Hiển thị các bài đăng có nhãn grossman. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn grossman. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 7 tháng 8, 2025

Tìm lại mặt người

Trích dịch từ bài Individual language and mass language của David Grossman trong tập Writing in the Dark.


Trong thế giới mà tôi đã mô tả, văn chương không có những đại diện có ảnh hưởng tại các trung tâm quyền lực, và tôi thấy khó có thể tin rằng văn chương có thể thay đổi được điều đó. Nhưng nó có thể đề xuất những cách khác để sống trong thế giới ấy. Sống với một nhịp điệu nội tại và một tiếp diễn nội tại đáp ứng nhu cầu cảm xúc và tinh thần của chúng ta cần nhiều hơn rất nhiều so với những gì các hệ thống bên ngoài áp đặt thô bạo lên chúng ta.

Khi đọc một cuốn sách hay, tôi trải nghiệm một sự sáng rõ bên trong: cảm thức về sự duy nhất của bản thân trở nên rõ ràng. Cái giọng nói đều đặn, chính xác chạm tới tôi từ bên ngoài làm sống dậy những giọng nói bên trong tôi, một số trong đó có lẽ đã im lặng cho đến khi giọng nói kia, hay cuốn sách cụ thể này, đến và đánh thức chúng. Và ngay cả khi cùng một thời điểm hàng ngàn người cùng đọc cuốn sách mà tôi đang đọc, thì mỗi người đều đơn độc đối diện với nó. Với mỗi người, cuốn sách ấy là một loại giấy quỳ hoàn toàn khác nhau.

Một cuốn sách hay — và số lượng như thế không nhiều, vì văn chương, tất nhiên, cũng chịu ảnh hưởng của những cám dỗ và rào cản từ truyền thông đại chúng — có thể cá nhân hóa và kéo người đọc đơn lẻ ra khỏi đám đông. Nó cho người đó một cơ hội để cảm nhận cách mà những nội dung tinh thần, ký ức, và những khả thể hiện sinh có thể nổi lên, trồi dậy từ bên trong anh ta, từ những nơi chốn xa lạ, và chúng là của riêng anh ta. Là trái ngọt từ chính cá tính của anh ta  mà thôi. Là kết quả của những tinh luyện thầm kín nhất. Và trong văn hóa đại chúng của đời sống thường nhật, trong sự ô nhiễm toàn diện của ý thức chúng ta, thật khó để những nội dung hồn ấy có thể trồi lên từ sâu thẳm nội tâm và trở nên sống động.

Ở trạng thái tốt nhất, văn chương có thể kết nối chúng ta với số phận của những con người xa lạ và khác biệt. Đôi khi, nó có thể tạo ra trong ta một cảm giác kinh ngạc khi nhận ra rằng ta đã thoát khỏi số phận của những người lạ ấy trong đường tơ kẽ tóc, hoặc khiến ta buồn bã vì đã không thực sự gần gũi với họ. Vì đã không thể vươn tay ra chạm tới họ. Tôi không nói rằng cảm xúc ấy lập tức thúc đẩy chúng ta hành động theo một hình thức nào đó, nhưng chắc chắn rằng nếu không có nó, thì sẽ không thể có bất kỳ hành động nào mang tính thấu cảm, dấn thân hay trách nhiệm.

Ở trạng thái tốt nhất, văn chương có thể tử tế với chúng ta: nó có thể làm dịu đi cảm giác bị xúc phạm vì sự phi nhân hoá mà ta phải chịu đựng khi sống trong những xã hội toàn cầu rộng lớn, vô danh. Sự xúc phạm khi ta bị mô tả bằng ngôn ngữ thô lỗ, bằng sáo ngữ, khuôn mẫu và định kiến. Sự xúc phạm khi ta trở thành — như Herbert Marcuse từng nói — con người một chiều.”

