Hiển thị các bài đăng có nhãn read. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn read. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 11 tháng 3, 2025

Sự đọc năm nay - 2018

Chiều trước khi nghỉ Noel, hơi quỡn, gõ nhăng cuội tí. Mọi năm hay làm list những sách ưa thích trong năm, nhưng cái sự làm list gần đây bị công kích dữ quá, nên gõ luôn thành bài cho nó hoành.

Hôm rồi tiệc nho nhỏ ở công ty, mọi người được yêu cầu phải “wow” bản thân. Đại để xét lại năm rồi, thấy mình khâm phục bản thân điểm nào nhất, thì chia sẻ với cả mọi người. Các đồng nghiệp phần nhiều chọn dự án này, công việc kia, thử thách nọ. Đến lượt tôi, tôi chọn chữ: thăng bằng.
Năm rồi, ở công ty, là một năm cực nhiều việc. Có quãng đến nửa năm gần như tôi phải gánh cả mọi việc vì thiếu người. Đã thế, còn rất nhiều dự án. Thêm vào đó, ơn Đảng, ơn chính phủ, luật nước nhà thay đổi như chong chóng, đâm ra luật sư đến là lắm việc. Tuy vậy, tôi tự hào vì giữ cho mình thăng bằng. Tôi chạy bộ chăm hơn, tuần ba, bốn lần, tầm chục cây cũng không phải là khó nữa. Tôi xem được hàng tấn phim, khai thác được hàng tấn nhạc mới, nhờ Spotify. Tôi đi qua đâu khoảng ba chục tỉnh ở Việt Nam, nhiều nơi chưa từng đặt chân trước đó như Đông Bắc, Tây Bắc, Cà Mau, Bạc Liêu và sắp tới là Pleiku, Phú Yên. Tôi thường nấu ăn cho Alpha và Pi vào cuối tuần, nhiều món được coi là trademark. Và tất nhiên, tôi vẫn duy trì việc đọc.
Theo Goodreads, tôi đọc được 44 đầu sách, số thực tế chắc phải đến bảy chục quyển vì có đầu sách gồm nhiều cuốn, chưa kể rất nhiều cuốn chỉ đọc vài chương. Tôi muốn nhắc tới vài cuốn tôi thích hơn cả.
Đầu bảng là Miền thơ ấu của Vũ Thư Hiên. Không hiểu sao ngày xưa nhà tôi không có cuốn này để đọc. Nhưng không sao, cuốn này đọc khi là người lớn hay hơn khi là trẻ con. Cuốn sách quả thật đưa tôi về một miền thơ ấu ở đồng bằng Bắc Bộ, với một thứ văn chương đẹp đẽ, giản dị và bây giờ hiếm thấy. Tôi vừa đặt mua thêm mấy cuốn để tặng bạn bè.
Thứ hai, là bộ Thế cục Quỷ Cốc tử do bạn My Hoàn tặng. Đây là một bộ tiểu thuyết 8 cuốn, mà chưa kết thúc, viết về giai đoạn Chiến quốc, xoay quanh bốn nhân vật Bàng Quyên, Tôn Tẫn, Tô Tần, Trương Nghi. So sánh gần nhất với bộ này có thể là Tam quốc diễn nghĩa. Tất nhiên, Tam quốc đã là cổ điển rồi, nhưng biết đâu Thế cục Quỷ Cốc tử sẽ là tân cổ điển.
Tôi muốn nhắc đến ba cuốn tiểu thuyết tương đối mỏng nữa là Ru của Kim Thúy – nhà văn Canada gốc Việt, Phố Academy của Mary Costello – một nhà văn Ái Nhĩ Lan, và Tâm cảnh của Andre Maurois. Tôi đọc Ru qua bản tiếng Anh. Đây gần như là một tự truyện về một cô bé vượt biên sau 75, lớn lên ở Canada rồi trở về làm việc ở Việt Nam. Phố Academy là thân phận một phụ nữ Ireland nhập cư vào Mỹ. Cả hai cuốn Ru Phố Academy giống nhau ở chỗ mỏng, buồn, và đẹp. Tâm cảnh thì cổ hơn, là một cuốn tiểu thuyết rất tuyệt về tình yêu.
Năm nào tôi cũng dành thời gian đọc lại một vài cuốn. Năm nay, có ba cuốn tôi đọc lại và vẫn thấy hay, hoặc hay hơn là Người tình của Duras, Bẫy 22 của Joseph Heller và Đời nhẹ khôn kham của Kundera.
Về non-fiction, tôi đọc một loạt hồi ký của Trần Độ, Trần Quang Cơ, Đoàn Duy Thành, Trần Đĩnh. Những cuốn này đọc đa phần để lấy tư liệu. Không cuốn nào được in ấn chính thức, nên việc biên tập tất nhiên còn nhiều vấn đề. Nói chung đọc hồi ký luôn cần cross-check. Cuốn sách tham khảo thú vị hơn cả mà tôi đọc trong năm là Gia Định xưa và nay của Huỳnh Minh, in trước 75, trong tủ sách của ba tôi.
Sau một thời gian gần như không đọc thơ, thì năm nay tôi đọc lại được thơ và đọc rất nhiều, tất nhiên thơ không được track trên Goodreads. Tôi “khám phá” ra Đinh Hùng, Nguyễn Bắc Sơn. Trước đây tôi có đọc họ chút ít, nhưng chưa thành hệ thống như bây giờ. Nhưng thú hơn nữa, là tái khám phá ra thơ cổ điển. Tôi say sưa đọc lại Đường thi, Chinh phụ, Cung oán, Hoa Tiên, mà đặc biệt là Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi. Đọc lại mới thấy, Nguyễn Trãi viết thơ từ thế kỷ mười lăm, mà tư duy thơ cực kỳ hiện đại đến bàng hoàng.

Thói quen xa xỉ

Những ngày này, tôi đang đọc Lâu đài sói của Hilary Mantel qua bản dịch của Nguyễn Chí Hoan. Lâu đài sói là cuốn sách đoạt giải Man Booker năm 2009 về cuộc đời của Thomas Cromwell. Đó là cuốn tiểu thuyết lịch sử về một giai đoạn trong lịch sử Anh thế kỷ 16. Sách dày hơn 600 trang khổ to, chi chít chữ, về những sự kiện xa lạ, về những nhân vật phần lớn là xa lạ.
Tuy là người vẫn giữ thói quen đọc tiểu thuyết, tôi đọc cuốn sách một cách khó nhọc. Có quá nhiều cám dỗ ngoài sách: Netflix, Facebook, bia, .v.v.; kể cả, nếu chỉ tính về sách, thì cũng còn nhiều cám dỗ khác: vì sao đọc cuốn này mà không đọc cuốn nọ, cuốn kia, những cuốn có thể móng hơn, mới hơn, dễ đọc hơn, cuốn hút hơn...., trong khi đã gần hai tuần, mà tôi mới xong đâu đó hơn hai trăm trang? Lắm lúc, tôi cũng tự hỏi, đọc để làm gì? Hoặc cụ thể hơn, đọc tiểu thuyết để làm gì? Và, vì sao lại đọc cuốn này?
Càng hỏi, tôi càng không có câu trả lời. Tôi chỉ biết là tôi cần tập trung để đọc xong cuốn sách. Tập trung, là việc khó, và đó chính xác là điều tôi cần làm. Bởi, thật quá dễ dàng để xem một tập sitcom trên Netflix, cũng khá dễ khi bốc một cuốn như Sapiens hay Humandkind lên, đọc một chương và tâm đắc với vài ý chính. Tiểu thuyết, một cuốn như Lâu đài sói, không làm tôi cười ha ha, cũng không có ý chính dễ dàng nắm bắt. Nó chậm chạp, lờ đờ, nó nhẩn nha với từng chi tiết, các nhân vật nói với nhau những lời vẻ như thừa thãi, cũng không có những câu có thể tô vàng hay giật lên làm status trên Facebook. Nó thử thách sự kiên nhẫn. Trong thời đại mà hầu như mọi thứ có thể "get done" trên đầu ngón tay, thì đọc tiểu thuyết nói chung, và Lâu đài sói - cuốn tiểu thuyết tôi đang đọc nói riêng, có vẻ như một thói quen xa xỉ. Rất nhiều người không thể, hoặc không còn có thể, đảm bảo được sự xa xỉ này cho bản thân.

