Trích dịch từ bài Individual language and mass language của David Grossman trong tập Writing in the Dark.
Trong thế giới mà tôi đã mô tả, văn chương không có những đại diện có ảnh hưởng tại các trung tâm quyền lực, và tôi thấy khó có thể tin rằng văn chương có thể thay đổi được điều đó. Nhưng nó có thể đề xuất những cách khác để sống trong thế giới ấy. Sống với một nhịp điệu nội tại và một tiếp diễn nội tại đáp ứng nhu cầu cảm xúc và tinh thần của chúng ta cần nhiều hơn rất nhiều so với những gì các hệ thống bên ngoài áp đặt thô bạo lên chúng ta.
Khi đọc một cuốn sách hay, tôi trải nghiệm một
sự sáng rõ bên trong: cảm thức về sự duy nhất của bản thân trở nên rõ ràng. Cái
giọng nói đều đặn, chính xác chạm tới tôi từ bên ngoài làm sống dậy những giọng
nói bên trong tôi, một số trong đó có lẽ đã im lặng cho đến khi giọng nói kia,
hay cuốn sách cụ thể này, đến và đánh thức chúng. Và ngay cả khi cùng một thời
điểm hàng ngàn người cùng đọc cuốn sách mà tôi đang đọc, thì mỗi người đều đơn độc đối diện với nó.
Với mỗi người, cuốn sách ấy là một loại giấy quỳ hoàn toàn khác nhau.
Một cuốn sách hay — và số lượng như thế không
nhiều, vì văn chương, tất nhiên, cũng chịu ảnh hưởng của những cám dỗ và rào cản
từ truyền thông đại chúng — có thể cá nhân hóa và kéo người đọc đơn lẻ ra khỏi
đám đông. Nó cho người đó một cơ hội để cảm nhận cách mà những nội dung tinh thần,
ký ức, và những khả thể hiện sinh có thể nổi lên, trồi dậy từ bên trong anh ta,
từ những nơi chốn xa lạ, và chúng là của riêng anh ta. Là trái ngọt từ chính cá
tính của anh ta mà thôi. Là kết quả của
những tinh luyện thầm kín nhất. Và trong văn hóa đại chúng của đời sống thường
nhật, trong sự ô nhiễm toàn diện của ý thức chúng ta, thật khó để những nội
dung có hồn ấy
có thể trồi lên từ sâu thẳm nội tâm và trở nên sống động.
Ở trạng thái tốt nhất, văn chương có thể kết nối
chúng ta với số phận của những con người xa lạ và khác biệt. Đôi khi, nó có thể
tạo ra trong ta một cảm giác kinh ngạc khi nhận ra rằng ta đã thoát khỏi số phận
của những người lạ ấy trong đường tơ kẽ tóc, hoặc khiến ta buồn bã vì đã không
thực sự gần gũi với họ. Vì đã không thể vươn tay ra chạm tới họ. Tôi không nói rằng cảm xúc ấy lập tức
thúc đẩy chúng ta hành động theo một hình thức nào đó, nhưng chắc chắn rằng nếu
không có nó, thì sẽ không thể có bất kỳ hành động nào mang tính thấu cảm, dấn
thân hay trách nhiệm.
Ở trạng thái tốt nhất, văn chương có thể tử tế
với chúng ta: nó có thể làm dịu đi cảm giác bị xúc phạm vì sự phi nhân hoá mà
ta phải chịu đựng khi sống trong những xã hội toàn cầu rộng lớn, vô danh. Sự
xúc phạm khi ta bị mô tả bằng ngôn ngữ thô lỗ, bằng sáo ngữ, khuôn mẫu và định
kiến. Sự xúc phạm khi ta trở thành — như Herbert Marcuse từng nói — “con người một chiều.”
Văn chương cũng mang lại cho ta cảm giác rằng
vẫn có cách để chống lại sự tùy tiện tàn nhẫn đã định đoạt số phận ta: ngay cả
khi cuối Vụ án, Joseph K. bị chính quyền bắn “như một con chó”; ngay cả
khi Antigone bị hành hình; ngay cả khi Hans Castorp cuối cùng cũng chết trong Núi thần — thì
ta, kẻ đã đồng
hành cùng họ qua những cuộc đấu
tranh, vẫn khám phá ra sức mạnh của cá nhân trong việc giữ
gìn phẩm giá làm người ngay cả trong những hoàn cảnh khắc nghiệt nhất. Đọc văn
chương là hành vi khôi phục phẩm giá của chúng ta, khôi phục khuôn mặt nguyên
sơ của ta, những khuôn mặt người, những khuôn mặt từng hiện hữu trước khi bị xóa nhòa giữa đám đông.
Trước khi chúng ta bị trưng thu, bị quốc hữu hóa, và bị bán sỉ cho kẻ trả giá
thấp nhất.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét