Thursday 28 January 2010

Tuổi trẻ băn khoăn (III)

***

“Analysis destroys wholes. Some things, magic things, are meant to stay whole. If you look at their pieces, they go away”.

Robert James Waller

(The bridges of Madison County)

Nhiều năm trước đây, tôi cũng từng đọc Những cây cầu ở quận Madison, bản tiếng Việt. Tôi cũng từng xem phim này. Tôi biết nhiều người thích cả truyện và phim, nhưng tôi không nằm trong số nhiều người đó. Phim, tôi không nhớ gì, chắc là không ấn tượng. Truyện, tôi thấy khô không khốc, văn như văn của học trò, không rõ do người dịch hay do tác giả. Tôi không mang theo cuốn này, nên tôi không thể mở ra và đọc lại xem ấn tượng của tôi có gì thay đổi không. Biết đâu, bây giờ, khi đã già hơn một chút, tôi sẽ thấy chuyện tình già ở quận Madison kia rung động hơn, lãng mạn hơn, sâu sắc hơn. Biết đâu, có khi tôi còn thấy lòng xôn xao, còn chớp chớp mi, còn nhỏ một giọt nước mắt. Hoặc hai. Dù thế nào đi nữa, tôi cũng cảm thấy khó nghĩ khi Demian có thể tìm thấy được điều gì tâm đắc trong cuốn sách và chép lại. Mà cái câu kia, đứng một mình nó, có vẻ cũng thấm thía ra phết đấy chứ. “Phân tích làm hỏng tổng thể. Có những thứ, những thứ huyền diệu, phải được nhìn trong tổng thể. Nếu bạn cứ săm soi từng phần của nó, nó chả còn gì.”

Không nhớ trong truyện, câu này đứng ở chỗ nào, và có ví dụ nào minh họa. Thường trước hay sau một câu tổng quát thế này, thế nào cũng có ví dụ. Ví dụ có thể như thế này: Có những gương mặt, nếu nhìn từng phần ta chỉ thấy tóc hơi cháy nắng, tai hơi vểnh, mũi hơi khoằm, mắt hơi gian, răng hơi đen, nhưng cứ tích phân như thế ta sẽ làm hỏng tổng thể khuôn mặt. Nếu lùi lại một bước, hai hoặc ba bước càng tốt, và ngắm lại khuôn mặt ấy từ xa, có khi ta lại thấy khuôn mặt ấy trông… cũng được.

***

Mỗi lần tôi sắp xếp lại một kệ sách hay một hộc tủ trong nhà, việc lẽ ra chỉ cần khoảng nửa giờ thì tôi mất đứt nguyên buổi sáng hoặc có khi trọn ngày. Tôi không kiềm chế được việc ngắm nghía những đồ vật trong hộc tủ, nghĩ đến việc từng có nó như thế nào, nó làm tôi vui hay buồn, hả hê hay giận dữ, bây giờ nên giữ lại hay vứt đi, hay xếp vào một chỗ nào khác.

Làm phiền tôi hơn cả là những tấm thiệp. Tôi đọc lại những lời chúc trên đó – bản thân việc này mất kha khá thời gian – và sau khi đọc xong thì lâm vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan: tôi không nỡ vứt chúng đi, mà giữ lại – làm sao có thế giữ lại được tất cả những tấm thiệp đã nhận được trong đời. Tương tự, là những bức thư tay. Tôi từng có khá nhiều thư tay, chủ yếu là thư của bạn bè cả thân lẫn chưa biết mặt - tất nhiên đấy là thư từ cái thời chưa có email và internet, và điện thoại chưa phổ biến như bây giờ. Thư tình cũng có vài cái; nhưng thư tình thì tôi không đọc lại, nhất là những thể loại thư sướt mướt.

Mất thời gian hơn cả là việc xếp sách. Khi sắp sách lên kệ lần đầu, tôi thường cố ghép chúng vào một trật tự nào đó: văn học Việt Nan, văn học nước ngoài, trinh thám, ngôn ngữ, lịch sử, kinh tế, chính trị, luật v.v. Nhưng sau một thời gian, cái trật tự kia bị phá vỡ, nên thỉnh thoảng tôi phải xếp lại. Phải đưa tất cả các Hemingway lại gần nhau và đảm bảo đứng gần ông là Steinbeck, đưa Dos lại gần Lev Tolstoi và Ivan Bunin, đẩy Tạ Duy Anh ra phía Nguyễn Huy Thiệp, và sách nấu ăn thì không thể chung hàng với sách kinh tế, đại để như thế. Nhưng nếu chỉ xếp thôi, thì cũng không mất quá nhiều thời gian. Lẽ nào cầm sách lên mà không lật vài trang, và nhỡ gặp chuyện gì thú vị, thì làm sao có thể dừng lại sau vài trang.

Riêng đám sách của Demian là một ngoại lệ: chúng chỉ tạm trú trên kệ sách nhà tôi, nên tôi cho phép chúng đứng gần nhau, lộn xộn trong phạm vi cho phép. Kể ra, đám sách ấy cũng làm xấu kệ sách tôi một chút: phần lớn trong đó là sách cũ, giấy đen, có cuốn long cả bìa.

Demian, cái cuốn sổ của cậu ta, tôi vẫn đang chép lại đây, nhưng tôi quyết định không chép từ đầu đến cuối nữa. Bất kỳ lúc nào tôi rảnh, tôi sẽ mở một trang bất chợt. Tôi đang thử xem mình sẽ mở trúng trang nào.