Thứ Hai, 10 tháng 3, 2025

Nghệ thuật của việc không đọc

Nghệ thuật của việc không đọc là một nghệ thuật rất quan trọng. Nó cốt ở việc không quan tâm đến bất cứ điều gì có thể thu hút sự chú ý của công chúng nói chung ở bất cứ thời điểm cụ thể nào. Khi một cuốn sách chính trị hay tôn giáo, hay tiểu thuyết, hay một bài thơ đang làm mưa làm gió, anh nên nhớ rằng kẻ nào viết cho những kẻ ngu ngốc thì luôn tìm được một lượng lớn công chúng cho mình. Điều kiện tiên quyết để đọc những cuốn sách hay là không đọc những cuốn sách dở: bởi cuộc đời thì ngắn. —Arthur Schopenhauer

Chúng ta không thuộc về nhau

Chỉ có đọc lại mới đáng kể, hình như Marai Sandor là người nói câu này. Vào thời nhà nhà cắm mặt vào điện thoại, còn Netflix, HBO, Prime Video thay nhau vẫy chào, đọc còn khó chứ ở đó mà đọc lại. Tuy nhiên, để đánh giá chính xác một cuốn sách, cũng như muốn lấy được chút gì từ một cuốn sách, thì đúng là không có cách nào khác ngoài đọc lại.

Điều này đặc biệt đúng với những cuốn sách đọc một thời đã xa, thời mười ba, mười bốn mê chuyện phiêu lưu, hay thời mười sáu, mười bảy đầy mộng tưởng. Tôi từng xúc động bao nhiêu vì một truyện dã sử võ hiệp (vầng!), trong đó nhân vật chính một thanh niên quý tộc xông pha chiến trường nhưng không được ghi nhận công lao vì dòng họ của nhà mình mang tiếng phản bội; nhiều năm sau này có dịp đọc lại tôi thấy viết chán gì đâu, đúng là truyện viết phơi dơ tông đăng nhựt trình hồi xưa cho vui. Năm nhất đại học Thiên sứ của chị Hoài gây ra một cú chấn động không nhỏ với tôi; cách đây dăm ba năm đọc lại, tôi thở dài công nhận thời gian khắc nghiệt. Dấu chân người lính của Nguyễn Minh Châu từng làm tôi mê say theo dõi chuyện các anh bộ đội, giờ đọc chỉ thấy buồn cười, gì mà các anh yêu chó trang trước trang sau đã ngả chó ra liên hoan. Danh sách còn dài, trong đó có nhiều cuốn lần đọc thứ hai nghiêm trang chấn chỉnh ấn tượng lần đọc đầu quá độ đến nỗi một lần phát biểu thẳng thắng về cuốn sách ấy khiến tác giả và tôi trở thành chúng ta không thuộc về nhau.
Sau nhiều não nề và đắng cay, tôi nhận ra rằng, để giữ nguyên ấn tượng đẹp về những cuốn sách đã đọc thời thơ trẻ, thì thôi, ta đừng tìm lại nhau. Cũng như chớ nên tìm lại crush thời hoa niên, ta đâu có tinh thần sẵn sàng gặp lại một quý bà/ông toàn phần đề đạm?

Thứ Tư, 22 tháng 1, 2025

Bánh mì kẹp và Ocean Vương

Như một số người có thể đã biết, và một số người khác có thể chưa biết, tôi thích ăn bánh mì kẹp. Tôi thích ăn bánh mì kẹp tất nhiên vì cái tổng thể của vỏ bánh giòn, pa tê đậm vị, ngò thơm, đồ chua tất nhiên chua và thịt nguội tất nhiên nguội, nhưng hơn hết tôi thích bánh mì kẹp vì những miếng ớt nhỏ nằm lẩn quất đâu đó. Ai đó sẽ bảo thích ăn ớt thì cứ việc ăn, việc gì cứ phải bánh mì kẹp mới có ớt. Không, vấn đề không phải là vị cay của ớt, mà vấn đề là sự bất ngờ. Mấy miếng ớt xắt, cố thủ đâu đó giữa dưa leo và chả lụa, hoặc giữa mấy sợi cà rốt chua xà nẹo nhau, hoặc tinh tế mắc vào mép trái cọng ngò, ở những vị trí ngẫu nhiên và không thể dự đoán. Ờ, cố nhiên là ta biết ở trỏng có ớt, ta chỉ không biết nó ở đâu. Để rồi, khi ta cắn phập ổ bánh mì một phát, phát đầu có thể chưa thấy gì, nhưng phát thứ hai, hay phát thứ ba, một vị cay thình lình làm ta xé lưỡi, xộc lên óc, rồi vừa nhai vừa hít hà. Sướng là ở đó.

Nói về sướng, trong buổi nói chuyện của Ocean Vương, Ocean có nói ý như thế này khi một bạn hỏi về chuyện hiểu một bài thơ. Khi bạn đọc một bài thơ mà bạn thấy sướng, nghĩa là bạn đã hiểu bài thơ rồi. Chẳng phải bạn đến với thơ ca hay nghệ thuật nói chung là để sướng sao. Bạn không cần phải phân tích được cái sướng, ai đem phân chất một mùi hương (ref: Xuân Diệu)?

Ocean Vương còn nói thế này về việc đọc và viết, khi có một thính giả hỏi bạn ấy viết như thế nào, làm thế nào để biết mình bắt đầu ở đâu và kết thúc ở đâu, là bạn ấy tránh những mẫu hình có sẵn, có mở đầu, phát triển, cao trào, kết thúc, và tìm cách kể một câu chuyện theo cách riêng của mình, có "dấu vân tay" của mình. Quan trọng không phải kể cái gì mà kể như thế nào. Khi đọc cũng thế, một tác phẩm giữ chân được người đọc là một tác phẩm có thể mang đến sự bất ngờ. Cả đọc cả viết đều cần tránh những công thức.

Về sự bất ngờ, ngày xưa Bàn Tải Cân đã viết trong câu thơ trác tuyệt: "Thơ hay ở chỗ bất ngờ". Dĩ nhiên, Bàn Tải Cân sẽ không phải là Bàn Tải Cân nếu câu bát không bất ngờ thế này: "Người hay ở chỗ đêm mơ xuất tình."

Tới đây dừng bất thình lình.

Thứ Tư, 15 tháng 1, 2025

Bài tập cho trí nhớ

Bây giờ là 5 giờ sáng một ngày chủ nhật. Lẽ ra tôi còn phải đang khò khò, nhất là đêm hôm trước còn hơi quá chén, nhưng tôi lại đang bật laptop và gõ những dòng này. Thời gian thật nghiệt ngã. Ở tuổi hai mươi, người ta có thể ngủ tới chín, mười giờ sáng và vẫn thấy thèm ngủ. Ở tuổi hai mươi người ta có thể thức xuyên đêm đọc một cuốn sách và mười năm sau vẫn nhớ rành mạch từng chi tiết trong cuốn sách đó. Ở tuổi khi đã có con sắp bước vào tuổi hai mươi, người ta, tức tôi, không còn thèm ngủ nhiều như xưa, và mau chóng quên đi những gì mình đã đọc. Chính vì vậy, một yêu cầu nho nhỏ của nhà Z, hãy kể lại một năm đọc sách của mình, đâm ra thành một thách thức. Tôi chấp nhận thách thức đó, bằng cách cố nhớ lại những cuốn sách nào đã gây ấn tượng cho mình trong năm qua, mà không giở lại bất kỳ trang sách nào.

Hãy bắt đầu bằng một bộ phim, phim truyền hình thì đúng hơn (ngoài lề 1: tôi vẫn kinh ngạc khi thấy cho tới bây giờ một số bậc thức giả vẫn không phân biệt được phim truyền hình và phim điện ảnh, và vẫn nồng nhiệt khen chê lẫn lộn trên mặt báo) (ngoài lề 2: series, thời tiếng Anh chưa phổ biến như thời nay, vẫn được gọi là phim truyền hình nhiều tập, giờ đây, ngang nhiên được gọi là “loạt phim”, một Netflix series được gọi là “loạt phim Netflix”, thật quái gở), Six Feet Under. Mỗi tập phim này bắt đầu bằng một cái chết. Một tập phim khởi đầu với cảnh bà vợ đang chuẩn bị ăn sáng cho chồng, chiên trứng, rót nước cam, bày đĩa trước mặt chồng, trong khi đó, ông chồng thao thao bất tuyệt về một chuyện gì đó. Khi xem, tôi đang băn khoăn, ông này nói cái gì chán thế, thì trên ti vi, bà vợ không nói không rằng, lấy cái chảo vừa mới chiên trứng xong, quật một phát thật lực vào đầu ông chồng, và đó là cảnh mở đầu tập phim này. Ý nghĩ đến ngay trong đầu tôi ngay lúc đó là, ồ, cảnh này thật là tiểu thuyết. Tôi hoàn toàn không có ý nói cảnh đó giả tưởng, không tin được, mà ngược lại, nó rất đáng tin, và đó là một phẩm chất của tiểu thuyết.

