị rau sống đặc thù xứ này thì không lẫn vào đâu được. Về Sài Gòn, nhớ cao lầu là nhớ cái vị rau ấy.  Lần này, tới Hội An chỉ vào hai buổi tối, tối đầu ngồi bên chợ đêm tương đối mới ở bờ bên kia sông Hoài, chị bán hàng khăng khăng ở Hội An không bán cao lầu tô nữa, mà chỉ có cao lầu xào. Lòng đầy nghi ngại chúng tôi gọi thử, thì quả nhiên đó là món cao lầu bị hiếp dâm: một món mì trắng xào đầy mỡ và vô cùng ngấy.  Tối thứ hai, chúng tôi chọn một quán cóc bên kia sông Hoài, đang ngồi ngoài trời  đột mưa tầm tã, hai bạn nhỏ ướt sơ sơ, còn hai bạn lớn ướt kha khá, bù lại cao lầu đúng vị cố nhân. Gặp lại cố nhân bao giờ lòng cũng xôn xao.



Thứ Ba, 13 tháng 9, 2011

Hội An - demo; hội nghị - một nhát

Tôi mới đi Hội An về. Tôi muốn viết chút gì đó về Hội An.  Đoạn đầu có thể như sau:



Tôi trở lại Hội An sau bảy năm.

Tôi chợt nhận ra tôi hay bắt đầu các bài viết của mình bằng cách rọi về một kỷ niệm trong quá khứ. Nói một cách tuyệt đối, chỉ trẻ sơ sinh mới không có quá khứ, còn bắt đầu biết ăn biết đi rồi biết nói là đã bắt đầu có quá khứ rồi, cho dù ta có ý thức về nó hay chăng nữa. Càng lớn tuổi quá khứ càng chất chồng, thế nên người trẻ bao nhiêu đời vẫn hóng người già kể chuyện xưa. Còn ông bà bố mẹ mở miệng ra nhắc nhở con cháu là ngày xưa bố thế này, ngày xưa ông thế kia; bạn bè lâu ngày gặp nhau không khỏi hàn huyên chuyện cũ. Ai có sống vội sống vàng cho mấy, có ưa bàn chuyện tương lai năm mười năm sau, vẫn không thể không hoài niệm. Nên giả có một ngày quay lưng lại thấy sau lưng trống hoác, tịnh không chút kỷ niệm nào, thì người lại giật mình “bơ vơ như trẻ sơ sinh”

Đoạn trong ngoặc kép dĩ nhiên là của người khác, là ai tôi nói sau, cho nó hấp dẫn kiểu truyện Tàu hạ hồi phân giải.

-------

Có thể là như thế. Vài ngày nữa xem có viết được gì nối vào sẽ post tiếp, còn không thì thôi!

Hồi học đại học, tôi có trót tham gia một cái câu lạc bộ gọi là câu lạc bộ sáng tác cấp trường. Đại khái những ai có một bài thơ hay đoạn văn đăng trên cái báo tường của trường đều có thể tham gia câu lạc bộ này. Một hôm câu lạc bộ họp phiên toàn thể, có một bạn "bức xúc" thế này: Ở đây (tức ở trong trường) tù túng quá (tù túng thật, trường tôi ngày ấy giống cái nhà kho) không sáng tác được.  Đề nghị ban chủ nhiệm phải tổ chức đi dã ngoại để lấy cảm hứng sáng tác.  Tôi nghe đến đấy, đang ăn miếng bánh thì suýt sặc, bèn chuồn ra ngoài đi uống bia lên cơn với mấy thằng bạn thối đang ngồi nhậu ở cạnh bên cồng trường. Tôi đọc thơ cho chúng nó, uống bia, còn chúng nó đương nhiên nghe thơ và trả tiền.

Mấy ngày đi chơi vừa rồi, tôi ít vào mạng, ít đọc báo. Nhìn thoáng qua FB, thấy các bạn lao xao về hội nghị nhà văn trẻ đang diễn ra, tôi có liếc qua vài link, thấy có vài nhà văn trẻ đề xuất phải tổ chức trại sáng tác, rồi gì gì ấy. Dù đang không ăn gì, tôi vẫn suýt sặc, hệt như lần nghe bạn gì ngày xưa trong cái câu lạc bộ sáng tác còm cõi của trường phát biểu.  

Sao nhiều nhà sáng tác cứ thích nghĩ như thể nhỉ? Viết, cũng như masturbation, là thứ người ta chỉ có thể làm một mình. Một số nhà hay tuyên bố tôi cô đơn/độc khi sáng tạo tôi sáng tạo khi cô đơn/độc, nghe rất cliche, nhưng quả thực viết chưa bao giờ là hành vi hội hè đình đám. Người ta có thể gặp gỡ, trao đổi với nhau, có thể orgy, nhưng lúc viết thì phải ngồi một mình sau một cánh cửa đóng. 

