Hiển thị các bài đăng có nhãn visa. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn visa. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 13 tháng 7, 2009

Much ado about something

Hôm nay Yahoo 360 đóng cửa. Thật ra tôi không quan tâm đến sự kiện này lắm, nhưng thấy khắp các nẻo mạng bà con nhiếc móc, mắng chửi, lưu luyến, hờn giận từ cả hơn tháng nay đâm ra không thể mũ ni che tai. Có người ví Yahoo 360 như người tình ngúng nguẩy, càng ân cần chiều chuộng nàng, thì nàng càng gắt gỏng, cau có, rồi đến một ngày nàng dứt áo ra đi mặc kệ người ta thề non hẹn biển ăn đời ở kiếp với nàng. Người ta trách móc mắng chửi nàng đủ điều. Có thể cũng vì người ta quá yêu nàng đấy thôi. Thương cho roi cho vọt, he he.

Nhiểu giả thuyết đặt ra về việc tại sao nàng ra đi, bỏ lại mấy trăm ngàn người tình chung thủy ở Việt Nam. Tôi không biết giả thuyêt nào đúng, nhưng tôi ngờ rằng nàng đi chỉ vì nàng quá thượng tôn pháp luật. Nàng không muốn thỏa hiệp, không muốn đặt mình vào thể khó xử. Thì phải đi thôi. Đưa người ta không đưa sang sông. Sao có tiếng sóng ở trong lòng. Dẫu không mấy mặn mà với nàng, không thể không bâng khuâng, thậm chí cảm phục nàng. À, cái từ cảm phục này đặt vào bài hát thì rất khó hát nhé. Đỗ Bảo trong bài Cánh cung, có hai câu rất hay “Em buông cánh cung, em không còn cảm phục”. Cậu Lê Hiếu có lẽ thấy hát mà phải phùng miệng một cái ục khó quá bèn sửa lại thành “em không còn hiền dịu” nghe chẳng ra sao cả.

Tôi đến Yahoo 360 vào tháng 9/2007 khi người tình thứ thiệt của tôi phải đi xa mấy tháng làm nhiệm vụ cân bằng tỷ lệ giới tính trong gia đình. Khi nàng trở về, cùng với một thanh niên hào hoa tuấn tú là anh cu Pi (avatar), thì tôi cũng chia tay Yahoo 360. Nếu coi Yahoo 360 là người tình, thì với tôi đấy chỉ là một cuộc tình ngắn ngủi, nhưng không phải không có ý nghĩa, kể cả những ý nghĩa mà không ngờ sẽ có. Những thứ viết linh tinh ở Yahoo 360 không ngờ một ngày lại có giá trị chứng cứ, liên quan (phần nào) đến hạnh phúc của một con người. Tương thuật chuyến đi ăn cưới ở Nha Trang của tôi ngày nào rất có thể giúp chứng minh một đám cưới là có thật. Lãnh sự quán Mỹ cũng oái ăm. Làm thế nào để chứng minh được một đám cưới thật là có thật? Làm sao để những người xét visa kia tin rằng có một cặp vợ chồng, vì không muốn đi những con đường tắt, vì muốn danh chính ngôn thuận, mà vẫn chịu cảnh xa nhau nửa vòng trái đất, để rồi cái hồ sơ rất chính quy của họ bị bác đi? Người xét visa có chịu trách nhiệm về sự đau khổ của người khác? Sự đau khổ không hẳn chỉ vì vợ chồng tiếp tục cách xa, mà trên hết là vì sự trung thực bị nghi ngờ.

Nói đi cũng nói lại, nếu những người xét visa kia không bị xí gạt nhiều lần vì những hồ sơ giả, nếu không có quá nhiều đám cưới trên giấy chỉ với mục đích di dân sang nước Mỹ thiên đường, thì hồ sơ của bạn tôi có thể đã không bị xét nét bằng một con mắt nghi ngờ. Có lẽ họ, những người gác cổng vào nước Mỹ, đã đối phó với sự lừa dối bằng cách giả định họ đang bị bị lừa, còn người nộp hồ sơ xin nhập cư buộc phải chứng minh rằng họ trung thực. Bạn tôi chỉ là nạn nhân của sự thiếu lòng tin. Bạn tôi chỉ là nạn nhân của hiện trạng xã hội chúng ta, một xã hội đang vận hành trên sự thiếu lòng tin.