Tiểu thuyết, theo tôi, là loại hình nghệ thuật nói được những sự thật không thể nói ra, diễn tả được những khía cạnh bất định của hiện hữu, nhìn thấy được sự đa dạng của cuộc sống mà ở đó cách suy nghĩ, hành xử của mỗi con người được lèo lái bởi những động cơ bên trong không dễ gì nhìn thấu. Những tiểu thuyết đích thực giúp người đọc hiểu hơn một chút về con người, nhưng đồng thời nếu đọc xong một tiểu thuyết mà ta thấy hoang mang hơn về con người thì ấy có thể là dấu hiệu của tiểu thuyết đích thực. Chính vì lẽ đó, mối quan tâm lớn của tôi trong sự đọc là tiểu thuyết. Tôi vẫn đọc khảo cứu, tiểu luận, non-fiction nói chung, nhưng tiểu thuyết mới là thứ mà tôi dành thời gian cho nhiều nhất, trong quỹ thời gian ít ỏi còn lại của tôi sau chục tiếng văn phòng hằng ngày, sau những buổi chạy bộ, leo núi, và trong sự chống chọi mạng xã hội cùng những “loạt phim Netflix”.

Tôi nhớ mình dự định năm nay sẽ dành thời gian đọc lại là chủ yếu, nhưng như nhiều dự định khác, đây là một trong những dự định bất thành. Dù sao đi nữa, tôi nhớ đã bắt đầu năm đọc sách của mình bằng Người xa lạ của Camus. Đây là lần thứ ba hay thứ tư tôi đọc cuốn sách mỏng dính này qua các bản dịch khác nhau và lần nào tôi vẫn còn nguyên vẹn cảm giác lãnh một cú đấm vào mặt. Tôi không nghĩ anh chàng nhân vật chính trong cuốn tiểu thuyết này vô cảm. Anh ta không xử sự theo cách mà đa số mọi người mong đợi, không tỏ vẻ buồn đau, khóc than khi mẹ mất, không hẳn là anh ta không có cảm xúc. Đó là chỉ là một cách ứng xử khác trong vô số cách ứng xử có thể có, nhưng người ta thường nghĩ rằng trong một tình huống A thì cách ứng xử nhất định phải là B, hễ thế này thì nhất định thế kia, nhưng ở đây nhân vật lại ứng xử theo kiểu Z. Tôi cũng không thấy có gì phi lý trong cách nhân vật chính vô cớ giết người. Rất có thể cái chết của mẹ anh ta tác động tới anh ta nhiều hơn anh ta tưởng, và mặt trời chói chang, cái nóng hay con dao của gã Ả rập chỉ là điểm kích hoạt cho hành động có vẻ như bột phát của anh. Dĩ nhiên, đây chỉ là một giả thuyết. Việc Camus chưa bao giờ giải thích động cơ cho hành vi này khiến cho cuốn tiểu thuyết mãi mãi mang một vẻ bí ẩn.

Khi đọc Một chủ nhật khác của Thanh Tâm Tuyền, tôi thấy có hơi hướm của Người xa lạ, mặc dù tôi có nghe nói rằng Thanh Tâm Tuyền khoái Malraux chứ không phải phải Camus. Trong Một chủ nhật khác, có chuyện Trung úy Kiệt, trong một lần được xả trại đã leo lên một chiếc xe đò đi thẳng xuống một tỉnh miền Tây thuê phòng trọ nằm ngủ một mình một đêm thay vì về nhà với vợ. Về sau, vợ Kiệt phát hiện ra chuyện này, Kiệt buộc phải bịa chuyện là mình ngoại tình thì được vợ tin và tha thứ, chứ còn chuyện thuê phòng trọ nằm một mình bởi không muốn gặp gỡ ai, không muốn trò chuyện với ai thì không bà vợ nào tin được. Cũng giống như trong Người xa lạ, nhân vật chính được trông đợi là phải buồn đau khi mẹ mất, ở đây, Kiệt được [vợ] trông đợi là phải ngoại tình. Họ được trông đợi ứng xử theo những mẫu hình khuôn khổ, có thể đoán định được. Nhưng tiểu thuyết là phải bắt được những cách ứng xử không theo khuôn, bởi con người là một động vật cực kỳ phức tạp, đâu có thể dễ dàng quy giản? Một chủ nhật khác cũng là cuốn sách tôi đọc hai lần gần như liên tục.

***

Những chuyến bay thường là thời gian đọc sách lý tưởng nhất, bởi khi đó ta không bị quấy rầy bởi email, tin nhắn và nhất là Facebook. Khi bay, tôi thường mang theo Kindle. Đó cũng là một lựa chọn lý tưởng, vì Kindle gọn, nhẹ, chứa được nhiều sách nên đỡ phải băn khoăn mang cuốn gì theo trước khi bay. Cũng nhờ Kindle tôi có thể mua sách từ nước ngoài chỉ mất vài giây. Với những cuốn sách không được phát hành rộng rãi hoặc đã tuyệt bản, thì Kindle quả là cứu tinh. Tôi đã đọc Night Prayers của Santiago Gamboa, một nhà văn Colombia, tập truyện ngắn Sáng tác mới 2023 do ZZZ review tuyển chọn và Mùa biển động của Nguyễn Mộng Giác bằng Kindle và hầu như trên những chuyến bay.

Tôi còn chưa nghe tên Santiago Gamboa khi đọc Return to the Dark Valley của ông hồi năm ngoái. Vì một lý do nào đó, Amazon “recommend” ông cho tôi. Cái nhan đề cuốn hút, cộng thêm mác nhà văn Colombia với phong cách gần giống Roberto Bolaño khiến tôi nhắp chuột ngay tắp lự, để rồi sau đó nhắp chuột lần nữa, tải Night Prayers về Kindle. Dường như tình dục, chính trị và bạo lực là đặc sản của các nhà văn Mỹ La tinh. Tất cả món này có trong Night Prayers, câu chuyện về một cậu sinh viên triết học vướng vào vận chuyển ma túy nên phải ngồi tù ở Bangkok và người chị tìm mọi cách để cứu cậu ra. Nhưng cũng như trong các tiểu thuyết của Bolaño, Night Prayers có rất nhiều digression – ngoại đề hay chuyện ngoài lề. Một trong những đoạn ngoài lề bàn về bạo lực ở Colombia mà tôi thích thú đó là khi một nhân vật nói đại ý rằng hòa bình mà ta thấy ở châu Âu ngày hôm nay (sách viết trước khi chiến tranh Nga – Ukraina nổ ra) chỉ có được sau hai nghìn năm giết chóc, và các quốc gia châu Âu khi cùng tuổi với Colombia ở thời điểm hiện tại tàn sát lẫn nhau, máu chảy thành sông, nội chỉ việc Hồng quân chiếm Berlin vài tuần đã khiến nhiều người chết hơn cả một thế kỷ xung đột ở Colombia, bạo lực là một phần của lịch sử và Colombia sẽ tiến tới hòa bình nhanh hơn, và ít đổ máu hơn châu Âu. Cũng nhân vật đó cho rằng châu Âu không có tương lai. “Đó là một châu lục mệt mỏi, xấu tính cố gắng dạy dỗ người khác phải sống thế nào, nhưng lại trở nên đông cứng do tự ngắm mình quá nhiều trong gương.” Night Prayers có phải là cuốn xuất sắc hay không? Tôi nghĩ là không. Nhiều chỗ nó ly kỳ một cách không cần thiết, hơi giống các phim truyền hình Tây Ban Nha hay Mexico với các nhân vật hay hoa tay múa chân và nói sùi bọt mép, nhưng được cái nhịp độ nhanh nên không buồn ngủ.