Hic, có thể tôi to mồm, vì tôi chưa thực sự viết bao giờ, nhưng tôi tin như thế.  

Chủ Nhật, 15 tháng 5, 2011

Mùi của tiểu thuyết

Đọc tiểu thuyết, trong chừng mực nào đó, là một công việc dũng cảm.  Thừa nhận rằng bạn mua, và tệ hơn, đọc tiểu thuyết lại cần nhiều dũng cảm hơn.

Phần lớn, không, phần rất lớn bạn bè của tôi không đọc tiểu thuyết. Họ có nhiều sở thích khác nhau: chụp ảnh, lái xe caravan, câu cá, chơi tennis, sưu tầm đồ kỹ thuật số.  Bạn chụp ảnh say sưa chụp ảnh mọi người, mọi vật, mỗi khi có dịp hội họp  lễ lạc gì lại thấy bạn với một lô ống kính, chân đế, lăng xăng chạy tới chạy lui.  Ai cũng biết bạn đam mê chụp ảnh. Bạn chơi tennis gặp ai cũng hỏi, có chơi tennis không.  Bạn thao thao bất tuyệt về Nadal, về Federer, về các giải to và nhỏ.  Bạn đi thi tennis cấp phường, cấp quận, cấp công ty mình và cấp công ty khác.  Tình yêu tennis của bạn là tình yêu công khai, ai cũng biết.  Giống như vậy là tình yêu của bạn mê câu cá, bạn lái xe caravan, bạn chơi đồ kỹ thuật số. Các bạn có thể thoải mái huyên thiên về tình yêu của mình giữa đám đông.

Giữa đám đông, chưa bao giờ tôi dám thú nhận mình mê tiểu thuyết. Ai căn vặn hỏi tôi thích gì, tôi làm gì trong thời gian rảnh, tôi cười cười, hoặc hạ giọng, à, mình đọc. Vâng, đọc nói chung nghe còn được, vì nó bao hàm đọc báo, đọc sách pháp luật, và kinh tế.  Kinh tế thì tốt, chứng khoán thậm chí còn tốt hơn, mà nếu làm cho người ta nghĩ rằng mình chỉ đọc về bí mật các quốc gia thì tốt hơn nữa. Trong trường hợp sau cùng, rất có thể bạn sẽ nhận được ánh nhìn ngưỡng mộ.  Rất có thể người ta sẽ hỏi tiếp này, nghe đồn trong lăng Lenin hình như không có xác, hoặc, có đúng là Bin Laden đang sống nhăn trong sự bảo bọc của Mỹ ngay tại DC không? Nhưng, tôi biết rất rõ  rằng chớ nên nói đam mê của tôi là đọc tiểu thuyết, vì tôi hoàn toàn không muốn được người ta nhìn thương hại, như thể tôi là kẻ lạc hậu, chậm tiến, yếu ớt, hay chán ốm. Nếu không thế thì cuộc trò chuyện cũng sẽ rơi vào khoảng lặng, gượng gạo, không lối thoát.

Khi chuyển sang căn hộ mới, tôi gọi thợ đóng một loạt kệ sách, để chất tất cả sách của tôi lên, phần lớn trong đó là tiểu thuyết.  Anh trưởng nhóm mộc, khi nhìn thấy đống sách của tôi, không ngừng bình luận, a, anh có nhiều sách quá, anh đọc hết chưa, anh có nhớ hết không. Anh chỉ ngớt hỏi khi nhìn thấy cuốn Rừng Nauy, a, anh có cuốn này nữa hả, em cũng biết cuốn này. Thật là tuyệt. Ít ra tiểu thuyết của Murakami cũng phổ biến đến tận thợ mộc ở Việt Nam.

Trước đó, tôi đã trải qua một quãng thời gian dài không gặp mặt những cuốn tiểu thuyết của tôi.  Khi chuẩn bị chuyển nhà, chúng tôi cho đi những kệ sách cũ, nên phải đóng thùng hầu hết sách.  Những trục trặc trong khi chuẩn bị cho căn hộ mới khiến đống sách ấy nằm yên trong thùng các tông gần hai tháng. Kệ sách được đóng xong, khi mở thùng ra, tôi hớn hở. Bìa những cuốn sách ấy, những tác giả này, bao lâu rồi tôi không nhìn thấy.  Và mùi của chúng. Khi sách đã sắp hết lên kệ, tôi đi lại thư thái trong phòng, cảm thấy ổn thỏa, cảm giác đây là nhà.