Văn chương cũng mang lại cho ta cảm giác rằng vẫn có cách để chống lại sự tùy tiện tàn nhẫn đã định đoạt số phận ta: ngay cả khi cuối Vụ án, Joseph K. bị chính quyền bắn “như một con chó”; ngay cả khi Antigone bị hành hình; ngay cả khi Hans Castorp cuối cùng cũng chết trong Núi thần — thì ta, kẻ đã đồng hành cùng họ qua những cuộc đấu tranh, vẫn khám phá ra sức mạnh của cá nhân trong việc giữ gìn phẩm giá làm người ngay cả trong những hoàn cảnh khắc nghiệt nhất. Đọc văn chương là hành vi khôi phục phẩm giá của chúng ta, khôi phục khuôn mặt nguyên sơ của ta, những khuôn mặt người, những khuôn mặt từng hiện hữu trước khi bị xóa nhòa giữa đám đông. Trước khi chúng ta bị trưng thu, bị quốc hữu hóa, và bị bán sỉ cho kẻ trả giá thấp nhất.

 

 


Thứ Sáu, 30 tháng 9, 2011

Sau giờ ăn trưa

thì buồn ngủ

để khỏi có buồn ngủ, có hai lựa chọn: một, không ăn trưa; hai, ngày làm việc chấm dứt sau giờ ăn trưa

không ăn trưa: giờ thì không sao, nhưng tầm hai giờ sẽ đói - bạn sẽ không thích tôi khi tôi đói, vì khi đói tôi rất xấu tính (bình thường cũng xấu, nhưng khi đói xấu hơn) - tệ hơn, lúc đó không có gì để ăn ----> chuyển sang lựa chọn thứ hai.

ngày làm việc chấm dứt sau giờ ăn trưa: tuyệt vời, nhưng ảo tưởng ->>> không phải là một lựa chọn.

tóm lại:  không có lựa chọn nào. Tắc tị. Bí.

nói tới bí, gần đây mới phát hiện ra rất nhiều người đang bí ý tưởng kinh doanh do đó cứ lên google để đi tìm "ý tưởng kinh doanh" ---->> thường xuyên rơi vào post này. Chúc các bác ấy may mắn.


-------------------------



xời ơi vớ được cái này đỡ buồn ngủ, dịch hầu các bác một đoạn



NGƯỜI PHỎNG VẤN


[…]. Điều gì khiến ông quyết định bắt đầu viết tiểu thuyết?

GROSSMAN

Tôi biết chuyện đó bắt đầu thế nào. Lúc đó tôi đang sống chung với Michal, dù chúng tôi chưa lấy  nhau, và chúng tôi có một trận cãi cọ như thường xảy ra giữa các đôi.  Cô ấy xử sự theo kiếu đàn bà hay làm hồi ấy trong những tình huống tương tự: gói ghém mọi đồ đạc cá nhân vào một cái túi xách nhỏ - chúng tôi cũng chẳng có đồ đạc gì mấy - rồi về chỗ bố mẹ cô ấy ở Haifa. Còn lại mình tôi trong căn phòng nhỏ của chúng tôi ở Jerusalem, và tôi tan nát. Tôi cảm thấy đời tôi thế là xong và chẳng còn sống để cho ai nữa.  Rồi tôi tới bên bàn và bắt đầu viết truyện “Những con lừa.”  Trước đó một khắc tôi không hề biết tôi định viết gì. Tại sao tôi lại viết ra câu chuyện này trong mọi câu chuyện trên đời, tôi không biết. Nhưng trong những phút đầu tiên ngồi viết, tôi biết tôi đã tìm được mình.

Tôi luôn luôn so sánh chuyện đó với việc khám phá ra sex. Cái khoảnh khắc trước khi bạn làm chuyện đó, bạn chỉ có một ý niệm mờ mịt về việc nó sẽ như thế nào. Nó có tính đe dọa, nó hấp dẫn, nó là tất cả. Khoảnh khắc sau đó, bạn không hiểu làm thế nào có thể sống cuộc đời mình mà không có nó. Ngay lập tức bạn trở thành con nghiện. Bạn biết rằng đây là cái mà bạn muốn làm.



-------
Nói tóm lại bị bồ đá người ta có thể trở thành nhà văn lớn.