Cũng nói thêm, khi viết những dòng này, tôi không còn ở nới cái resort biển ấy nữa. Tôi chỉ ở đấy có hai ngày, mà từ hôm đấy đến nay đã hơn hai tuần còn gì. Đúng như dự đoán, chuyến đi đó, tôi không thể nào nhúng chân được xuống biển. Ôi biển, hẹn sẽ quay trở lại để tắm táp phơi nắng thỏa thuê, chứ không phải để chui vào những phòng họp lạnh ngắt đầy mùi nấm mốc.

***

“Cậu bé bẽn lẽn, nhút nhát như con gái, nghịch ngầm và ưa sạch sẽ ngày xưa đã biến thành một người lầm lì, khinh đời, biết đủ thứ trên đời và dễ nổi quạu. Một người rất thông minh, can đảm, trầm lặng và ưa giễu cợt”.

(Bác sĩ Zhivago)

Bác sĩ Zhivago (tiếng Nga: Доктор Живаго, từ Живаго có nghĩa đen là "cuộc sống") là tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn NgaXô viết Boris Leonidovich Pasternak (18901960).

Nhân vật chính của truyện là Yuri Zhivago, một bác sĩ y học và nhà thơ. Truyện kể cuộc đời của bác sĩ Zhivago qua những éo le tình ái của ông cùng hai phụ nữ trong bối cảnh chung quanh cuộc cách mạng Nganăm 1917.

Truyện này được dựng thành phim năm 1965, do David Lean đạo diễn, tài tử chính là Omar Sharif Julie Christie.

Bối cảnh truyện Bác sĩ Zhivago nằm vào khoảng 1910 - 1920, nhưng Pasternak hoàn tất vào khoảng 1956. Vì ông có vấn đề với chính phủ Xô viết lúc bấy giờ nên truyện này không được xuất bản. Năm 1957 bản thảo của truyện được tuồn ra ngoài Liên Xô và in ra sách tiếng Nga tại Ý (nhà xuất bàn Feltrinelli). Năm sau có ấn bản tiếng Ý tiếng Anh. Pasternak nhờ đó mà được đề nghị nhận giải Nobel văn chương năm1958, nhưng chính quyền Xô viết bấy giờ ép ông phải từ chối nhận giải thưởng này. Mãi đến 1988, sách truyện Bác sĩ Zhivago mới được cho in và xuất bản tại Nga.

Khởi đầu truyện là phần giới thiệu Yuri Andreievich Zhivago lúc 10 tuổi đi đám tang của mẹ. Sau đó Yuri học y khoa, bắt đầu làm thơ, rồi cưới vợ tên là Tonya. Truyện sau đó giới thiệu Larisa Fyodorovna (Lara) ởtuổi dậy thì, sống với bà mẹ góa phụ khi bà này làm công cho chủ hãng may tên Komarovsky. Komarovsky dụ dỗ và hiếp dâm Lara. Trong cơn tủi nhục cuồng nộ, nàng lấy súng bắn Komarovsky tại một buổi tiệcgiáng sinh nhưng không may lại bắn trúng một người khác. Nàng sau đó kết hôn người tình đầu của mình là Pavel Pavlovich (Pasha).

Kế đến truyện dẫn vào thời kỳ chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Yuri tòng quân với tư cách bác sĩ quân y. Pasha rời vợ và con gái (Tanya) theo quân đội và bị mất tích. Lara tình nguyện làm y tá với hy vọng tìm kiếm tông tích chồng. Khi Yuri vào thăm vợ khi nàng sanh đứa con trai đầu lòng thì gặp cô y tá Lara. Hai người có ý thầm yêu nhau nhưng không dám tỏ lời. Vào lúc này phong trào cách mạng bắt đầu nổi dậy tại Petersburg.

Chiến tranh bùng nổ khắp nơi, Yuri và Lara được bổ nhiệm công tác chung tại một nhà thương ở tỉnh nhỏ xa xôi. Yuri bị thôi thúc bởi những cảm tình cho Lara. Chàng tâm sự với Tonya và Tonya nghi ngờ rằng Yuri cùng Lara đã ngoại tình. Mùa đông đến, đời sống trở nên chật vật vì thiếu thức ăn và dịch lỵ lan tràn. Sau cuộc chiến, Yuri trở về chức vị bác sĩ cũ tại nhà thương ở Moskva. Vì cá tính lãng mạng chàng thường bị các đồng nghiệp bolshevik bài bác là thiếu logic và tinh thần cách mạng. Giữa các cuộc xung đột chống chủ nghĩa Marx nổ ra, Yuri cùng gia đình dời về Urals. Trên xe lửa của chuyến đi này, Yuri nhận thức được nỗi khổ của nông dân và tù binh, những nạn nhân của cuộc chiến cách mạng. Chàng yêu chuộng tự do và bình quyền, nhưng bất mãn với những hành động hay ý kiến quá cứng rắn và thiếu tình người của những người theo cách mạng.