Khi đọc một tiểu thuyết, cùng với việc đọc tôi cũng thu vào mình thời tiết, cảnh vật xung quanh, ghi nhận lại vị trí, thời gian khi đọc. Rồi sau, khi tôi giở lại đúng cuốn tiểu thuyết đó, mùi dậy về. Chẳng hạn bây giờ, mỗi khi mở lại cuốn Hội hè miên man,(*) tôi sẽ nhớ cái ngày chủ nhật  mưa từ sáng sớm, bầu trời xám, mùi không khí ẩm, và tôi thấy tôi ngồi co ro trên sofa, trong phòng khách của căn hộ cũ, nơi giấy dán tường đã đầy những nét màu sáp nguệch ngoạc và bắt đầu bong ra. Còn khi mở cuốn Phía núi bên kia,(**) lập tức trí óc tôi trôi về căn nhà gỗ của ba mẹ tôi ở Đơn Dương, và thấy tôi ngồi vắt vẻo trên khung cửa sổ gỗ thông mục, bên ngoài có mùi hăng hắc của hoa dong riềng.

Tôi nhớ Mario Vargas Llosa có viết rằng ông không ưa sách điện tử. Tôi không nhớ rõ ông không ưa vì lý do nào, nhưng với tôi, trên máy tính hoặc các thiết bị đọc sách điện tử khác, tôi chỉ có thể đọc sách tham khảo.  Riêng với tiểu thuyết, tôi phải đọc sách in, vì tôi có nhu cầu sờ vào trang giấy, hít thở mùi của chúng, cùng mùi của khoảng không gian và thời điểm khi tôi đọc, và khi đọc xong, tôi muốn nhìn thấy cuốn sách ấy hiện diện hiện hữu trong nhà.

Làm sao trong đám đông, hoặc trong những câu chuyện xã giao, tôi có thể nói rằng, trong thời gian rảnh, tôi thích đọc tiểu thuyết, vì những lý do hết sức riêng tư ấy?

(*) Tiểu thuyết của Hemingway
(**) Tiểu thuyết của Xuân Sách


------------------


Bản trên báo bị cắt mất mấy câu ưng ý, chưa kể bị sửa vài chữ quan trọng.



Thứ Tư, 8 tháng 12, 2010

Tháng mười hai trên những giàn su xanh


Tháng mười hai trên những giàn su xanh (*)

Tất nhiên ai sinh ra lớn lên ở vùng rau như Đà Lạt, Đơn Dương, Lâm Đồng đều biết su su, tuy to chẳng kém su hào, nhưng không phải là su hào. Su hào là củ còn su su là trái. Muốn ăn su hào phải đào đất lên còn muốn ăn trái su su phải hái từ trên giàn xuống. Sủ cu hào trăng lủng lẻo hay củ su hào treo lủng lẳng chỉ là câu nói đùa của những người giả vờ nói tiếng Hoa, còn trái su su mới đích thực là trăng lủng lẻo hay treo lủng lẳng. Sở dĩ vòng vo thế là vì, ngạc nhiên chưa, tôi đã gặp rất nhiều người tưởng su su là củ, hoặc nếu không là củ, thì cây su su chắc to không kém cây ổi! Đằng nào thì ổi và su su trông cũng khá giống nhau: đều màu xanh.

Cây su su tuy trái to nhưng thật ra rất yếu ớt, chẳng thể đứng nổi một mình mà lúc nào cũng phải bò lên một cái gì đấy, chẳng hạn như hàng rào, nhưng tốt hơn là một cái giàn: giàn su su. Hồi tôi học lớp 8, lớp 9, hai anh em tôi bỏ cả mùa hè lên núi vác về cả trăm cây gỗ to cỡ bắp chân, để làm giàn su su. Phải đào đất, chôn cả trăm cây gỗ đấy xuống làm cọc, mỗi cọc cách nhau chừng 5, 7 mét; xong rồi, giăng dây thép từ cọc nọ sang cọc kia. Khi xong, giàn su su chưa có dây su su nhìn giống như ma trận.