Ai đã từng xem trận bán kết Champions League mùa giải vừa rồi giữa ChelseaBarcelona đều có thế thấy ông trọng tài thồi tồi như thế nào. Nhưng mặc dù thổi tồi đến thế người ta chỉ cho rằng đó là tai nạn chứ không nghĩ rằng ông thiên vị Barca. Bởi vì cái xã hội mà ông thuộc về người ta tin nhau. Và có cơ sở để tin nhau. Còn ông trọng tài Nguyễn Trọng Thư ở ta mới đây đã phải xin tạm nghỉ. Chuyện ông thổi đúng sai xin nhường các nhà chuyên môn, nhưng có thể thấy không ai tin ông Thư cả. Chuyện ông Thư có đáng tin hay không tôi không biết, vì tôi không quen biết ông, nhưng chắc chắn rằng báo chí, khán giả và dư luận không có sẵn một lòng tin để có thể dành cho ông, hay bất cứ trọng tài nào khác. Chúng ta đang không tàng trữ lòng tin.

Thế cho nên, tôi thấy đề thi tuyển sinh đại học môn văn năm nay hay. Nhà báo NVP có những phê phán ở đây. Tôi thấy những phê phán đó hợp lý, tuy nhiên, tôi vẫn nghĩ rằng đề hay. Haytrước hết vì nó khác đề những năm trước, cho thấy đã có sự thay đổi trong tư duy của người ra đề. Hay còn vì nó đã phần nào cho thí sinh cơ hội trình bày suy nghĩ về một trong những vấn đề căn bản của xã hội hiện tại.


Entry này cũng chưa đâu vào đâu hết, mà giờ nghỉ trưa của tôi thì hết rồi. Trên blog của NVP còn có ý kiến về vụ Google. Nhà văn Lý Lan cũng có ý kiến ở đây. Tôi có một comment ngắn về chuyện này ở blog bạn Marcus. Much ado about something.

Thứ Năm, 11 tháng 6, 2009

The Professor (tiếp theo và hết)

Đoạn trước

Cho dù hết sức mê Mũi Né, bảo rằng nếu có thời gian sẽ ở Mũi Né cả tuần, giáo sư vẫn muốn quay lại Sài Gòn để đi thăm địa đạo Củ Chi. Giáo sư chỉ có ba ngày ở Việt Nam. Giáo sư rất muốn nhìn thấy hệ thống địa đạo lừng danh, muốn hiểu vì sao Mỹ đã thua ở Việt Nam. Giáo sư nói, chỉ có mỗi Việt Nam mày là thắng được Mỹ thôi. Đúng là như thế thật, tôi bảo, nhưng cái giá chúng tao phải trả rất đắt, mày có biết hơn ba triệu người Việt đã ngã xuống trong hai mươi năm chiến tranh không? Mỹ thua trận nhưng chỉ có 58.000 người chết, người Mỹ sang đây nhặt từng bộ xương mang về, còn chúng tao, chúng tao có cả một đất nước tan hoang, có những vết thương không bao giờ hàn gắn, và đến bây giờ, vẫn còn những hận thù không nguôi. Giáo sư bảo đó là một cuộc chiến không cần thiết. Có cuộc chiến nào là cần thiết không hả giáo sư của tôi? Nhân dân có bao giờ cần chiến tranh, chỉ có một số ít người “cần” nó…

Để tránh kẹt xe trong nội thành, tôi chở giáo sư theo đường Nguyễn Văn Linh ra quốc lộ 1A rồi ra đường Xuyên Á, tuy xa hơn tí nhưng không gặp thảm cảnh nhích từng mét một như hôm đi Mũi Né. Đường Xuyên Á khá tốt, nhưng tốc độ cho phép cũng chỉ có 50km/h.