Grossman tức là David Grossman, nhà văn Israel, tác giả cuốn To the end of the land, mà tôi rất thích tuy chưa có dịp nhắc tới. Đó là một cuốn rất đẹp, khi nào sẽ viết về nó sau

Thứ Bảy, 20 tháng 8, 2011

Chọn sách cho con (hay Alpha bàn về tình yêu)

Tôi bắt đầu lạc vào thế giới của chữ từ năm năm tuổi. Năm tuổi tôi vào lớp Một, sớm một năm, và biết đọc từ đó.  Tôi còn nhớ ngay khi biết đánh vần rành rẽ, tôi đọc một trọn một bài dài trong sách Tập đọc lớp Năm thì phải  (chắc chắn không phải sách lớp Một) về cao nguyên Bô lô ven ở Lào, đọc xong thì mắt cay xè. Kể từ đó, tôi nổi tiếng trong nhà về hai việc: một là, mỗi khi được nhắc đi tắm, đi ăn, hay làm gì đó, tôi sẽ kỳ kèo, để con đọc hết chỗ này đã; và hai, thường xuyên tra vấn ba má anh chị một từ nào đó nghĩa là gì. Một hôm  ba tôi mang về nhà cuốn Từ điển học sinh, tôi sung sướng tuyên bố có cuốn này con sẽ không phải hỏi ba má nữa. Nhưng rồi tôi mau chóng nhận ra tôi vẫn phải tiếp tục hỏi, vì chẳng có cuốn từ điển nào thay thế cha mẹ được.

Về khía cạnh này, tôi nhìn thấy hình dáng mình trong Alpha, cô con gái sắp tròn năm tuổi của mình.  Alpha không đi học sớm như tôi ngày xưa nên năm tuổi Alpha chưa biết đánh vần, nhưng mỗi khi nghe đọc truyện, Alpha thường xuyên hỏi chữ này  chữ kia nghĩa là gì. Mới tối qua, khi đọc cho Alpha và Pi nghe truyện Ông khổng lồ ích kỷ của Oscar Wilde, Alpha hỏi ngay  từ “ích kỷ”. Tôi nói ích kỷ là chỉ biết nghĩ tới mình, chỉ biết lo cho mình, không để ý tới người khác, chẳng hạn, ai có đồ chơi mà chỉ khăng khăng chơi một mình, không cho người khác chơi cùng thì đó là ích kỷ. Nghe xong, Alpha rút ra luôn kết luận, như vậy ích kỷ là xấu đúng không ba.  Còn có hôm, nghe đọc truyện Pinocchio, có câu “bác thợ mộc đẽo một chú người gỗ”, Alpha lập tức hỏi, “đẽo” là gì?.  Nghe giải thích xong, Alpha hỏi tiếp, “nhưng trong truyện kia (tức một cuốn khác cũng có truyện Pinocchio), bác thợ mộc tạo ra chú người gỗ, vậy tạo có giống như đẽo không ba?”

Trong tập sách Viết trong bóng tối, David Grossman, nhà văn  nổi tiếng người Israel, kể lại kinh nghiệm đọc của mình. Ông kể rằng, khi bé, ông đọc những cuốn sách mà không phải từ nào cũng hiểu.  Việc này tuy không giúp cho sự đọc trôi chảy, nhưng ông tin chính việc đó làm ông trở nên nhạy cảm với ngôn ngữ hơn, và trong niềm vui đọc của ông có niềm vui ẩn trong sự bí ẩn hay lạ lùng của những con chữ.  Ông còn nói thêm rằng những cuốn sách được viết đơn thuần cho thiếu nhi, dùng những từ ngữ phù hợp với trình độ các em, có thể giúp sách đến với nhiều độc giả nhí hơn; tuy nhiên, chính  những cuốn sách với ngôn ngữ “khó” hơn trình độ của các em một tẹo sẽ giúp các em qua vô thức học được nhiều từ vựng phong phú hơn.

Thoạt đầu, khi con mới làm quen với sách, tôi chọn cho con những cuốn  thật dễ hiểu.  Dần dần, tôi chọn những cuốn dài hơn, phức tạp hơn. Khi đọc truyện cho con, có lúc tôi sẽ dừng lại giải nghĩa từ khó, có lúc Alpha, và cả Pi, chủ động hỏi.  Nhưng nhiều lúc, tôi cứ đọc, không giải thích gì cả. Tôi nghĩ con không hiểu  ngay cũng không sao, quan trọng là con thích nghe đọc sách, còn về từ ngữ dần dần con sẽ tự hiểu ra. Tình cờ quan điểm của tôi cũng gần với quan điểm của David Grossman.