Tại Urals, Yuri cùng gia đình khai đất làm ruộng. Chàng trở lại sở nguyện làm thơ. Tại thư viện làng, chàng gặp lại Lara. Hai người ngoại tình và cùng sống cuộc đời vụng trộm yêu đương tột đỉnh. Lara lúc bấy giờ biết Pasha còn sống và hiện là một tay trùm Đỏ khét tiếng với tên mới Strelnikov. Yuri muốn trở vế với vợ để thú tội ngoại tình nhưng không may bị một nhóm quân cách mạng bắt cóc và phải phục vụ như bác sĩ của nhóm này. Sau vài năm, Yuri trốn thoát và trở lại với Lara. Để tránh không bị điềm chỉ, cặp tình nhân bỏ trốn sang một nông trại khi xưa gia đình Yuri từng canh tác. Yuri tiếp tục làm thơ - bày tỏ tâm sự của chàng về những thăng trầm của đời sống, những lo sợ và lòng can đảm trong chiến tranh và hơn hết là tình yêu dành cho Lara. Trong khi đó có tin vợ Yuri là Tonya và con gái chàng bị bắt đuổi ra khỏi Nga. Chẳng bao lâu sau đó, Komarovsky, kẻ đã từng hãm hiếp Lara khi xưa, xuất hiện. Hắn hăm dọa rằng quân cách mạng đang truy lùng Yuri và Lara và sẽ giết cả hai nếu bắt dược. Hắn hứa giúp đưa Yuri và Lara trốn ra nước ngoài. Yuri đắn đo một hồi lâu và kết cuộc vì vấn đề an toàn cho Lara, chàng quyết định để Lara ra đi một mình. Yuri ở lại Nga và bắt đầu say sưa uống rượu giải sầu.

Strelnikov, chồng của Lara lúc bấy giờ đang chạy trốn vì bị chính phủ cách mạng truy lùng. Y tìm ra Yuri và sau khi biết chuyện Lara ngoại tình, bèn tự sát.

Yuri trở lại Moskva và sinh sống cùng một phụ nữ tên Marina và kiếm sống bằng cách viết sách. Em của chàng tìm cho chàng một chức vụ bác sĩ nhưng trên đường đi làm, chàng bị đứng tim mà chết. Lara, từ Irkutsk lên Moskva và tình cờ đi tới nhà liệm thấy xác Yuri còn nằm đó. Sau đó vài ngày, nàng mất tích, có người cho rằng nàng bị bắt đi trại tập trung cải tạo.

Đoạn trong ngoặc kép phía trên là đoạn tôi chép lại từ sổ tay của Demian, người đã chép đoạn đó tất nhiên từ cuốn Bác sĩ Zhivago; còn đoạn chữ màu xanh tôi chép từ Wiki. Nếu bạn đã đọc Bác sĩ Zhivago rồi, bạn có thế bỏ qua đoạn đó, còn nếu chưa, hoặc đọc rồi nhưng đã quên sạch như tôi, thì đoạn tư liệu từ Wiki có thể giúp bạn hình dung hoặc nhớ lại đôi nét về cuốn sách.

Cuốn này, tôi đọc trên một chuyến tàu Bắc Nam cách đây mười năm. Đi tàu là thời gian thích hợp để đọc những cuốn nhiều chữ như cuốn này. Thú thật, tôi đã quên hoàn toàn nội dung cuốn sách, đó là lý do tôi phải nhờ đến Wiki. Điều tôi chắc chắn là, với một câu chuyện như thế, nếu muốn chép lại đôi đoạn trong cuốn sách, hẳn phải có nhiều đoạn hay để chép, mà cái câu trên kia chẳng có vẻ gì hay lắm. Nó không có dáng vẻ triết lý như nhiều đoạn khác mà Demian chép trong sổ, cũng không phải là những đoạn văn bay bổng hoặc đau thắt, chi tiết hay hài hước, thông thái hay gợi dục, gợi mở hay dâng trào. Bằng cái trí nhớ suy tàn của tôi, tôi không nhớ cậu bé được nhắc đến trong đoạn văn kia là cậu bé nào, tôi chỉ đoán, và khá tin vào cái sự đoán của mình, cậu bé ấy chính là Demian, hay nói cách khác, Demian thấy mình được miêu tả bằng câu văn ấy. Đấy, những ghi chép trong một cuốn số tay mà chép nhiều hơn ghi cũng có thể cho ta biết về tính cách của một con người. Tôi biết Demian hiện giờ cũng gần giống những gì được tả trong đoạn văn kia: thông minh, trầm lặng, và ưa giễu cợt. Can đảm thì không chắc lắm, vì tôi biết cậu ta sợ ngỗng. Tôi đang hình dung ra một câu bé Demian lúc chín mười tuổi: bẽn lẽn, nhút nhát như con gái, sạch sẽ và nghịch ngầm. Lúc đó chắc mặt Demian chưa nhiều tàn nhang như bây giờ.

Wednesday 27 January 2010

Vật đồng bộ

Vật đồng bộ là cái giống gì? Nói chung, nếu không học luật, thì chẳng ai quan tâm đến vật đồng bộ là cái giống gì. Còn với những ai học luật, thì ắt hẳn biết vật đồng bộ là một loại… vật. Vật, đến phiên nó, là một loại tài sản. Tài sản và quyền sở hữu tài sản là một chế định quan trọng của luật dân sự. Và, luật dân sự là một trong rất nhiều ngành luật. Đại khái thế, để biết rằng có rất nhiều luật, trong mỗi luật có rất nhiều chữ, và trong một trong những đạo luật lắm chữ kia có chỗ nói về vật đồng bộ.

Để tiện xác định các quyền liên quan đến vật, người ta đưa ra những khái niệm về vật chính và vật phụ (chẳng hạn tivi và và điều khiển từ xa); vật chia được và vật không chia được (chẳng hạn bánh pizza và đồng hồ đeo tay); vật tiêu hao và vật không tiêu hao (chẳng hạn bao cao su và kim tiêm); vật cùng loại và vật đặc định ( ví dụ Mac Book Pro mới cáu và Mac Book Pro đã qua sử dụng); vật đồng bộ (ví dụ đôi giày).

Bộ luật Dân sự Việt Nam định nghĩa vật đồng bộ như sau:

“Vật đồng bộ là vật gồm các phần hoặc các bộ phận ăn khớp, liên hệ với nhau hợp thành chỉnh thể mà nếu thiếu một trong các phần, các bộ phận hoặc có phần hoặc bộ phận không đúng quy cách, chủng loại thì không sử dụng được hoặc giá trị sử dụng của vật đó bị giảm sút”.