Dưới mỗi cọc, bắt đầu chôn những trái su su giống xuống. Su su giống là những trái su su già, già đến nỗi hạt thò ra ngoài, thường được gọi là su le. A, viết cái này tự nhiên tôi nhớ ra từ su le, lần gần đây nhất tôi dùng từ này chắc phải cách đây hai chục năm! Dây su su mọc lên khá nhanh, chỉ độ vài tuần là đã có một giàn su su xanh mướt, vài tuần nữa là đã thấy bao nhiêu là trái su su treo lủng lẳng. Ôi, su su tình yêu của tôi, kết quả lao động khó nhọc của cả nhà tôi, nỗi mơ mộng của tôi, và quan trọng hơn, thịt cá của gia đình tôi. Phải bán được su su thì mới ăn thịt cá, chứ không thì ăn su su cả tháng à.

Những ngày này, khi bắt đầu phải giám sát chế độ ăn để không tăng mức mỡ trong máu, tôi hay nhắc vợ mua su su về ăn. Tôi thích ăn su su luộc chấm chao. Tuy nhiên, món su su mua ở Sài Gòn về luộc lên ăn chỉ khá hơn rơm một tí. Tôi nhớ su su của những ngày thèm thịt cá. Su su của những ngày hái từ vườn vào, luộc lên xanh mướt, tô nước luộc bốc hơi nghi ngút, chấm với chao chùa làng, vị su su ngọt lừ, vị chao beo béo. Ăn từ từ thôi, vì ăn nhanh có thể không cần gặp nha sĩ mà răng vẫn rơi ra. Ai không tin thì cứ thử phập răng vào miếng su su vừa mới luộc.

Tháng mười hai, trời lạnh. Giàn su những sớm tháng mười hai ở Đon Dương sẽ xanh biếc, đẫm sương. Cả nhà tôi sẽ dậy sớm, mặc quần áo ấm vào rồi đi hái su su, chất vào những giỏ sắt to tướng. Có lần, chị tôi hái nhầm con rắn lục đang nằm uống sương mơ màng trên những đọt su non. Giàn su xanh, rắn lục cũng xanh, cùng màu nên thích lẫn vào nhau. May mà rắn lục mải uống sương nên tha cho chị tôi. Cả nhà được một phen hú vía.

Hôm nay lại là một ngày đầu tháng mười hai. Trời Đơn Dương chắc đã lạnh và hoa quỳ chắc đã nở vàng. Ở nhà, không còn giàn su su với cả rắn lục như xưa, nhưng nếu về Đơn Dương, hẳn sẽ vẫn được ăn món su su luộc xanh ngắt.

(*) Thơ Đỗ Trung Quân


Thứ Hai, 6 tháng 9, 2010

Fragments

Chữ "fragments" trong Other Colors của Pamuk được Nhị Linh dịch là "những phân mảnh".  Dĩ nhiên, Other Colors là một cuốn sách tuyệt vời về những phân mảnh mà một năm đọc sách chỉ cần đọc một cuốn như thế cũng đủ, chưa kể nó có thể gầy ra rất nhiều cảm hứng, rất nhiều gợi ý.... (Mặc dầu không thích dấu ba chấm nhưng ở đây buộc lòng phải dùng một cái.)


Dưới đây là một vài fragments được nhặt nhạnh đó đây trên mạng và trong thế giới blog:




1.  "Nếu bạn thật tình muốn làm cha mẹ mình khổ tâm, mà bạn lại không đủ can đảm để sống như người đồng tính luyến ái, thì điều tối thiểu bạn có thể làm là lao đầu vào nghệ thuật. Tôi không nói giỡn. Nghệ thuật không phải là một cách kiếm sống. Nó là một cách rất nhân bản để làm cuộc sống dễ chịu hơn. Thực hành một nghệ thuật, bất kể giỏi hay dở thế nào, là một cách để làm tâm hồn của bạn vươn lên, tạm cho là thế. Hãy hát dưới vòi sen trong buồng tắm. Hãy nhảy múa theo nhạc từ đài phát thanh. Hãy kể những câu chuyện. Hãy viết một bài thơ cho một người bạn, ngay cả một bài thơ nhếch nhác. Hãy làm những điều ấy theo khả năng của mình. Bạn sẽ nhận được một phần thưởng to tát. Bạn đã sáng tạo được một cái gì đó".

(Kurt Vonnegut -  trích từ  một chương trong A Man Without A Country - bài dịch của Hoàng Ngọc Tuấn)


2.  Chào, ngườilạ.

Xin lỗi vì đây là một bức thư không nên viết. Vì rằng chúng ta là những người xa lạ, và rằng mối liên hệ giữa chúng ta cũng xa vời như khoảng cách, đúng theo bất cứ ngữ nghĩa nào của từ này, giữa chúng ta vậy.