Để kết thúc bài này, tôi xin kể một mẩu chuyện về Alpha.

Một hôm, chẳng hiểu nghĩ ngợi gì, Alpha hỏi:  Ba ơi, tại sao ngày xưa ba lấy mẹ làm vợ?

Trong lúc ba mẹ còn đang bối rối nhìn nhau, Alpha tự trả lời luôn: Con biết rồi, vì tình yêu đúng không?

Ba mẹ cười suýt rớt xuống ghế.

Không biết Alpha đã học ở đâu từ “tình yêu”. Có lẽ, trong một truyện kể về một công chúa hay hoàng tử nào đấy mà ba mẹ đã đọc cho.

Thứ Sáu, 31 tháng 12, 2010

Về sự chân thật



Có những tiểu thuyết, những bộ phim, cho dù tác giả khăng khăng khẳng định rằng tôi kể chuyện thật mà người đọc người xem  vẫn thấy giả.  Ngược lại, có những câu chuyện ta biết chắc bịa trăm phần trăm mà ta vẫn bị chinh phục bởi sự chân thật của nó.  Ba đoạn trích dưới đây nằm trong ba tiểu luận của Umberto Eco, Orhan Pamuk, David Grossman cho ta thấy phần nào về quan điểm và lao động của các nhà văn lớn khi xây dựng một tiểu thuyết sao cho nó đạt độ khả tín cao nhất.   Đoạn của Eco là do Hoàng Ngọc Tuấn dịch, tôi lấy từ Tiền Vệ,  còn hai đoạn kia tôi trích lần lượt từ Other Colors và Writing in the Dark.  Cuốn cuối cùng này mới cầm trên tay sáng nay, do một bạn từ Anh mang về giúp.




1. 



"Đó là tại sao, khi tôi viết cuốn Danh Tính của Hoa Hồng, nếu tôi nhớ đúng, tôi đã bỏ ra nguyên một năm không viết một dòng (và tôi đã bỏ ra ít nhất hai năm như vậy cho cuốn Quả Lắc của Foucault và, cũng thế, cho cuốn Hòn Đảo của Ngày Trước). Thay vì viết, tôi đọc, làm những bản vẽ và những biểu đồ, phát minh ra một thế giới. Cái thế giới này phải chính xác tối đa, để tôi có thể di chuyển trong đó một cách hoàn toàn tự tin. Cho cuốn Danh Tính của Hoa Hồng, tôi đã vẽ hằng trăm lối đi ngoằn ngoèo phức tạp và hằng trăm sơ đồ của các tu viện, dựa trên những bản vẽ khác và trên những nơi chốn tôi đã viếng, bởi tôi cần mọi sự trôi chảy mạch lạc, tôi cần biết hai nhân vật vừa bước đi vừa nói chuyện với nhau từ chỗ này đến chỗ khác thì mất bao lâu. Và điều này cũng quyết định độ dài của những mẩu đối thoại.

Nếu trong cuốn tiểu thuyết tôi phải viết "trong khi xe lửa dừng ở ga Modena, chàng nhanh nhẹn nhảy xuống xe và mua tờ nhật báo," thì tôi không thể viết như vậy trừ khi tôi đã đến Modena để soát lại xem xe lửa có dừng ở đó đủ lâu không, và từ sân ga đến sạp báo thì bao xa (và điều này cũng phải đúng thật như thế ngay cả nếu xe lửa phải dừng ở ga Innisfree). Tất cả những điều này có thể chẳng mấy liên hệ đến việc khai triển câu chuyện (tôi tưởng tượng thế), nhưng nếu tôi đã không thực hiện như vậy, thì tôi đã không thể kể câu chuyện.

Trong cuốn Quả Lắc của Foucault, tôi nói rằng hai nhà xuất bản Manuzio và Garamond nằm trong hai toà nhà cao tầng khác nhau nhưng kề với nhau, ở giữa người ta có xây một hành lang, với một khung cửa lớn lắp kính mờ và một bậc tam cấp. Tôi đã bỏ ra một thời gian dài để vẽ một số sơ đồ và tính toán xem làm thế nào để có thể xây một hành lang giữa hai toà nhà cao tầng, và liệu hai toà nhà cao tầng này có phải nằm trên hai mảnh đất có độ cao khác nhau không. Độc giả lướt qua bậc tam cấp ấy mà không để ý gì đến nó (tôi tin thế), nhưng đối với tôi nó lại hết sức quan trọng".