Người ta hay phàn nàn luật ở Việt Nam “không đi vào cuộc sống”, cần phải cải thiện vấn đề tuyên truyền và thực thi luật pháp vân vân và vân vân. Người ta không nhận ra rằng đôi khi luật ở Việt Nam không cần phải tuyên truyền giáo dục gì nhiều mà vẫn thẩm thấu vào cuộc sống và sống dai như đỉa ở trong đó mà những người áp dụng và thực thi luật còn không nhận ra là mình áp dụng và thực thi nó nữa. Khi đó, kể cả một quy định mang tính tống quát và tương đối trừu tượng của luật, ngạc nhiên chưa, lại có thể vận hành trơn tru mà không cần phải có văn bản hướng dẫn nào.

Ví dụ như thế này: Khi anh tài xế bị cảnh sát thổi toét một phát, anh phải dừng lại và cho cảnh sát xem “giấy tờ xe”. “Giấy tờ xe” trong trường hợp này là “vật đồng bộ”, vì ngoài những thứ như bằng lái, giấy chứng nhận mua bảo hiểm, sổ kiểm định nó còn bao gồm một vài tờ xanh đỏ. Tất nhiên, không ai bảo cho anh tài xế rằng “giấy tờ xe” là “vật đồng bộ”, nhưng anh thừa thông minh và kinh nghiệm để hiểu nếu thiếu một phần trong “giấy tờ xe”, thì “giấy tờ xe” có nguy cơ “không sử dụng được” hoặc “giá trị sử dụng” của “giấy tờ xe” “bị giảm sút” nghiêm trọng, nói chung là sẽ rất rắc rối.

Đây chỉ là một ví dụ thường gặp và dễ thấy. Còn nhiều trường hợp khác tuy cũng thường gặp nhưng không dễ thấy, và số lượng tờ xanh đỏ không chỉ là một vài. Điểm chung duy nhất trong các trường hợp đó là những tờ xanh đỏ, có khi xanh nhiều hơn đỏ, đã xâm nhập vào vật chủ và trở thành “vật đồng bộ”.

Monday 25 January 2010

Một câu hỏi nhỏ có lời đáp

Khi nói, không có câu hỏi nào là câu hỏi ngớ ngẩn, là khi người ta muốn khuyến khích người ta đặt câu hỏi. Tại sao phải khuyến khích đặt câu hỏi? Tới đây, thì chúng ta đã có một câu hỏi rồi. Có một câu hỏi, thì phải nghĩ cách tìm ra câu trả lời. Tất nhiên, sẽ không có câu trả lời nào nếu như không có câu hỏi được đặt ra. Và tất nhiên, nếu không đặt câu hỏi, thì không phải nhọc công ngồi nghĩ câu trả lời. Thế thì, tại sao phải khuyến khích đặt câu hỏi? Và tại sao các vị La Hán chùa Tây Phương phải chau mặt?

***

Tôi vừa đọc xong lời giới thiệu, lời cảm ơn và một số bài phỏng vấn của Nguyễn Đức Tùng trong Thơ đến từ đâu? Cả tập sách chỉ nhằm trả lời một câu hỏi, nhưng không có nghĩa đọc xong tập xong tập sách sẽ có lời giải đáp. Dù gì, thì người hỏi đã nỗ lực hỏi và người trả lời đã nỗ lực trả lời. Trong phần cảm ơn, Nguyễn Đức Tùng có cảm ơn các cô hàng cà phê Hà Nội Sài Gòn New York Vancouver vì đã không tính tiền chỗ ngồi khi tác giả làm việc tại quán cà phê. Tôi cũng hay làm việc tại quán cà phê, cái môi trường đầy tiếng ồn đấy hóa ra lại là chỗ làm việc tốt, vì những tiếng ồn không định hướng có thể giúp người ta tập trung hơn.

***

Tuy nhiên, làm việc tại quán café và đọc một cuốn sách khi có một người nheo nhéo bên tai là hai chuyện khác nhau. Tiếng ồn do một người nheo nhéo bên tai gây ra thuộc loại tiếng ồn có định hướng, nhất là khi người đấy gọi đích danh người đang đọc sách với những câu hỏi hết sức cụ thể và không chịu buông tha người đọc sách cho đến khi có câu trả lời. Ví dụ một số câu hỏi như thế này: Ba ơi, mặt trăng có mắt không? (Chắc là không.) Ba ơi, tại sao hoàng từ cưỡi ngựa? (Vì hoàng tử không có xe máy). Ba ơi, tại sao Bạch Tuyết nằm trên giường của bảy chú lùn? Sao Bạch Tuyết không nằm trên giường của Bạch Tuyết? (Vì sẽ có lúc người ta buộc phải nằm giường của người khác). Vì lẽ đó, người đọc sách đọc những cuốn dễ hiểu hơn, chẳng hạn Thơ đến từ đâu, khi có người léo nhéo bên cạnh, và đợi đến lúc người léo nhéo đi ngủ để đọc những cuốn cần tập trung hơn, chẳng hạn Catch 22 – một cuốn đầy những trò lòng vòng và những sour jokes.