Các truyện ngắn trong số Sáng tác mới 2023 do ZZZ Review tuyển chọn mang tới cho tôi nhiều bất ngờ. Nếu tại thời điểm này hỏi lại truyện nào của ai viết gì thì tôi chịu, nhưng ấn tượng chung khi đọc là các truyện đều mới mẻ. Cái cách các tác giả dựng truyện, chủ đề họ theo đuổi, ngôn ngữ họ sử dụng ít thấy dấu vết  của các tác giả Việt Nam thế hệ trước. Đọc họ, thấy ảnh hưởng của các nhà văn nước ngoài nhiều hơn, và có vẻ như họ còn đọc trực tiếp nguyên tác không qua bản dịch. Điều này cũng thể hiện phần nào trong cách họ hành văn. Người khó tính sẽ cho đó là văn thiếu chỉn chu. Người không khó tính lắm có thể cho rằng mỗi thế hệ có cách diễn đạt riêng của họ, và nhóm các tác giả này đã tìm được cách diễn đạt phù hợp với thời họ đang sống.

Một thành tựu trong năm của tôi là đã đọc xong bộ trường thiên tiểu thuyết năm tập Mùa biển động của Nguyễn Mộng Giác bằng Kindle. Vâng, với sự cạnh tranh khốc liệt của các “loạt phim Netflix” thì cày vài “loạt phim” không phải chuyện gì to tát, nhưng đọc xong mấy nghìn trang của một cuốn sách nhất định phải tự coi đó là thành tựu. Do cách dàn trang, format không chuẩn của các file Kindle mà tôi đã đọc tập 3, tập về Mậu Thân, cũng là tập hay nhất, trước tiên rồi mới quay lại đọc tập 1, tập 2. Giả như tôi đọc thì tập 1 thì chưa chắc tôi đã hoàn thành. Có lẽ vì định bụng viết trường thiên tiểu thuyết nên tác giả dàn cảnh hơi lâu, điều này hoàn toàn hiểu được, khoảng hai, ba chương đầu của tập 1 chưa hứa hẹn gì. Tôi nghĩ viết tiểu thuyết dài cũng giống như chạy marathon, nếu khởi đầu hăng quá thì mau đuối sức. Nguyễn Mộng Giác rõ là người chạy marathon tốt.

Câu chuyện của Mùa biển động xoay quanh một nhóm bạn và các thành viên gia đình của họ, bắt đầu tại Huế khoảng năm 65-66, rồi theo chân các nhân vật đến Quy Nhơn, Buôn Mê Thuột rồi Sài Gòn vắt qua mốc 75 kèo dài đến khoảng năm 80. Một không gian rộng lớn và một quãng thời gian khá dài như thế nên Mùa biển động đương nhiên có nhiều câu chuyện, nhiều sự kiện, chủ đề: phong trào đấu tranh của sinh viên Huế, sự kiện Mậu Thân, chuyện văn giới miền Nam, quân Việt Nam Cộng Hòa thất thủ ở cao nguyên và Huế, trại cải tạo, vượt biên.v.v. Tôi đặc biệt quan tâm những chương viết về tranh luận, đối đầu giữa ba người bạn thân Ngữ, Tường, Ngô. Qua họ, ta có thể hình dung ra các trí thức trẻ miền Nam trước đây đã suy nghĩ, băn khoăn, lựa chọn hướng đi ra sao. Rõ ràng họ có quyền lựa chọn hướng đi, trong mối tương quan với các trí thức trẻ miền Bắc cùng thời kỳ; rõ ràng không ai chọn hướng đi giùm họ, nhưng sự tự do lựa chọn không bảo đảm gì họ có một lựa chọn đúng đắn. Dẫu gì thì họ đã được sống và trả giá bằng lựa chọn của  chính mình, nên đấy cũng là một niềm an ủi.

Mùa biển động có những trang viết về tình yêu thật đẹp, tôi nghĩ thuộc loại đẹp nhất trong văn chương Việt Nam. Mùa biển động cũng có những đại cảnh được viết lại dựa trên các hồi ký (của Hoàng Khởi Phong và Cao Xuân Huy) nên rất sống động. Tuy không nên so sánh giữa tiểu thuyết và hồi ký, nhưng phần viết lại Tháng ba gãy súng của Cao Xuân Huy trong tập 4 của Miền biển động tôi thấy hay hơn sách của họ Cao. Mùa biển động, chắc chắn là một trong những tiểu thuyết xuất sắc nhất của văn học Việt Nam, cùng với Sông Côn mùa lũ.

***

Quãng thời gian cuối năm, tôi muốn dành thời gian cho cổ điển. Đó là lý do tôi quyết định bắt đầu đọc Giáo dục tình cảm của Flaubert qua bản dịch Lê Hồng Sâm. Tôi rất thẹn thùng tiết lộ rằng tôi đã định đọc cuốn này từ 10 năm trước, thế nhưng, dẫu biết rằng lao đầu vào các tác phẩm cổ điển sẽ được tưởng thưởng xứng đáng, thực tế tác phẩm cổ điển đồng thời  cũng tạo ra một nỗi ngán ngại. Ta có đủ thời gian cho nó không? Ta có kiên nhẫn lật dở từng trang của cuốn sách dày cộp không khi còn bao sách chất đống quanh nhà?  Thời gian trôi rất vội, bữa ăn trưa chỉ có năm phút, mà tác giả thì tỉ mỉ, kể lể chi tiết từng hoa văn trên váy áo, từng món xốt trên bàn tiệc, từng vết cào trên da. Trong khi đó, như bao người khác, tôi còn dễ bị dẫn dụ bởi bao nhiêu sách vở, phim ảnh bình thường, tầm thường, ngớ ngẩn hoặc chỉ để giải trí. Bước vào một tác phẩm cổ điển, tuy không đến nỗi phải tắm rửa dọn mình, nhưng ít ra cần toàn tâm, toàn ý, dành thời gian cho nó. Thực tế, tôi mất khoảng 4 tuần mới đọc xong Giáo dục tình cảm.

Giáo dục tình cảm quả nhiên là đỉnh cao của nghệ thuật tiểu thuyết. Hầu hết các tiểu thuyết gia lớn đều giữ khoảng cách với nhân vật của mình, nhưng tôi nghĩ, với Flaubert, ông đã đạt tới sự khách quan tuyệt đối với các nhân vật tiểu thuyết. Tôi nhận thấy ông không bao giờ tỏ ra yêu, ghét, giận dữ, thương mến, hay bất kỳ tình cảm nào với các nhân vật của mình, dù họ đáng yêu hay đáng khinh đến mức nào.

Ông tả cái sự mê gái hay thôi rồi. Khi say một người con gái, say làn da lộng lẫy, vóc dáng quyến rũ, hay những ngón tay thanh tú đã đành. Nhưng cái sự say mà ông miêu tả, nó đi sâu và xa làm sao. Say là say cả đồ vật người ta sở hữu, là tò mò, muốn biết tất tần tật về cuộc đời người ta: “Anh nhìn giỏ đồ khâu của nàng với niềm kinh ngạc, như một vật phi thường. Nàng tên gì, ở đâu, cuộc đời nàng, quá khứ của nàng ra sao? Anh ước mong biết được đồ đạc trong phòng nàng, mọi áo váy nàng đã mặc, những người nàng giao du; và ham muốn chiếm hữu thể chất thậm chí cũng tan biến dưới một khao khát sâu xa hơn, trong một nỗi tò mò đau đớn vô biên.” Đúng là đỉnh về say mê.

Tôi tìm hiểu một chút thì biết được Flaubert đã mất năm năm nghiên cứu để đảm bảo các chi tiết lịch sử trong sách chân thực tối đa. Chẳng hạn như trong sách có viết cuộc bạo loạn đã đốt năm đống lửa trong cung điện, thì trong thực tế lịch sử đã có năm đống lửa, chứ không phải bốn, hay sáu được đốt. Đây là một gợi ý cho các nhà văn khi viết về lịch sử, có hư cấu thế nào thì cũng phải đảm bảo các chi tiết lịch sử chính xác.

Giáo dục tình cảm là một tiểu thuyết lớn, nên tôi nghĩ tôi cần đọc lại nó sau ba hay năm năm nữa. Đọc, là để đọc, để quảng cáo cho bạn bè đọc, chứ viết gì về nó tôi cũng thấy nông cạn.