(Umberto Eco, Hoàng Ngọc Tuấn dịch, nguồn tienve.org)

2.


"Với hy vọng miêu tả khoảng thời gian Ka lưu lại Frankfurt trong những năm tám mươi và đầu chin mươi mà không phải phạm quá nhiều sai sót, năm năm trước, tức năm 2000, tôi từng đến đây. Trong cử tọa hôm nay có hai người đã rất nhiệt tình giúp đỡ tôi, và chính là trong lúc họ dẫn tôi đi thăm thú vòng quanh mà chúng tôi đã ghé cái công viên nhỏ đằng sau những tòa xưởng cũ kỹ gần Getleustrasse nơi nhân vật của tôi trải qua những năm cuối đời. Để hình dung tốt hơn lộ trình Ka đi mỗi sáng từ nhà đến thư viện thành phố, nơi anh sẽ vùi cả ngày ở đó, chúng tôi đi bộ từ quảng trường phía trước trạm xe điện, dọc phố Kaiserstrasse, ngang qua những tiệm bán đồ tình dục và cửa hàng rau quả của người Thổ, tiệm hớt tóc và tiệm kebab trên phố Münchnerstrasse đến tận Quảng trường Tháp đồng hồ, băng qua trước ngôi nhà thờ mà chúng ta tụ họp hôm nay. Chúng tôi đi vào cửa hàng Kaufhof, nơi Ka mua chiếc áo khoác mà anh cảm thấy thoải mái khi mặc nó trong bao nhiêu năm. Suốt hai ngày, chúng tôi lượn quanh khu phố cũ nghèo mà người Thổ ở Frankfurt lấy làm nhà, thăm viếng các nhà thờ, tiệm ăn, hội đoàn cộng đồng và quán cà phê. Đây là tiểu thuyết thứ bảy của tôi, nhưng tôi nhớ là đã ghi chép chi tiết tỉ mỉ một cách không cần thiết giống như người mới vào nghề, cân nhắc từng chi tiết một, hỏi những câu đại loại, Liệu tàu điện có thực sự đi qua góc phố này trong những năm tám mươi không?"

(Orhan Pamuk, bài In Kars and Frankfurt, tập Other Colors)


3.

"Khi tôi dựng nên một nhân vật, tôi muốn biết, cảm nhận, và trải nghiệm được thật nhiều đặc điểm và khía cạnh tâm linh càng tốt, bao gồm cả những thứ khó gọi tên. Ví dụ, trương lực của nhân vật, cả về lý tính và cảm xúc: số đo sự năng động, độ nhạy cảm và độ co giãn của con người vật lý và con người cảm xúc của anh hay cô ta. Tốc độ suy nghĩ của cô ta, nhịp điệu khi nói của anh ta, thời gian dừng giữa các chữ khi cô ta nói. Độ thô ráp của da anh ta, độ mượt của tóc cô ta.  Tư thế yêu thích nhất của anh ta, cả khi làm tình lẫn khi ngủ.


Dĩ nhiên, không phải tất cả thứ này đều xuất hiện trong sách. Tôi tin tốt nhất chỉ phần nổi của tảng băng, chỉ một phần mười tất cả điều mà nhà văn biết về các nhân vật của mình, sẽ xuất hiện trong sách.  Nhưng nhà văn phải biết và cảm thấy cả chín phần mười kia nữa, ngay cả khi chúng chỉ chìm dưới nước. Bởi vì không có chúng, cái nổi trên mặt nước sẽ không có tính xác thực. Khi những yếu tố bổ sung này tồn tại trong ý thức nhà văn, chúng sẽ tự phát xạ đến những khía cạnh hiển thị và đóng vai trò là bục tăng âm và nền tảng ổn định cho nhân vật, và chính nhờ chúng mà nhân vật hiện hữu trọn vẹn".

(David Grossman,  trích bài The Desire to Be Gisella, tập Writing in the Dark)