Xin lỗi vì khi bạn đọc những dòng chữ này, là bạn đang là nạn nhân bất đắc dĩ của một hành động vô cùng vị kỷ. Và chính việc thực hiện hành động này, chứ không phải việc bức thư này nói gì, chính là sự tử tế cao quý nhất mà bạn có thể bày tỏ với tôi, và bạn đã bày tỏ, là sự tử tế cao quý nhất mà bản thân tôi từng nhận được, và tôi đã được nhận, nên xin bạn, một lần nữa, bỏ qua cho sự kỳ cực, trong suy nghĩ của một gã tâm thần, cũng như nguyên nhân tồn tại của chính bức thư này: Tôi muốn viết thư.

Sự không rõ ràng trong nội dung bức thư đã làm tôi ngần ngại rất nhiều, nhưng cũng chính sự không rõ ràng đó đã thúc giục tôi rất nhiều. Tôi viết, bởi vì tôi cần phải viết. Bởi vì khi nhìn thấy từng con chữ hiện ra, chắc chắn và cẩn thận, dưới bàn tay mình, điều đó gây trong tôi rất nhiều hứng khởi; trao cho tôi can đảm, can đảm của việc thực làm những gì mình thực sự muốn làm. Và bạn biết không, không ai có thể hiểu được rằng cảm giác nghẹn thở đó là niềm hạnh phúc lớn lao nhất đời một người có thể đạt được. Không ai có thể hiểu.

Bức thư này sẽ được gởi đi, xuyên qua những khung trời xanh thẳm, xuyên qua những ngày tuyết trắng, xuyên qua cả những mùa hè chói chang nắng nữa, - trời mưa thì không xuyên qua được rồi. Và tôi hy vọng nó có thể là ngọn nến bé thắp lên chút ấm áp cho bạn, một nhỏ bé trong to lớn thành phố xa xôi. Vì tôi biết, tôi muốn viết thư, và bạn muốn nhận thư.

Khi cầm bức thư này trên tay, bạn thấy đó, tôi không mong nhận được hồi âm. Việc bức thư này tồn tại, mà lẽ ra nó không nên, không bao giờ nên, chính là sự thú nhận bản tính ủy mị của tôi - cả bản thân những lời như thế này nữa. Đàn ông phải rắn rỏi. Đàn ông không mềm yếu. Và tôi cũng chắc rằng bạn đồng tình với tôi như thế. Nhưng giờ phút này đây, khi tôi viết những dòng chữ này, cũng đồng thời lúc bạn đọc được chúng, xin cho tôi được thành thật không che dấu cái điểm yếu cố hữu của mình. Vì bạn không biết tôi, vì chúng ta hoàn toàn xa lạ.

Nếu có một điều gì về tôi mà bạn cần biết, chính là, tôi không phải kiểu người bất hạnh. Cuộc sống của tôi vốn đầy đủ và dễ dàng. Tôi có gia đình, tôi có bạn bè, và tôi có cả những tình yêu lớn lao đủ để dằn sâu trong lồng ngực. Tôi có tất thảy những thứ con người cần có để tồn tại trong cuộc đời. Và tôi có cả những nhận thức rằng sống không chỉ đơn giản là tồn tại, dù tồn tại cũng là một cách sống.

Nếu có một điều gì đó tôi muốn bạn biết, đó là, Sài Gòn của tôi lại vào mùa điệp. Những con đường trải dày bóng râm với lắc rắc màu vàng hoa nhàu nhĩ. Những thân cây rắn chắc vươn thẳng lên nền trời cao vợi, đung đưa trong ánh lấp lánh vàng của ngày rực rỡ. Sài Gòn của tôi lại vào mùa mưa. Sài Gòn của tôi, vốn đẹp lạ lùng!

Và điều sau cùng tôi muốn nói, khi bạn đọc đến những dòng cuối cùng này, khi bạn chuẩn bị đặt tờ giấy xuống, và, có lẽ, bừng lên một chút cảm giác ấm nồng, rằng bạn đã "vừa trao cho ai đó can đảm để đối mặt với cuộc đời"!

Cảm ơn bạn, người lạ!

(Từ blog Cafe sữa)

3.  


Lâm cười


Tôi quen thói ẩn núp trong huyền thoại của tiếng cười,
và hôm ấy Lâm cười tiếng lăn giòn như mưa đổ.

Như thể hắn đã được sinh ra từ khe núi,
nên tiếng hắn cười rang
rực rỡ màu thu.

Lâm, tiếng cười của bạn,
tôi muốn nhồi nó vào tai, la hét gào nó đến,
nhưng nó thì im lìm.
Nó chỉ hiện diện trong tiếng mưa rơi,
buộc tôi phải ngồi đây
đợi mưa đến.

(Từ blog Ramblings)