Củ Chi, một vùng quê xanh mướt dần hiện ra trong mắt chúng tôi. Hứng nửa triệu tấn bom trong chiến tranh, Củ Chi đã từng là đất trắng. Tất cả cây cối nơi đây chỉ mọc lại từ sau chiến tranh kết thúc. Đi giữa rừng rậm, tôi hỏi giáo sư nếu mày là lính Mỹ mày có dám đến đây không? Giáo sư lắc đầu, lè lưỡi.
Giáo sư kinh ngạc thật sự khi biết rằng hệ thống địa đạo dài đến 250km, có chỗ sâu đến 10m, gồm 3 tầng, tầng trên cùng để sinh hoạt và chiến đấu, tầng thứ hai dự trữ lương thực và vũ khí, tầng thứ 3 sâu nhất đế tránh bom. Ở tầng dưới cùng, đường hầm có những đoạn eo để lính Mỹ có vào đến đó cũng không thể chui qua được. Nhưng tôi nghĩ, chắc là khó có lính Mỹ có thể vào đến đây mà còn sống sót. Cái nắp hầm trên mặt đất, nếu phát hiện ra cũng khó có thể chui vào, chưa kể nhấc nắp hầm lên sẽ có nguy cơ trúng mìn mà người du kích cuối cùng vào hầm đã cài lại. Còn qua khỏi cửa hầm, nếu không dính đạn cũng rơi vào hầm chông. “Cái hầm chông là điều nhân đạo nhất” (Chế Lan Viên). Hãy thử hình dung một anh lính Mỹ to béo ngắc ngoải không sống mà chưa chết giữa hầm chông!

Sau khi tham quan một số đoạn tiêu biểu của hệ thống địa đạo như hầm chỉ huy, hầm cứu thương, hầm hội họp, bếp Hoàng Cầm .v.v., giáo sư, hẳn lúc đấy bụng đang diễn ra phản ứng phức tạp giữa tôm hùm và trái cây nhiệt đới, đột nhiên hỏi cậu hướng dẫn viên, ngày xưa du kích muốn đi toa-let thì đi đâu, làm bên trong này luôn hay ra ngoài. Tôi thấy giáo sư ngu chi lạ! Ra ngoài để mà ăn kẹo đồng à? Du kích Củ Chi anh hùng gan dạ mưu trí, không lẽ chết vì một lý do lãng xẹt. Cậu hướng dẫn viên, con trai một cựu du kích Củ Chi từng bị thương trong chiến tranh, kiên nhẫn giải thích rằng người ta sẽ đào một ngách nhỏ, sau đó đổ tro vào lấp lại. Tôi biết người ta có thể đào một cái ngách, hoặc một cái lỗ, nhưng không chắc người ta có đủ thời gian lấp lại hay không. Giáo sư sau khi đã được giải thích tường tận, thỏa mãn trèo ra ngoài đi kiếm restroom. Tôi ngồi ở canteen nhấm nháp một que kem Kinh Đô. Lúc sau, giáo sư đi ra, nhìn trước nhin sau rồi thì thào với tôi, chết rồi mày ơi, lúc nãy không để ý tao vào nhầm toa-lét nữ!

Ngoại trừ tai nạn nho nhỏ đó, giáo sư rất phấn khởi với chuyến tham quan. Giáo sư nói tao hết sức khâm phục dân tộc mày đã xây dựng được một hệ thống địa đạo tài tình như thế chỉ với một cây cuốc nhỏ. Bây giờ tao hiểu sao Mỹ phải thua ở Việt Nam. Chiến tranh ở nước mày thật sự là chiến tranh nhân dân.
Nghĩ ngợi một hồi, đột nhiên giáo sư hỏi, nhưng sao hồi đó bọn mày xây dựng được một hệ thống địa đạo vĩ đại như vậy, mà bây giờ bọn mày chưa xây dựng được một đường cao tốc tử tế? Giáo sư hỏi câu hỏi khó, tôi không trả lời được. Cũng như tôi đã không trả lời được câu hỏi tại sao có nhân viên một công ty dịch vụ xuất hiện ở của khẩu đề nghị làm giúp visa với giá 100 đô, mà nếu không chịu làm giáo sư chỉ có nước lên máy bay về nước ngay tức khắc.