***

Những cuốn trên đây cơ hồ là những cuốn tôi nhớ nhất trong năm nay. Cũng có những cuốn khác, khi đọc, tôi thấy hay, thậm chí rất thích, nhưng đến giờ hỏi tôi cuốn sách ấy viết về cái gì thì chịu. Trí nhớ tôi quả thật rất suy tàn. Tuy vậy, nhờ Goodreads nhắc, tôi biết tôi đã đọc và thích những cuốn sau: Một chỗ trong đời của Annie Ernaux, Người cô độc của Christopher Isherwood, Tiếng núi của Kawabata (rất hay), Sậy của Thuận (tôi thích cuốn này nhất trong những cuốn gần đây của Thuận) và Hành trình yêu của Alain de Botton.

Cũng xin thú nhận, nếu nói bài viết này là bài tập cho trí nhớ, thì bài tập này đã thất bại. Tôi đã không nhớ tên nhân vật chính trong Người xa lạ nên phải đi tra. Cũng như để có những đoạn trích trong Night Prayers hay Giáo dục tình cảm tôi buộc phải lần lại những trang đã đánh dấu.

Để kết thúc bài một năm đọc sách, tôi muốn trích một đoạn thơ trong một cuốn sách ra đời lặng lẽ tháng cuối năm, lặng lẽ như chính tác giả của nó, cuốn Thơ Phan Đan.

“Những cành cây/hai lần chết chém

Những đám mây/hai lần bị bắn

Và nụ cười tôi/hai lần bị treo cổ/cái màu đỏ điên rồ/khi tôi đón em.”

Tập thơ này có 160 bài, hơn 400 trang. Hầu hết các bài đều viết đã lâu, như rượu được ủ nhiều năm. Mỗi ngày, tôi nhấm nháp một ít, tự thưởng cho mình (vì đã vâng lời chị Z).

  

Thứ Ba, 23 tháng 8, 2016

Đọc lại: Du hành cùng Herodotus

Chỉ có đọc lại mới đáng kể - một nhà nào đó đã nói về việc đọc sách, chính xác lại là "đọc lại sách", như thế.

Một nhà nào đó khác đã nói, nếu một cuốn sách không xứng đáng để đọc lại, thì mắc mới gì phải cầm nó lên và đọc lần đầu tiên.

Tôi, một mặt "quán triệt"  những lời thông thái trên; mặt khác do tính ham của lạ nên hay đọc tứ tung, tuy vậy hằng năm đều dành thời gian để đọc lại một số cuốn mà tôi thấy đáng để đọc lại. Hiện, tôi đang đọc lại cuốn Du hành cùng Herodotus của nhà báo Ba Lan Ryszard Kapuściński, qua bản dịch từ tiếng Ba Lan của Nguyễn Thái Linh

Hồi đọc lần đầu năm 2009, tôi có nói đâu đó rằng nếu bạn chỉ đọc một cuốn du ký duy nhất thì nên đọc cuốn này. Giờ đọc lại, tôi thấy gọi cuốn này là du ký e có phần lầm lạc. Tôi không có vấn đề với thể loại du ký, nhưng có vẻ những cuốn xuất sắc nhất trong thể loại này đều đứng trên, vượt ra ngoài thể loại. Ngoài ra, du ký nhất là ở Việt Nam gần đây hầu như ai cũng viết được. Đi một tí, ngó nghiêng một tí, wiki một tí, thêm vài chuyện nhăng nhít ngồ ngộ, là lạ thế đã thành sách du ký rồi. Vì vậy, tôi không muốn gọi Du hành cùng Herodotus là du ký nữa.

Vậy nên gọi nó là gì? Tôi thấy nó là một bài review sách khổng lồ, chứa đựng một khối tò mò khổng lồ. Vâng, đúng là trong cuốn sách này, RK sẽ dẫn ta đến Ấn Độ, Trung Hoa, Ai Cập, Congo và rất nhiều địa danh khác .v.v.. Nhưng phần quan trọng nhất của cuốn sách là những trang review cuốn Sử ký của Herodotus, giúp ta gián tiếp đọc cuốn sách ắt là kỳ thú này. 

Cách làm của RK là nhẩn nha lật một trang Sử ký, chép lại cho chúng ta vài đoạn, và rồi đặt ra vô số câu hỏi, hệt như một cậu bé có óc tò mò vô hạn. Chẳng hạn như, RK thuật lại chuyện Herodotus kể về người Babylon chống lại người Ba Tư, để làm việc đó, người Babylon đồng ý với nhau là bóp ngạt các thành viên nữ trong gia đình, trừ mẹ và một người mà họ phải chọn, để tiết kiệm thực phẩm trong công cuộc chống người Ba Tư. Họ bàn bạc với nhau như thế nào? có ai bất đồng không? có ai phát điên không? làm thế nào họ chọn bóp ngạt vợ hay con gái, bà hay em gái? rồi họ xử lý xác như thế nào, những vài chục ngàn xác người cùng một lúc? bóp ngạt xong rồi, họ cảm thấy như thế nào? RK sẽ đặt ra những câu hỏi như thế, xuyên suốt cuốn sách. Du hành cùng Herodotus do đó là tập hợp của cả hàng trăm câu hỏi, những câu hỏi nối tiếp nhau không có câu trả lời?

Tôi nhặt được rất nhiều thứ trong lần đọc lại này. Có quá nhiều thứ hay ho, quá nhiều thứ gợi suy nghĩ. Tôi thậm chí nghĩ nếu các tổng thống Mỹ đã đọc cuốn này thì họ sẽ không làm tan hoang Iraq hay Syrie, bởi giá trị của một nhà độc tài mà cuốn sách có nhắc tới, trong khi trích dẫn Herodotus.

Sách in năm 2009, không biết ngoài tiệm có còn không. Nếu ai chưa có nên tìm mà đọc; nếu có mà chưa đọc thì đọc đi, không phải hối tiếc đâu.

Thứ Sáu, 25 tháng 3, 2016

Mấy cuốn mới đọc gần đây

Gần đây tôi đọc mấy cuốn tương đối mỏng, nếu không buồn ngủ thì đọc một hai, tối là xong. Sáng dậy gõ vài dòng vào Goodreads làm bằng chứng. Chép  lại ở đây:

Trần Khánh Dư của Lưu Sơn Minh, Đông A xuất bản

đọc cũng được

nhưng "cũng được" chắc không phải từ tác giả muốn nghe :)

nói chung tác giả nói 8 năm mới viết xong, tôi tin, vì rõ ràng tác giả viết công phu và chăm chút

tuy nhiên, công phu và chăm chút không có nghĩa là tác phẩm đạt được những điều tác giả muốn

tác giả muốn khắc họa một Trần Khánh Dư kiêu bạc và cô độc, nhưng cứ lặp đi lặp lại rằng "ông rất cô độc" không hẳn là cách hay

trận hải chiến Vân Đồn gần cuối sách đáng lý phải là một đỉnh điểm, bùng nổ, cái chết của các vị tướng thân cận lẽ ra phải gây nhiều đau đớn hơn, phải làm cho người đọc bùi ngùi, nuối tiếc hơn. Ở điểm này, Lưu Sơn Minh chưa bằng được thầy mình - Hà Ân.

dù sao, tôi vẫn trân trọng nỗ lực của nhà văn và luôn muốn đọc/xem những tác phẩm khai thác đề tài sử Việt


Hồi phục của Phan Hồn Nhiên, Trẻ xuất bản

Rất tệ, một thất vọng lớn so với Ngựa thép của chính Phan Hồn Nhiên ra cách đây hai năm. Ngựa thép đã có dấu hiệu văn hơi Tây, nhưng hãy còn ở trong chừng mực mang đến cho câu văn chút lạ lẫm nhất định, và nói chung thì giọng văn ấy hài hòa với câu chuyện. Còn trong tập này, PHN viết văn như người nước ngoài viết tiếng Việt, hay như dịch từ tiếng nước ngoài ra, mà là một bản dịch rất vụng nữa. Chẳng những PHN dùng cấu trúc dịch từ tiếng nước ngoài, mà cả từ vựng. Người Việt nào sẽ nói "trả từng phần" thay cho "trả góp", hay đặt câu kiểu "cảm xúc được thiết lập bởi...." Hằng hà sa số câu cú và từ dùng ngô nghê như thế trong Hồi phục. Vì văn quá tệ, mọi thứ khác trở nên không còn quan trọng.