***

Người léo nhéo kia tất nhiên là bạn Alpha, ba tuổi rưỡi và đầu óc đang tràn ngập những câu hỏi liên tu bất tận. Mà, hình như, ai lúc ba bốn tuổi cũng có khả năng đặt câu hỏi liên tu bất tận. Khả năng này bị mai một khi người ta lớn lên, không hẳn vì người ta đã biết quá nhiều, mà có khi vì người ta ngần ngại rằng câu hỏi của mình ngớ ngẩn. Tất nhiên, không ai muốn một chàng sinh viên hai mươi hai mấy tuổi hỏi những câu hỏi như một đứa bé ba tuổi; nhưng tất nhiên, các giáo sư hẳn cũng rất buồn nếu như giảng bài xong mà không thấy sinh viên hỏi gì.

***

Cũng có những chỗ những nơi, câu hỏi không được khuyến khích, và người được đặt câu hỏi không thích được hỏi một chút nào, nhưng đấy là một đề tài hoàn toàn khác. Liệu có nên đặt câu hỏi tại sao người ta không thích được hỏi không?

***

Có những câu hỏi không lời đáp chẳng hạn như câu hỏi đã khiến các vị La Hán chùa Tây phương chau mặt đến tận bây giờ. Có những câu hỏi câu trả lời đến thật nhanh và tình cờ: Cách đây ít lâu, tôi từng băn khoăn tự hỏi ở Trung Quốc người ta có sản xuất hoa trái giả không. “Hoa trái” là từ trong ngoặc kép. Câu hỏi này ắt không phải câu hỏi lớn nên không cần chau mặt lâu lắm, chỉ cần lên mạng đọc tin một tí là có câu trả lời. “Hoa trái” giả không những có, mà còn rất nhiều, và hoàn toàn có lý do để tin rằng thể loại hoa trái giả này đã có mặt ở Việt Nam. Vì thế, thận trọng với “hoa trái” Trung Quốc và hoa trái Trung Quốc không bao giờ thừa, nếu biết rằng có những trái cam hay táo xuất xứ Trung Quốc sau ba tháng trưng bày vẫn tươi nguyên như vừa mới hái.

Thursday 21 January 2010

Catch 22

Mấy ngày qua, một trong những tin hàng đầu của thể thao nước nhà là chuyện VFF (Liên đoàn bóng đá Vẫn Như Cũ) gia hạn hợp đồng với ông Calisto, à quên, ông Calisto gia hạn hợp đồng với VFF. Bên nào gia hạn hợp đồng với bên nào, thì đằng nào VFF cũng là ngưởi trả lương và ông Calisto là người làm việc; cái khác chỉ là cách đây mấy năm khi hợp đồng được ký lần đầu thì VFF cành cao còn ông Calisto mong đợi ngậm ngùi, lần này, cái thế ngược lại. Sau chiến tích lần đầu đưa Việt Nam vô địch giải bóng đá Vùng Trũng và sau đó một năm đưa đội U23 mém vô địch Ao Làng, sự vụ giờ đã khác. Với bao nhiêu đại gia từ Nam chí Bắc theo đuổi, cộng với sự ủng hộ rầm rộ của dư luận, cành cao bây giờ là ông Calisto – ngôi sao thế kỷ 21, lương tâm của thời đại, một niềm hy vọng của Bắc Kỳ, còn VFF thì phải chờ tan trường, tan trường mà nôn nao nhìn áo trắng.

Sáng nay tin đã đưa rằng hợp đồng với ông Calisto đã đàm phán xong, chỉ còn chờ ký. Hợp đồng nghe nói 28 trang, hy vọng VFF có thuê luật sư, hy vọng thế. Tôi dĩ nhiên không được xem hợp đồng, nhưng đọc tin trên Tuổi Trẻ, tôi chú ý đoạn này:

“Tuy nhiên, vấn đề được dư luận hết sức quan tâm là việc HLV Calisto có đề cập và mong muốn được làm việc song song ở đội tuyển và một CLB khác đã không được hai bên nhắc đến trong cuộc thương thảo. Tuy nhiên, theo ông Lê Hùng Dũng, quan điểm của VFF là ông Calisto chỉ được làm việc duy nhất cho VFF chứ tuyệt đối không được làm việc cho CLB nào khác trong thời gian là HLV trưởng đội tuyển VN.

Ông Lê Hùng Dũng khẳng định: “Việc ông Calisto sẽ làm việc cho một CLB khác song song với làm việc cho VFF là không có trong thương thảo và trong ký kết hợp đồng. Trong đàm phán, nếu hai bên không đề cập vấn đề này cũng có nghĩa điều khoản đã bị loại trừ khỏi hợp đồng”. Hình ảnh của ông Calisto cũng sẽ được VFF sở hữu khi ông là HLV trưởng đội tuyển VN”.

Rất nhắng! Rất Lê Thị Liên Hoan, rất Azit Nexin, rất Jim Carrey, rất NMT!

Giả sử hợp đồng ký xong, vài ba tháng sau người ta thấy ông Calisto huấn luyện luôn cả Lạp Xưởng Ninh Bình, Chả Giò Cầu Tre hay Nem Khánh Hòa, thì VFF sẽ chẳng làm được gì ông Calisto cả, nếu ông vẫn làm tốt công việc ở đội tuyển quốc gia. Bởi vì, đã không nhắc đến trong đàm phán và không thỏa thuận trong hợp đồng, thì không có gì ràng buộc ông Calisto không kiếm thêm job được. "Quan điểm" của VFF không phải là văn bản có giá trị pháp lý, và "quan điểm" của VFF rất có thể khác với "quan điểm" của Calisto, và càng khác "quan điểm" của GM! Và bởi vì, Bộ Luật Lao Động Việt Nam quy định rằng: “Người lao động có thể giao kết một hoặc nhiều hợp đồng lao động, với một hoặc nhiều người sử dụng lao động, nhưng phải bảo đảm thực hiện đầy đủ các hợp đồng đã giao kết”. Thế cho nên, nếu hợp đồng giữa VFF và Calisto đúng như báo TT tường thuật, thì sắp tới có khi VFF lại được phen ngậm ngùi.