Buổi tối cuối cùng, giáo sư đến nhà chúng tôi ăn tối. Chúng tôi tặng giáo sư một khăn trải bàn thêu tay xem như là quà cưới cho giáo sư. Sáng hơm sau giáo sư bay đi Melbourne. Ổn định công việc ở Melbourne, giáo sư sẽ phải đón cô vợ mới cưới người Trung Quốc sang. Giáo sư nói bọn Úc thế mà lề mề, visa vợ chồng mà mất đến những ba tháng mới xong. Tuy nhiên tôi tin, cho dù mất ba tháng, giáo sư sẽ không bị bắt chẹt. Như đã từng bị bắt chẹt trên một sân bay lạ.

Thứ Ba, 9 tháng 6, 2009

The Professor (tiếp theo)


Giáo sư là người Đức, bạn tôi khi học ở Brisbane. Giáo sư được gán biệt danh “giáo sư” vì anh hành xử như một giáo sư và uyên bác như một giáo sư. Thời đi học, tôi hay lên thư viện trường nghịch internet và nhong nhóng xem có ai quen thì rủ đi uống café. Nếu tôi rủ giáo sư, giáo sư sẽ trước hết liếc nhìn đồng hồ, rồi bảo OK, tao đi được nhưng tao cần phải tìm một bài báo/cuốn sách, nửa tiếng nữa tao sẽ tới. Đúng nửa tiếng giáo sư sẽ tới, gọi một ly gì đó, chuyện trò dăm ba câu rồi giáo sư lại nhìn đồng hồ và bảo, tao phải đi đây, còn phải viết thêm một nghìn chữ cho bài essay vào hôm nay. Tôi nghĩ không có đồng hồ giáo sư sẽ chết mất.

Trước khi học Master ở Úc, giáo sư đã xong Doctoral continental law (hệ thống luật lục địa) ở Đức và đã trợ giảng một số năm. Giáo sư đến Úc vì muốn hoàn thiện tiếng Anh và muốn tìm hiểu thêm về hệ thống common law. Trong khi tôi chật vật lắm mới được điểm 6 hoặc mấp mé 7, thì giáo sư dễ dàng lấy điểm 7 ở hấu hết các môn. Điểm 7 là điểm cao nhất trong thang điểm đại học ở Úc. Sau khi hoàn tất Master ở Úc, giáo sư sang Aberdeen, Scotland để làm thêm một cái Ph.D common law (hệ thống thông luật) rồi trở thành một giáo sư thực thụ tại Leicester, UK. Tổng cộng giáo sư mất mười lăm năm học và nghiên cứu luật trước khi chính thức dạy đại học. Tôi nhớ lúc học luật ở Việt Nam, có những thầy cô chỉ trên tôi ba khóa. Cơm chấm cơm, cháo chấm cháo, nên rõ ràng cơm, cháo chả là cơm cháo gì so với xúc xích, phô-ma.

7 tháng trước khi sang Việt Nam, giáo sư gửi email thông báo ý định và kiểm tra xem tôi có đi đâu trong thời gian đó hay không. Một tháng sau, giáo sư đã mua vé và tôi đã biết chính xác ngày giờ giáo sư hạ cánh. Nửa tháng trước khi đến, tôi đã hoàn tất kế hoạch cho giáo sư tham quan Việt Nam. Trong rất nhiều email qua lại chuẩn bị cho chuyến đi, chúng tôi không mảy may đề cập đến chuyện visa, vì tôi nghĩ đó là chuyện hiển nhiên phải làm trước khi đến bất cứ nước nào. Đúng ra tôi hoàn toàn không nghĩ đến chuyện này và giáo sư cũng hoàn toàn không có bất cứ câu hỏi nào. Thế nên, tôi không biết giáo sư đã quyết định một cách hết sức kém sáng suốt, không đúng tầm giáo sư tí nào: xin visa tại cửa khẩu Việt Nam.