Cũng nói thêm, cuốn này đầy lỗi biên tập. Chẳng hạn, trong cùng một trang, lúc thì dùng  "va-li", lúc thì dùng "valise".


Sương mù tháng Giêng của Uông Triều, Trẻ xuất bản

Bối cảnh của Sương mù tháng Giêng chủ yếu trải từ kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ hai sang kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ ba của nhà Trần. Thời kỳ này, nếu chỉ đọc chính sử, ta cũng biết có rất nhiều sự kiện diễn ra; quan trọng hơn, có nhiều "chuyện" để nhà văn tưởng tượng, thêm thắt vào, để thành tiểu thuyết, ví dụ chuyện vua Trần gả An Tư cho Thoát Hoan, chuyện Trần Ích Tắc phản bội, chuyện Trần Bình Trọng hy sinh, chuyện Trần Quốc Toản dấy quân, mối bất hòa giữa Trần Quang Khải và Trần Hưng Đạo, chuyện Trần Khánh Dư tòm tem công chúa Thiên Thụy .v.v..

Uông Triều chọn cách gom gần hết những chuyện trên đây vào Sương mù tháng Giêng, thay vì chỉ khai thác sâu một trong những sử liệu trên. Làm vậy cũng được, nhưng nếu vậy, người đọc trông đợi một cuốn tiểu thuyết bề thế, đầy đặn hơn. Đằng này, rất nhiều chương trong Sương mù tháng Giêng chẳng khác gì những bài đọc lịch sử trong sách giáo khoa lớp 5. Sự sáng tạo của nhà văn là hạn chế.

Vậy nhà văn có sáng tạo không? Có, nhưng rất tiếc, những chỗ ấy thường mang màu sắc cải lương, gượng gạo, sến, non yếu. Những đoạn độc thoại nội tâm của Trần Khánh Dư, Trần Nhân Tông, Trần Ích Tắc thậm chí của Hốt Tất Liệt và Thoát Hoan đều được viết na ná nhau. Quay qua quay lại đều có những câu cảm thán như "ta là ai" "nó là ai mới được chứ". Đoạn đối thoại giữa An Tư và Thoát Hoan thì quá sức cải lương, tầm thường đến mức buồn cười. Ngoài ra, việc nhà văn trộn lẫn giữa phong cách người kể chuyện toàn năng và độc thoại nội tâm là không đạt, gây đứt gãy trong mạch kể, khiến các độc thoại nội tâm đều có vẻ giả tạo.

Tôi rất tiếc không tìm ra được điểm sáng trong cuốn tiểu thuyết này, mặc dù rất quý tác giả!

PS. Giá bìa cao phi lý, 112.000 đồng.



Không ai qua sông của Nguyễn Ngọc Tư, Trẻ xuất bản

 3.5 sao, làm tròn thành 4.

Nếu như cầu thủ bóng đá có người chỉ thiên khiếu mà thành tài, có người vừa có khiếu vừa chuyên cần học hỏi luyện tập, thì Nguyễn Ngọc Tư thuộc loại thứ hai. Tư vừa có khiếu, vừa rất chăm học. Càng về sau, kỹ thuật viết truyện của chị càng cao cường. Kỹ thuật cao không luôn đồng nghĩa có truyện hay, tuy nhiên, cái nào ra cái đó, thấy kỹ thuật cao thì khen kỹ thuật.

Tiêu biểu cho lối viết thiên về kỹ thuật là truyện Đất, truyện dài nhất ở cuối tập. Ở câu chuyện trải qua 4 thế hệ, dữ dội không kém Cánh đồng bất tận này, không thể không phục tác giả tài gói ghém chi tiết, dàn dựng nút thắt nút mở .v.v.. Tuy nhiên, vì khéo quá, dụng công nhiều quá, nên không ép phê bằng Cánh đồng bất tận.

Những truyện đáng chú ý khác trong tập là Tiều tụy vòng quanh, Vực không đáy và một hai truyện nữa nhất thời không nhớ tên (mới nhớ ra một truyện là Giữa mùa chán chết).

Tập truyện này với người khác có thể kể là một thành tựu, nhưng với Tư thì chưa vượt lên chính mình. Tuy nhiên, sự chuyên nghiệp của chị là điều đáng trân trọng.


PS. Tôi sẽ thích hơn nếu tên truyện được rút lại, ví dụ Vực thay vì Vực không đáy, Tiều tụy thay vì Tiều tụy vòng quanh, Chán thay vì Giữa mùa chán chết; còn Không ai qua sông thì có thể rút thành Không! 


 

Thứ Bảy, 16 tháng 1, 2016

Mặt trời mù - giữa thú và người

Nếu như Skin (Thượng đế đã chết trong thành phố, Nguyễn Quốc Trụ dịch) hay Kaputt lập tức quyến rũ tôi bằng sự mỉa mai, sắc sảo ngay từ những trang đầu, thì Mặt trời mù (Curzio Malaparte, Bửu Ý dịch, Nhã Nam và NXB Văn học ấn hành) không như thế. Mặt trời mù khá là...tù mù. Cứ như nó bị chính lớp sương mù trên ngọn Bạch Sơn bao phủ. Vì thế, tôi thấy phần "Khai từ cần thiết" của tác giả quả đúng là cần thiết. Tôi chép lại vài đoạn quan trọng:

"Từ nay ta cẩn phải nói, không phải nể nang người sống làm gì rằng chẳng có một cái gì ở châu Âu xứng đáng để ta phải chết. Cũng chẳng đáng phải chết để chứng tỏ rằng chết là vô ích, rằng cái chết chẳng dùng vào việc gì, chẳng giải cứu được gì, rằng thắng trận có lẽ còn vô đạo đức hơn bại trận; mà cũng chẳng cần chết mới chứng tỏ rằng đứa chết xứng đáng hơn đứa sống. (Vâng, nghiễm nhiên sự thắng trận là một điều nhục nhã. Ở châu Âu, còn gì cho chúng ta đâu, ngoại trừ niềm an ủi đến với chúng ta từ đạo Ki-tô.)"

"...Một trận giặc vô vọng, dưới Mặt trời lãnh đạm, trơ ra, đui mù trước bao nỗi thống khổ của con người. Xin mặt trời soi sáng hành động con người: ta không thể đòi hỏi Mặt trời khổ luỵ theo ta, động lòng vì những nỗi khổ  của ta. Ta không thể đòi hỏi Mặt trời từ tâm, công chính, xót thương. Mặt trời mù."

Khi vượt qua được lớp sương mù trên ngọn Bạch Sơn, tôi thấy mình yêu cuốn sách này không kém gì hai tác phẩm kia của Malaparte. Tôi thích những đoạn viết về thú nói chung và lừa, bò, chó, ngựa nói riêng. Những con vật ấy xâu lại với nhau thành sợi chỉ đỏ, chỉ hồng, chỉ xanh, chỉ đen giúp tôi lần theo những bước chân của viên đại uý, cửa cậu sơn binh Calusia với tiếng lục lạc âm trầm của cậu, không khiến tôi lạc lối trong lớp sương mù chưa lúc nào thôi dày đặc dưới mặt trời mù.

Trong Kaputt, các con vật đóng vai trò cực kỳ quan trọng thì đã hẳn. Tôi lười giở lại sách ra xem, nhưng nhớ không nhầm thì sách chia thành sáu phần, mỗi phần mang tên một con vật: ngựa, chó, chuột, rồi mấy con nữa. Tôi nhớ (thật ra đọc cảnh này rồi thì không thể nào quên, nó đóng đinh vào óc) bầy ngựa chiến đóng băng trên mặt hồ mùa đông. Nhớ lũ chuột chui ra chui vào chân tường một khu ghetto.

Trong Mặt trời mù  củng có thú. Hơn một lần, Malaparte nhắc đến màn đêm như một con thú rình rập con người. Đêm cũng mang lại cho con người cảm giác còn sống, còn sống "trong lòng con thú vĩ đại, nóng hổi." Và khi viên đại uý thì nói với cha Plassier rằng mình chẳng phải là người mà là thú, thì cha Plassier đáp rằng tất cả đều là tạo vật của Chúa. Giữa thú và người là sự bình đẳng. Phải vậy chăng, hay người còn kém thú?