Còn tôi, hôm nay sau khi chộp lấy cuốn Xứ sở diệu kỳ tàn bạo của Murakami trong Xuân Thu và hớn hở đi ra tính tiền thì phát hiện ra mình chỉ còn 95.000 đồng. Cuốn này giá bìa 100.000 đồng, thế là ngậm ngùi gác lại. Âu thế cũng tốt, vác Murakami về nhà thế nào cũng phải đọc ngay, mà lại đang quyết tâm chiến đấu cho xong Catch 22. Catch 22 là một cuốn rất Catch 22. Đã ai đọc Catch 22 chưa?

Wednesday 20 January 2010

Trời mưa, và Erich Segal đã chết

Đã sang đầu tháng 12 âm lịch mà Sài Gòn bỗng dưng mưa mưa gió gió. Đường bẩn nhòe nhoẹt, xe cộ nhòe nhoẹt, mặt người nhòe nhoẹt, tất cả trông rất thiểu não. Cứ như là Hà Nội một ngày mưa phùn. Cứ như Đơn Dương những ngày mưa dầm. Sáng, đưa Alpha đi học, hai bố con ôm nhau co ro dưới chiếc ô to. Con gái càng lớn càng xinh và càng tình cảm. Mới hôm qua Alpha tuyên bố lớn lên con không đi làm đâu. Hỏi tại sao, cô nàng bảo vì nếu con đi làm thì con không được gặp ba mẹ. Ôi chao, con gái. Bây giờ ba bốn tuổi con nói thế, chứ có khi mười bốn mười lăm tuổi thì khóa trái cửa không cho ba mẹ vào phòng; con hai mươi tuổi thì chắc nhà chỉ có hai ông bà già uống trà trệu trạo nhìn nhau thôi.

Có những bộ phim hay cuốn truyện tuy không thật ấn tượng nhưng cứ vào những hoàn cảnh nhất định thì lại nhớ đến. Trời xám xịt thế này thì nhớ một bộ phim ra mắt năm 2002 tên là Igby goes down. Igby là tên một cậu thiếu niên ở New York, do một chú nhà Culkin đóng, bỏ nhà đi lang thang rồi hình như yêu một cô gái điếm thì phải. Không nhớ rõ lắm, nhưng nhớ rõ cái cảnh ngoài trời mưa tầm tã, Igby ngồi trên chiếc xe bus để đi đến Florida tìm nắng ấm. Ờ, mà cũng có thế chi tiết này trong Bắt trẻ đồng xanh. Igby là một dạng Holden Caulfield, và phim này lấy cảm hứng từ Bắt trẻ đồng xanh mà. Trong phim có những đối thoại buồn cười, chẳng hạn một nhân vật nói với Igby: “I think if Gandhi had to spend a prolonged amount of time with you, he'd end up beating the shit out of you, too”. Tao nghĩ nếu Gandhi phải ở với mày lâu thì thế nào ổng cũng đập cho mày phọt cứt ra. Gandhi dĩ nhiên nổi tiếng về phương pháp đấu tranh bất bạo động. Còn Igby thì băn khoăn thế này: “If heaven is such a wonderful place then how come being crucified is such a big fucking sacrifice?” Nếu thiên đường là một chỗ tuyệt vời đến vậy thì bị đóng đinh trên thập tự giá sao lại là hy sinh to vãi tè? Nói chung phim chỉ xoàng xoàng nhưng xem cũng vui vui.

Hôm nay, trời mưa, và nghe tin Erich Segal, tác giả Love Story, chết, ở tuổi 72. Người chết đi còn lại gì? Với Erich Segal, chắc chắn còn lại câu này, câu nói gần như đã trở thành tuyên ngôn của những người đã yêu, từng yêu, đang yêu, và sắp yêu, nghĩa là của tất cả mọi người, trừ những người không biết yêu: Yêu là không bao giờ phải nói hối tiếc. Vì thế, hãy yêu nhau đi.

Thế thôi, cho một ngày mưa.

Sunday 17 January 2010

Một số phát hiện


  • Một số đôi giày đã bong keo, cần tìm gấp thợ sửa.
  • Thợ sửa giày có ngay trong nhà: Pi (2 năm 4 tháng tuổi đời, mới vào nghề). Khi bị phát hiện mở toang tủ giày và lôi một số đôi ra ngoài, Pi dõng dạc: “Pi sửa giày mà”. Rất không hài lòng khi bị tống cổ đi chỗ khác.
  • Hoàng hậu trong truyện Bạch Tuyết và bảy chú lùn sơn móng tay đỏ. Dĩ nhiên đây là phát hiện của bạn Alpha, 3 tuổi rưỡi, người rất quan tâm đến các thể loại bông tai, nhẫn, vòng vèo cũng như hình thức của công chúa, hoàng hậu và cô giáo.
  • Một phát hiện khác của Alpha: Bạch Tuyết nằm ngủ trên giường của Bach Tuyết, nhưng giường của Bạch Tuyết lại ở trong nhà của bảy chú lùn. Điều này có vẻ không logic, vì giường của Alpha thì ở trong nhà của Alpha.
  • L’ Amante Inachevee là Người tình dang dở. Cầm cuốn này lên thì hiểu tại sao có bạn lấy một cái nick dài ngoằng.
  • Những linh hồn xám của Philippe Claudel hình như là một cuốn hay. Người dịch của cuốn này cũng là người dịch Lời hứa lúc bình minh.
  • Có người bảo cần phải cho Paul Auster vào danh sách những tác giả viết chán nhất và không hiểu Moon Palace gây rung động về điều gì.
  • Chủ nghĩa hậu hiện đại có thể tồn tại trong bóng đá, và Arsene Wenger là người tiên phong.
  • Crevice là một từ rất hình tượng.
  • Thứ hai là ngày đầu tuần.