Tôi đến sân bay khi giáo sư vừa hạ cánh. Tôi gọi điện chúc mừng giáo sư, hướng dẫn khi ra ngoài gặp tôi ở chỗ nào. Hai mươi phút sau giáo sư nhắn tin “tao đang chờ lấy visa, mất khoảng 30 phút”. Hơi ngạc nhiên vì không biết rằng visa có thể xin tại cửa khẩu, nhưng tôi vẫn yên bụng ngồi chờ. Đúng 30 phút sau, giáo sư lại nhắn tin “chắc tao còn phải chờ lâu nữa, visa chưa xong”. Bắt đầu hơi nghi ngại, tôi gọi cho giáo sư. Giọng giáo sư vang vang trên điện thoại: “It’s totally unorganised here. I don’t know how much longer I have to wait.”. Tôi an ủi giáo sư mày ráng chờ một chút đi, nhưng nếu gặp rắc rối gì thì gọi cho tao. Thêm khoảng 40 phút nữa, điện thoại tôi rung lên. Tin nhắn của giáo sư: “Big problem. I need an invitation, which I don’t have.” Trời ạ, sao không ai bảo với giáo sư rằng cần phải có một invitation mới có được visa, nếu như thủ tục xin visa tại cửa khẩu quả thật cần phải có một invitation?

Khi đã gặp nhau tại khách sạn Đệ Nhất rồi, giáo sư mới nói tao kiểm tra rất kỹ trên trang web (tôi không hỏi kỹ trang web nào, của đại sứ quán Việt Nam hay một trang khác của UK, nhưng tôi đã yêu cầu giáo sư gửi cho cái link). Trên đó nói chỉ cần mang theo hai tấm ảnh và hộ chiếu. Hồi đó tao đi Malaysia cũng xin visa tại cửa khẩu nhanh lắm nên tao nghĩ Việt Nam cũng tương tự. Giáo sư, tuy là giáo sư rồi mà nhiều khi suy nghĩ thật thơ ngây. Thơ ngây hệt như lúc giáo sư tròn mắt ở Tân Phong, cái ngã ba mà tôi đi lạc, khi quành lại rồi tôi phát hiện ra có mấy hàng trái cây ngon lành ven đường. Nghĩ rằng giáo sư sẽ thích trái cây nhiệt đới vừa tươi vừa rẻ nên tôi dừng lại mua hai ký măng cụt và hai ký chôm chôm nhãn. Em bán hàng vừa khúc khích cười vừa cân măng cụt cho tôi. Em nói măng cụt đây ba ký rưỡi luôn rồi anh lấy luôn nhe. Tôi không khúc khích cười như em, tôi thấy bịch măng cụt chút xíu nên nói với em rằng em tính giỡn chơi anh sao chừng này mà hai ký. Em vẫn khúc khích cười mang một cái cân khác ra và thật là tài tình vẫn bịch măng cụt đó bây giờ vừa đúng hai ký. Không biết em còn một cái cân thứ ba nữa không. Tôi áng chừng chừng đó măng cụt chắc cũng xấp xỉ hai ký thật nên móc tiền ra trả. Em khúc khích cười nhận tiền, còn giáo sư thì tròn mắt. Hai mắt giáo sư tròn như hai cái đít tô.