Dưới lớp sương mù trên ngọn Bạch Sơn, là những bước chân hành quân của quân Ý dưới làn đạn pháo của quân Pháp, Dưới lớp sương mù trên ngọn Bạch Sơn, là bước chân lan man của viên đại uý, là tiếng lục lạc bò thấp thoáng ẩn hiện của cậu sơn binh Calusia. Giữa hai nhân vật ấy, có mối dây liên hệ thông qua những con thú (tiếng lục lạc của những con bò đã được đưa đến lò sát sinh, treo trên cổ Calusia). Cả hai cũng có những mối liên hệ riêng rẽ với những con vật. Calusia đeo lục lạc bò trên cổ. Cậu ta có thể trần truồng giữa bầy bò, tự nhiên như thể cậu ta là một thành viên của bầy bò ấy. Calusia cũng là người lao ra dưới trận mưa trái phá để vỗ về một con lừa đang hấp hối. 

Trong cuộc hành quân trên ngọn Bạch Sơn, viên đại uý bị thu hút, luôn dõi theo tiếng lục lạc trên cổ Calusia. Một chi tiết trong hồi ức của viên đại uý hé lộ cho ta biết nguồn gốc sâu xa về mối liên hệ giữa viên đại uý và tiếng lạc: thuở nhỏ, một thằng bé bị rớt xuống hố băng, bạn bè bỏ chạy, chỉ một con chó ngoạm tay cố lôi thằng bé lên. Con chó có lạc đeo ở cổ. Hành động của thằng bé đối với con chó ngay sau khi nó được cứu có thể giải thích bằng cơn hoảng loạn của nó (hay là ngầm chỉ về sự vô ơn của con người?), nhưng dù gì đi nữa, hành động ấy trở thảnh nỗi nhục nhã di căn mà viên đại uý mang theo.

Trước khi phát điên, viên đại uý đã nói những lời minh triết: "Tôi nghĩ bọn vật khá hơn mình nhiều. Chúng nó là những sinh vật thuần khiết, vô tư...Cái làm hỏng con người, cái làm cho con người trở nên dữ tợn, hèn nhát, ích kỷ chính là ý thức về cái chết. Loài vật chúng nó chỉ có cái bản năng sinh tồn, có thể là một linh cảm xa xôi nào đó. Nhưng loài vật không ý thức cái chết. Chúng nó biết chúng nó có thể chết, chứ không biết chúng nó phải chết."

Thứ Ba, 5 tháng 1, 2016

The Sympathizer của Viet Thanh Nguyen

The Sympathizer là tiểu thuyết đầu tay của tác giả Việt Kiều Viet Thanh Nguyen. Cuốn sách nhận được khá nhiều lời khen ngợi từ các nhà điểm sách trên báo Mỹ. 

Trước khi đọc cuốn này, tôi nghe nói đâu đó rằng nếu như Nỗi buồn chiến tranh là góc nhìn chiến tranh của một người miền Bắc Việt Nam thì The Sympathizer là góc nhìn về chiến tranh Việt Nam từ góc độ một người miền Nam. Đọc rồi thì thấy không hẳn như vậy.

Cuốn tiểu thuyết bắt đầu từ những ngày cuối tháng 4 năm 75, khi Sài Gòn sụp đổ và người Mỹ đang tháo chạy. Nhân vật xưng tôi, người kể chuyện, là một điệp viên Cộng sản cài trong bộ máy cảnh sát của chế độ Sài Gòn với vai trò trợ lý cho một viên tướng cảnh sát. Anh này được lệnh của cấp trên cùng thoát sang Mỹ để tiếp tục báo cáo tin tức về hoạt động chống phá cách mạng từ Mỹ của viên tướng kia cũng như của người Việt ở nước ngoài. Viên tướng rồi sẽ tổ chức được một lực lượng vũ trang nhỏ đưa về Thái Lan, dự định xâm nhập biên giới Việt Nam từ đó. Anh điệp viên, vì lý do muốn bảo vệ người bạn của mình, một chuyên gia ám sát do CIA đào tạo, đã chống lệnh cấp trên  mà cùng về trong chuyến đi này. Những gì đón chờ anh và đồng đội tại Việt Nam không quá khó để đoán ra. 

Phần lớn cuốn sách là lời thú tội của anh viết trong trại giam. Vài chương cuối thuật lại những gì xảy ra trong trại giam, những găp gỡ bất ngờ, và khoảnh khắc anh nhận ra, among others, cái gì quý giá hơn độc lập tự do. Chúng ta đều biết đó là cái gì!

Cuốn sách không hẳn là góc nhìn về chiến tranh. Cuốn sách là góc nhìn vào chính mình của một người vừa thuộc về hai nơi chốn vừa chơi vơi không thuộc về nơi nào. Không thuộc về bên này cũng không thuộc về bên kia. Không thuộc về Mỹ cũng chẳng thuộc về Việt Nam. Thậm chí, để cho chủ đề không thuộc về đâu thêm trọn vẹn, tác giả còn cho nhân vật của mình là một đứa con lai nửa Việt nửa Pháp. Số phận của anh ta vì thế định mệnh là một số phận bi kịch.

Trừ vài chỗ hơi trầm trọng, thì The Sympathizer là một cuốn sách well-written. Đoạn tả cảnh tháo chạy ở sân bay Tân Sơn Nhất hồi hộp như xi nê hành động. Đoạn tả cảnh tra tấn trong trại giam thì giống như phim Hitchcock. Nhiều đoạn viết về văn hoá Mỹ và văn hoá Việt Nam đích đáng. Chẳng hạn, viết về người Mỹ, thông qua phát ngôn của một Việt Cộng:"Americans are a confused people because they can't admit this contradiction. They believe in a universe of divine justice where the human race is guilty of sin, but they also believe in a secular justice where human beings are presumed innocent. You can't have both...They pretend they are eternally innocent no matter how many times they lose their innocence." (Người Mỹ là một dân tộc hoang mang/rối rắm bởi lẽ họ không thừa nhận mâu thuẫn này. Họ tin vào một vũ trụ với công lý Chúa trời mà ở đó giống người là có tội, nhưng họ cũng tin vào một thứ công lý thế tục nơi con người được giả định là vô tội. Ngươi không thể có cả hai...Họ vờ mình vĩnh viễn ngây thơ vô tội bất kể họ đánh mất sự ngây thơ vô tội bao nhiêu lần rồi.) Hay đoạn viết về người Việt: "...the government doing its best to steal from the Americans, the average man doing its best to steal from the goverment, the worst of us doing our best to steal from each other." ("...chính quyền cố hết sức để ăn cắp của người Mỹ, dân thường cố hết sức để ăn cắp của chính quyền, còn đám tệ nhất trong chúng ta thì cố hết sức để ăn cắp lẫn nhau.")

Ngoài ra, đoạn tả mực ống trong cuốn sách này rất có thể khiến ta ngờ vực mỗi khi món mực ống được dọn ra trên bàn ăn, rằng liệu có thằng nhóc nào đã chơi ngẵng với con mực trước khi được cho lên chảo không?

Thứ Sáu, 1 tháng 1, 2016

Một năm đọc sách: 10 cuốn sách của năm 2015

Một năm qua đi, sách vở còn lại gì? Phải chăng là những huyên náo từ vài vụ tố cáo đạo văn, những ầm ĩ không đáng có về bản dịch một bài thơ cổ, hay cuộc tranh cãi có phần vô duyên về một cái bìa sách? Rất may, đối với người đọc sách, cái còn lại sau một năm là…những quyển sách. Trong bài viết này, người viết nhìn lại một năm đọc sách của mình, và chọn ra 10 cuốn sách đáng đọc nhất trong năm. Lựa chọn này giới hạn trong những cuốn sách xuất hiện lần đầu trên thị trường sách Việt Nam từ cuối 2014 cho đến hết 2015. Tất nhiên, lựa chọn của người viết mang tính chủ quan, bởi lẽ, có sự lựa chọn nào mà không chủ quan?