Thursday 14 January 2010

Vì sao em ngáp/ Bỗng dưng muốn ngáp/ Sẽ không ai ngáp

Chỉ định bàn về vấn đề ngáp thôi mà đã nghĩ ra đến những ba cái tựa nhan đề. Tất nhiên ba cái nhan đề trên nhại theo lần lượt Vì sao em chết (bài hát), Bỗng dưng muốn khóc (phim truyền hình - Vũ Ngọc [du] Đãng) và Sẽ không ai cười (truyện ngắn của Kundera). Vấn đề là nếu chỉ chọn một trong ba thì viết kiểu nào cũng sẽ uốn éo một hồi cho vừa khít vào cái tiêu đề đó; như thế, chẳng phải là tự hạn chế mình lắm ru, hu hu? Sao không để cả ba cho nó open ending.

Vấn đề kế tiếp là một ngày tháng giêng vẫn còn đẹp trời như thế này, cà phê vừa uống xong, mà khi cà phê vừa uống xong thì cái nguồn sáng tạo đang được khơi thông thoáng, cảm hứng đang sồng sộc chạy từ tim lên đầu, can cớ gì phải bàn về vấn đề ngáp?

Thật ra, đây không phải là lần đầu, tôi viết về chuyện ngáp. Lần đầu, là khi tôi viết entry Hoàng tử bé và vấn đề ngáp.

[Ba phút cho các bạn đọc entry đó nếu như bạn chưa đọc. Rất nên đọc trước khi đọc tiếp phần kế.]

Internet thật là tiện lợi, vì bài này đưa lên mạng, nên khi cần đề cập đến bài nào có sẵn, tôi chỉ cần biến chữ thành link là bạn có thể đọc được mà không cần phải chép lại cả bài. Internet cũng tiện đến nỗi, nếu bạn là một nhà báo, và bạn cần viết về một vấn đề gì đó, chỉ có thể ngồi google một tí là tìm được bao nhiêu tư liệu. Dĩ nhiên, nếu bạn chỉ sử dụng internet tìm kiếm tư liệu thì bạn đang biến Internet thành một công cụ hỗ trợ đắc lực cho mình, và nhân dân tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên thế giới luôn đứng về phe bạn – những người luôn đi tiên phong trong việc sử dụng công nghệ. Sẽ không ai ngáp cười bạn cả.

Tuy nhiên, nếu bạn dùng internet, bạn tìm kiếm tư liệu, và sau đó chôm chỉa ý tưởng và văn của người khác cho vào bài của mình để đăng báo kiếm tiền thì là chuyện khác. Chẳng hạn như bạn này. Chẳng những bạn copy, bạn còn cẩu thả (hay dốt) đến nỗi không phân biệt được đâu là những gì tác giả Hoàng tử bé viết và đâu là bình luận/sáng tạo [trên blog] của người khác. Làm gì có chuyện Saint Exupery viết rằng “nhà vua ra lệnh cho thần dân của mình ngáp một ngày ba lần”. Bỗng dưng muốn khóc ngáp quá bạn ơi.

Và đến đoạn này: (...Tuy nhiên, ở thời điểm của chúng ta, thiếu sót của nhà vua thật khó tha thứ. Vì trước khi ra mệnh lệnh, ông ta cần phải lấy ý kiến của những người dân (dù cả hành tinh này chỉ có một con chuột già sống chui rúc ở một xó nào đó), để tránh tình trạng phải sửa đổi mệnh lệnh. Ông cũng cần ra văn bản hướng dẫn rõ ràng để những người dân được biết cách thức tuân theo mệnh lệnh (là phải ngáp một ngày ba lần, và cụ thể cách thức ngáp như thế nào). Nhà vua cũng nên xem xét tới tác động của việc ngáp hay không ngáp tới toàn thể người dân và hành tinh, đồng thời cũng nên đưa ra cơ chế giám sát và xử phạt tới những ai không ngáp một ngày đủ ba lần... )” thì bạn copy thô thiển và trắng trợn quá bạn Thùy Anh ơi.

Đến đây, thì bạn đã biết vừa uống cà phê xong mà vì sao em chết tôi ngáp rồi.

Wednesday 13 January 2010

Tuổi trẻ băn khoăn (II)

***

Tôi ra biển, hành trang ngoài mấy bộ quần áo, laptop, cuốn The Brooklyn Follies của Paul Auster, là cuốn sổ tay của Demian. Kể từ đây, để cho tiện, hãy gọi người bạn trẻ - chủ nhân cuốn sổ mà tôi đang mô tả bằng cái tên này.

Biển mùa này đầy gió, nước có lẽ lạnh nên ít người tắm. Tôi, một người luôn mê biển, chưa thể nhúng chân xuống nước, và không chắc có thể làm điều đó, không phải vì sợ lạnh mà vì chuyến đi này hoàn toàn không phải là kỳ nghỉ. Thay vì họp trong văn phòng, cả công ty lại kéo nhau ra một resort biển. Thời gian biểu sẽ là ăn, họp, đi toa-nét, ăn, họp, đi toa-nét, họp, ăn. Những khoảng nghỉ giữa ba công việc đó, tôi lại giở cuốn sổ của Demian.