Giáo sư đã mắt chữ O, mồm cũng chữ O nhiều lần từ khi đến Việt Nam. Đêm đầu tiên ở Việt Nam, sau khi đã trả 100 đô để nhận visa và passport, giáo sư được tự do. (Trước đó giáo sư bị buộc phải ở trong khách sạn vì visa chưa có.) Tôi chở giáo sư đi ăn tối. Vừa ló ra đường chính, giáo sư đã ồ lên kinh ngạc khi thấy người và xe lúc nhúc từ mọi hướng. Đến lúc đi trên Hoàng Văn Thụ, đoạn bên hông công viên, giáo sư lại ồ lên khi thấy xe máy và ô tô đan xen vào nhau, chịu không biết làn nào ra làn nào. Giáo sư ồ to hơn khi một chiếc taxi lấn qua mặt tôi từ bên phài đồng thời một chiếc taxi lấn qua từ bên trái. Nhưng đến lúc xe nhích từng mét một trên đường Nguyễn Văn Trỗi, nơi có những lô cốt trơ gan cùng tuế nguyệt bao nhiêu tháng qua, giáo sư chán không ồ à nữa, chỉ van vỉ tôi chở đến một quán ăn nào càng gần càng tốt. Giáo sư chỉ ồ lên một lần nữa khi xe vào Nam Kỳ Khởi Nghĩa, vì lúc đó giáo sư vui sướng phát hiện ra đường này có làn riêng cho xe máy và ô tô. Tôi đã không kể cho giáo sư rằng người ta đã thi công con đường này gần 4 năm qua. Tuy vậy giáo sư cũng kịp nhận xét chính phủ mày phải làm một điều gì đó về giao thông, vì giao thông không trôi chảy thì kinh tế sẽ trì trệ. Tôi cười.

Tôi cười vì tôi không thể khóc. Không khóc khi gặp bạn cũ sau 6 năm. Không khóc ở Ho Chi Minh City. Không khóc trên đường đi Mũi Né.

Lần đầu tiên lái xe đi xa với một con chuột bạch nặng 85 kg, tôi phát hiện ra mình lái xe cũng không tồi và lái xe đường dài cũng không đến nỗi kinh hãi lắm. Tuy vậy tôi cũng sợ vài thứ. Thứ nhất là xe bus. Bus ở đây không phải là loại lô cốt di động thường thấy ở nội thành Sài Gòn mà loại xe chở du khách của các công ty du lịch. Cánh lái xe bus mặc nhiên biến làn bên trái thành làn xe của mình và chỉ chịu đi đúng làn khi có xe từ hướng ngược lại. Thứ hai là các bác OS. OS là diễn đàn otosaigon.com, một diễn đàn chuyên về xe pháo các loại, nếu cần bất cứ thông tin gì về xe cộ, đường sá, đi lại bạn có thể vào đây luôn có người sẵn lòng trả lời cho bạn. Các thành viên OS, như thể hiện trên forum, thường xuyên kêu gọi nhau lái xe an toàn, đúng luật lệ. Họ dán logo otosaigon.com màu cam trên xe để nhận ra nhau.

Sau đây là chuyện tôi “gặp” các bác OS: Lúc tôi ra khỏi Phan Thiết một đoạn, đột nhiên tôi thấy một đoàn bốn, năm chiếc nhấp nha nhấp nháy đèn từ một cây xăng ven đường phóng ra đường chính với tốc độ khá cao. Đoàn xe này khi nhập với dòng xe trên quốc lộ rồi vẫn nhá đèn xi-nhan trái liên tục, có xe còn bật cả đèn khẩn cấp. Ở ngay phía sau họ nhìn tới, tôi quá chóng mặt với tín hiệu đèn không ngừng nhấp nháy bèn chạy chậm hẳn lại cho họ đi khuất mắt cho rồi. Lúc qua khỏi Dầu Giây chút xíu, xe phía trước hơi ùn cả lại. Thì ra có bốn năm chiếc cùng tấp vào lề đường. Tôi vượt lên, nhìn thấy một tốp năm bảy bác đứng quay lưng bên đường, hai tay hẳn là ở phía trước bụng cầm một cái gì đó. Tôi không nghĩ rằng tôi cần phải miêu tả cụ thể hơn họ đang làm gì. Đến lúc đó tôi vẫn chưa biết rằng đây là các bác OS mà tôi vẫn ngưỡng mộ. Chỉ khi, hẳn là sau khi các bác giải quyết tình yêu thiên nhiên xong và đồng loạt qua mặt tôi, một bác bên trái, ba bác bên phải gần như cùng lúc, thì tôi mới choáng váng nhìn thấy logo otosaigon.com trên xe các bác, gồm hai chiếc BMW, một chiếc Mercedes và một Ford Escape. Trừ chiếc Ford Escape, ba chiếc kia đều bật đèn khẩn cấp. Quả là một sáng kiến phi thường!


tại vì viết tới đây phải chạy có việc)