Chủ Nhật, 13 tháng 7, 2025
Hemingway trả lời phỏng vấn
Thứ Sáu, 27 tháng 4, 2012
Giấu giấu giếm giếm
Thứ Tư, 28 tháng 7, 2010
Mười phút trước khi vào lớp
Chủ Nhật, 11 tháng 10, 2009
Ngày không đẹp trời và món cháo giò
Cần quá nhiều nhận thức và dũng cảm để dấn thân ra đường trong những ngày trời xám xịt, đầy mưa và đầy gió. Những ngày như thế, tôi thích cuộn tròn trong chăn, nửa thức nửa ngủ nghe tiếng mưa ầm ì, tiếng gió cọ vào cửa kính, tiếng xe rì rào vọng lên từ con đường dưới nhà. Tôi thích nằm mãi, nằm mãi cho đến khi nào bụng tròn căng lên bức bối thì mới lồm cồm bò dậy, nhảy một bước vào toa-nét rồi sau khi nhẹ nhõm cõi lòng nhảy vào giường và tiếp tục tục rúc vào chăn. Nhưng, chao ôi, cuộc đời không phải là giấc mơ và tình người không là bài thơ. Dẫu mưa, dẫu gió, dẫu xám xịt âm u thì con heo con và con chó con (tức là bạn Alpha và bạn Pi) vẫn dậy đúng giờ. Thế rồi sau khi hai bạn ăn sáng xong, vì là cuối tuần nên cụ bà lại bắt cụ ông thắng ngựa chở cụ bà đi siêu thị. Điều an ủi là, sau khi từ siêu thị trở về, mặc cho cụ bà chiến đấu với đống chiến lợi phẩm và mặc cho hai con heo con và chó con nhảy lăng xăng khắp nhà như thổ dân, tôi cũng có thể trèo lên sofa và đọc nốt cuốn sách dang dở. Lần này là Hội hè miên man.
Đôi khi tôi băn khoăn tự hỏi giò của biên tập viên trắng hay đen, cong hay thẳng, dài hay ngắn, có lông hay không lông:)? Vì những thắc mắc biết hỏi ai đấy nên hôm nay trong lúc đọc sách tôi nảy ra một ý hay là mình thử bắt giò về nấu cháo xem sao. Và, đối với một cuốn sách liên kết xuất bản, nếu bắt giò thì phải bắt giò của biên tập viên công ty liên kết, chứ ai lại đi bắt giò biên tập viên nhà xuất bản, vì cho dù là người ngoại đạo thì cũng không khó đoán ra ai là người thực sự làm việc.
Cuốn sách này, kể từ khoảng trang 80 trở đi, được chuyển tải bằng một thứ tiếng Việt gần như hoàn hảo, nên dù có sẵn một ý định khá tiểu nhân trong đầu:) tôi vẫn không bắt được một lỗi gì đáng kể. Dường như kể từ khoảng trang này thì dịch giả đã bắt đầu bắt nhịp được cuốn sách và dứt khoát không thả nó ra nữa! Hoặc cũng có thể kể từ khoảng trang này thì biên tập viên lao lực nhiều hơn:) nên ngôn ngữ nhuần nhị, mượt mà gần như không tì vết. Có một từ tôi không hiểu, đó là từ “phỉ phui” (trang 132). Tôi đoán là từ gốc Bắc, nên đã hỏi cả một người Bắc chính gốc là cụ bà mà vẫn chịu. Trước đó ít trang có từ “phỉ thui”, tôi cũng không hiểu từ này, nhưng dựa vào ngữ cảnh cũng đoán được là một từ chỉ việc khỏi mất may mắn. Bác biên tập viên có vào đây vui lòng giảng giải thêm.
Từ khoảng trang 80 trở về trước có thể nhận thấy một số chỗ còn ngập ngừng, trúc trắc, khó hiểu. Vài ví dụ như sau:
+ “Tôi đem theo cam và hạt dẻ nướng trong túi giấy, và mỗi khi đói lại bóc những quả cam bé như quả quất rồi ném vỏ và nhổ hạt vào lửa khi ăn, cũng như đống hạt dẻ” (trang 24). Trúc trắc bắt đầu từ chỗ “khi ăn…’
+ “Những bà vợ, vợ tôi và tôi cảm thấy, đều được chiếu cố” (trang 27). Cái đoạn “vợ tôi và tôi cảm thấy” nằm ở giữa câu có lẽ quá Tây và làm cho câu khó hiểu hơn.
+ “Ta có thể nhận ra mùa xuân đang đến từng ngày trên rất nhiều cây trong thành phố cho đến một đêm đầy gió ấm bất ngờ mang nó đến vào buổi sáng” (trang 64). Rất khó hiểu vì sao “mùa xuân đến từng ngày” rồi sau đó “một đêm đầy gió ấm bất ngờ mang nó đến vào buổi sáng”.
+ Cụm từ “người đàn bà” được dùng lặp đi lặp lại ở trang 67.
+ Đoạn tả Miss Stein và người tình của bà (trang 27), từ đoạn “bà ta có làn da sẫm…” cho đến “…các cuộc nói chuyện không phải của bà” tôi bị lẫn lộn không biết tả Miss Stein hay tả người tình của bà ấy. (Người tình của Miss Stein là phụ nữ nên mới mọc ra cái sự khó hiểu này!)
Ngoài ra, tôi không hiểu tại sao tên các tác phẩm được nhắc tới trong sách khi thì được chú thích bằng tiếng Việt, khi thì không. Tôi cũng thắc mắc vì sao từ “rượu trắng” được sử dụng chứ không phải “vang trắng”. “Rươu trắng” khiến tôi liên tưởng đến rượu đế ở Việt Nam, thay vì loại rượu ướp lạnh hay uống khi dùng hải sản.
Tôi chưa đến Paris bao giờ nên đọc về Paris trong Hội hè miên man với tôi là một cuộc du lịch thú vị. Thú vị không kém là câu chuyện về Hemingway và các bạn văn của ông. Tôi nhặt ra vài chi tiết mà tôi thích:
+ Hemingway không tin vào tính từ.
+ “Mọi thế hệ đều mất mát theo một cách nào đấy, luôn luôn đã và luôn luôn sẽ mất mát”.
+ Văn của Hemingway trong nguyên bản tiếng Anh khá dễ đọc, vì ông không dùng câu hay từ phức tạp. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa viết ra những câu văn đơn giản là một công việc dễ dàng. Hemingway trong cuốn này thú nhận rằng ông thường phải “ngồi trọn một buổi sáng để ra được một đoạn văn”.
+ Hemingway khuyên một người bạn nếu không viết văn được thì hãy chuyển sang viết phê bình!: ):)
+ Scott Fitzgerald, tác giả Gatsby vĩ đại, nghĩ là mình có vấn đề về “kích thước”! :)
Thông tin về cuốn sách: Hội hè miên man, tác giả Ernest Hemingway, Phan Triều Hải dịch từ nguyên bản tiếng Anh Moveable Feast, Nhã Nam và NXB Hội nhà văn 2009, Biên tập viên Nhã Nam: Nhị Linh:)