Demian không nói lý rõ lý do tại sao cậu ta không muốn mang theo cuốn sổ: nó mỏng, và không như cuốn album đầy những tấm hình mà cậu ta muốn quên mà không muốn hủy, nó không chứa đựng những điều buồn bã.

Cuốn sổ là một trong ba thứ Demian nhờ tôi giữ giùm trước khi lên đường. Hai thứ còn lại là cuốn album mà tôi vừa nói, và vài chục cuốn sách từ triết học Tây phương, Hán học danh ngôn, sách về cuộc đời đức Phật cho đến tiểu thuyết của Remarque và Nguyễn Việt Hà. Demian bảo mấy chục cuốn sách đó tuy không phải quá nhiều nhưng nếu cân cũng hơn chục kí lô, cậu không muốn trả tiền quá cân, mà cũng không muốn cho hay tặng ai, suy đi nghĩ lại chỉ có tôi là người thích hợp nhất để giữ sách cho cậu ta trong ít năm mà không bị thất thoát hoặc mối gặm. Sách thì nặng, hình thì muốn quên, còn cuốn sổ thì chẳng rõ tại sao cậu ta cứ gán cho tôi. Tôi nhận – đã có chỗ để chất mấy chục cuốn sách thì cuốn sổ trăm trang không có gì đáng kể - nhưng dọa sẽ tung hê những bí mật trong đó. Cậu ta bảo những điều ghê gớm nhất, đáng xấu hổ nhất thì đằng nào cũng không có trong cuốn sổ. “Chỉ ghi chép những điều vớ vẩn, vô hại” – đó là nguyên văn lời Demian.

Tôi cũng nói luôn, ở phần trên, tôi vờ như mình là người lạ tình cờ đọc cuốn sổ, và vờ suy diễn này nọ. Thật ra, Demian khá thân với tôi, nên những bình luận phía trên (và cả ở phía dưới) không hoàn toàn là phỏng đoán. Ít ra trong đó có một nửa sự thật.

***

To become better is my ultimate goal. Đây là câu đầu tiên trên trang thứ hai của cuốn sổ. Câu này không ghi tác giả. Để khỏi phải lặp đi lặp lại, từ đây những câu nào không ghi tên tác giả xin bạn hiểu là phát ngôn của chính Demian, vì những câu nào chép của người khác, Demian đều ghi chú cẩn thận. Câu này có nghĩa: “Mục tiêu tối hậu của tôi là trở nên tốt hơn”.

Trong quản trị dự án, khi đặt ra mục tiêu, người ta thường đòi hỏi mục tiêu phải SMART – nghĩa là phải cụ thể (specific), có thể đo đếm được (measureable), có thể đạt được (achievable), phù hợp (relevant), và có mốc thời gian (time-bound). Nếu xem cuộc đời là một dự án, và đem chiếu các tiêu chí trên vào cái “mục tiêu tối hậu” của Demian, ta sẽ thấy nó rất chênh vênh: “trở nên tốt hơn” là một ý niệm chung chung và không xác định đâu là điểm đến. Nếu bảo đó là mục tiêu, thì mục tiêu ấy là mục tiêu di động, vừa tiến lại gần nó lại lùi ra, ta tiến thêm bước nữa nó lại lùi bước nữa, cứ như thế đến vô cùng. Bất kỳ một nhà quản trị nào cũng có thể đánh hỏng cái mục tiêu này ngay khi nó vừa được trình bày trên màn hình chiếu.

Thế nhưng, cuộc đời không phải là một dự án – nếu phải, thì dự án đó quá dài và chứa đựng quá nhiều yếu tố không lường trước; hoặc không, thì ít nhất cũng phải là tập hợp của nhiều, rất nhiều dự án theo cả chiều ngang lẫn chiều dọc, mỗi dự án có một mục tiêu riêng mà tổng hợp tất cả những mục tiêu ấy xem chừng là một việc bất khả thi. Vì lẽ đó, xét nét cái “mục tiêu tối hậu” của Demian theo con mắt quản lý dự án hẳn không phải là việc làm thích hợp.

Nếu thế, liệu có thể cho rằng cái mục tiêu di động của Demian là một quan niệm sống, và là một quan niệm tích cực vì một người lúc nào cũng mong muốn mình sẽ tốt hơn là người không bao giờ hài lòng với chính mình – một con người cầu tiến – lẽ nào không phải thế?

Tôi không rõ Demian đã suy nghĩ bao lâu trước khi đặt bút viết câu này trên trang gần như trang đầu tiên của một cuốn sổ tay khi cậu ta 24 tuổi. Có phải cậu đã nghiền ngẫm, nhẩm đi nhẩm lại trong đầu câu đấy hàng nghìn lần như một thứ thần chú nội tâm trước khi cậu ta có cuốn sổ? Hoặc, khác đi, một ngày đẹp trời, cậu ta lang thang trên vỉa hè Sài Gòn, bất chợt thấy một cuốn sổ xinh xinh trong một cửa hàng văn phòng phẩm, thế là mua, và khi thử bút, cậu ta phóng tay viết câu này? Dù gì đi nữa, câu này đã được viết xuống, đã đi vào lịch sử của một người hai mươi bốn tuổi như một con gà đã chết. Và tôi, một kẻ rỗi hơi, soi con gà chết đó bằng kính lúp (định nói kính hiển vi nhưng chợt nhớ kính hiển vi quá nhỏ so với con gà) như Sherlock Homes soi một cái tàn thuốc hay một cái móng tay hòng tìm ra một nguyên nhân một vụ án mạng rất có thể sẽ được kể trong entry tiếp theo.

BẠN BÈ CŨNG LÀ MỘT TÀI SẢN