Cánh cửa (Szabó Magda, Giáp Văn Chung dịch, Nhã Nam & NXB Văn học)

Szabó Magda là nhà văn hàng đầu Hungary, tác giả nhiều vở kịch, tiểu thuyết, tiểu luận. Cánh cửa chỉ mới là tác phẩm đầu tiên của bà được dịch ra tiếng Việt. Cuốn sách kể về mối quan hệ lạ lùng giữa một nhà văn nữ - hiện thân của chính tác giả, và Emerenc, người giúp việc nhà. Tuy nhiên, Emerenc không phải là một người giúp việc bình thường. Đó là một bà già lập dị, mạnh mẽ cả về thể xác lẫn tinh thần, làm việc chuyên cần, đồng thời có những sức mạnh tinh thần gần như siêu nhiên. Emerenc chắc chắn là một trong những nhân vật giàu cá tính nhất trong lịch sử văn chương. Trên nền mối quan hệ giữa hai người đàn bà này, và trong khi những bi kịch cá nhân của Emerenc dần được hé lộ, Szabó Magda khéo léo phác thảo lịch sử Hungary từ hai cuộc thế chiến đến thời kỳ Stalinist cũng như tình hình chính trị đất nước. Đây là cuốn sách có vẻ ngoài dường như buồn tẻ nhưng thực chất là một kiệt tác. Cánh cửa cũng được chọn là một trong 10 cuốn sách hay nhất năm theo tờ The New York Times.

Những quy luật về sự tiến hóa của các dân tộc (Gustave le Bon, Nguyễn Tiến Văn dịch, Alphabooks & NXB Thế giới)

Đây là cuốn sách thứ ba của Gustave le Bon, nhà tâm lý xã hội, nhà nhân chủng học người Pháp, được dịch ra tiếng Việt sau Tâm lý học đám đôngCách mạng Pháp và tâm lý học của các cuộc cách mạng. Tác phẩm của ông luôn đưa ra những kiến giải đặc sắc về tâm lý nhóm, cộng đồng hay chủng tộc. Quan điểm của ông thường gây tranh cãi, thậm chí bị coi là cực đoan. Trong cuốn sách này, luận điểm chính của ông là mỗi chủng tộc có những đặc điểm tâm lý nhất định mà ông gọi là tâm hồn của chủng tộc. Tâm hồn ấy được hình thành từ một quá trình lâu dài trong lịch sử, không chỉ tổng hợp đặc điểm tinh thần những người đang sống mà trên hết là tích lũy phẩm chất của tổ tiên. Tâm hồn của chủng tộc do vậy mang tính ổn định cao và là yếu tố căn bản quyết định định mệnh của chủng tộc. Ông chứng minh cho luận điểm của mình bằng những ví dụ về hưng và vong của La Mã cổ đại, cách mạng Pháp, bằng cách so sánh Hợp chủng quốc Hoa Kỳ với các nền cộng hòa Nam Mỹ…Có những quan điểm của ông có thể coi là phân biệt chủng tộc mà ngày nay chúng ta khó lòng chấp nhận. Tuy vậy, nhìn chung đây là cuốn sách rất đáng đọc và suy ngẫm, nhất là trong mối liên hệ với chính chủng tộc chúng ta.

Bức xúc không làm ta vô can (Đặng Hoàng Giang, Nhã Nam & NXB Hội nhà văn)

Trong khoảng hai năm gần đây, một loạt bài bình luận các hiện tượng văn hóa, xã hội được viết theo một phong cách vừa nghiêm túc vừa hài hước thường xuyên được chia sẻ trên mạng xã hội, mà mỗi khi được chia sẻ lại gây phân hóa dư luận khá mạnh. Những bài bình luận ấy giờ đây được sắp xếp cùng nhau trong cuốn sách có cái tên sắp trở thành một thành ngữ mới: Bức xúc không làm ta vô can. Đã lâu rồi, chúng ta mới có một nhà bình luận xã hội sắc sảo mà không chua ngoa, thông tuệ nhưng không kém hài hước như Đặng Hoàng Giang. Những vấn đề Đặng Hoàng Giang đề cập, có thể người khác cũng nhìn thấy, chẳng hạn chuyện ngôi sao làm từ thiện câu “like”, hay chuyện xã hội đắm chìm trong các chương trình truyền hình thực tế, nhưng Đặng Hoàng Giang có khả năng phân tích các hiện tượng như thế rành mạch, dí dỏm, và đáng quý hơn, gợi ý những ứng xử phù hợp hơn. Các bài viết của anh do đó mang một phong vị tích cực. Cuốn sách chủ yếu bàn tới các vấn đề thời sự, nhưng giá trị của nó nằm ở hơn một lần đọc.

Cuộc đời yêu dấu (Alice Munro, Nguyễn Đức Tùng dịch, NXB Trẻ)

Sau Trốn chạy, Alice Munro đến với độc giả Việt Nam qua tập truyện ngắn mới nhất và cuối cùng (bà đã tuyên bố ngừng viết), Cuộc đời yêu dấu. Vẫn là một Munro ta từng biết: văn phong giản dị, những con người bình thường và những sự vật bình thường. Vẫn luôn có rất ít chuyện xảy ra trong truyện của Munro. Các biến cố, nếu có, đều được kể thoáng qua, khiến người đọc lơ đãng có thể mất dấu những chi tiết quan trọng. Munro có biệt tài xử lý thời gian. Truyện của bà thường diễn ra trong một thời gian rất dài, nhưng chỉ bằng một, hai nhát bút, người đọc có thể bị đẩy đi vài chục năm về quá khứ hay tới tương lai. Tương tự, trong cách xử lý nhân vật, ngòi bút bà di chuyển linh hoạt, đưa nhân vật từ hậu cảnh ra trung tâm và ngược lại một cách mượt mà, không cần gắng sức. Đi cùng kỹ thuật viết cao cường, là khả năng khai thác những chiều sâu thăm thẳm, phức tạp của con người. Đặc biệt, Munro cực kỳ thấu hiểu tâm lý phụ nữ, do đó, mô tả chính xác đến rùng mình những trạng thái tâm lý mâu thuẫn của các nhân vật nữ của mình. Những nhận xét trên đây thực ra có thể áp dụng cho bất cứ truyện nào của Munro, nên cũng có thể nói bất cứ tập truyện nào của Munro in ở Việt Nam cũng có thể lọt vào danh sách này.

Đỉnh cao đế quốc và sự hưng vong của Đông Dương thuộc Pháp (Eric T.Jennings, Bùi Thanh Châu & Phạm Viêm Phương dịch, Trần Đức Tài hiệu đính, NXB Hồng Đức)

Đây là cuốn khảo cứu do Ban tu thư của Đại học Hoa Sen giới thiệu và tổ chức ấn hành. Tác giả, Eric T.Jennings, là giáo sư sử học chuyên ngành thực dân người Canada. Bằng phương pháp nghiên cứu của một giáo sư đại học và nhờ vào nguồn tư liệu dày công thu thập từ nhiều quốc gia, ông đã hoàn thành một công trình khảo cứu tỉ mỉ bậc nhất về Đà Lạt, địa điểm ban đầu được chọn làm nơi nghỉ dưỡng cho người Pháp của Đông Dương, nhưng về sau đóng một vai trò quan trọng hơn về quân sự và hành chính. Ngoài những thông tin quý giá, cuốn sách còn mang đến những câu chuyện hấp dẫn không kém một cuốn tiểu thuyết phiêu lưu, chẳng hạn cuộc chạy đua tìm địa điểm xây dựng trạm nghỉ dưỡng cho người Pháp, chuyện nhà bác học Yersin đã phạm sai lầm thế nào khi đánh giá về khí hậu Đà Lạt, hay những chuyện săn voi săn hổ thời đầu thế kỷ hai mươi.

Xa xăm gõ cửa (Nguyễn Bình Phương, Nhã Nam & NXB Văn học)

Từ lâu, Nguyễn Bình Phương đã xác lập vị trí của một nhà văn hàng đầu của văn học Việt Nam thời hiện tại. Nhưng anh còn là một nhà thơ, một nhà thơ đích thực với các tập thơ ra đời tương đối đều đặn, và quan trọng là có một giọng thơ “chất lừ”. Xa xăm gõ cửa, là một tuyển thơ với những bài thơ chọn từ các tập thơ trước (hiện rất khó tìm) cộng thêm một số bài mới, cho phép độc giả tha hồ thưởng thức thơ Nguyễn Bình Phương. Thơ anh nhiều khi ma mị như tiểu thuyết của anh, nhất là những bài thời kỳ đầu. Những lúc không ma mị, thơ anh mang nhiều chất tự vấn (có lẽ là lý do của khá nhiều dấu chấm hỏi trong các bài thơ trong sách). Lúc nào đi nữa, thơ anh vẫn toát ra một vẻ chân thành, ắt vì anh không quá quan tâm đến hình thức. Xa xăm gõ cửa xứng đáng có mặt trên kệ sách những người yêu thơ, bởi lẽ, trong ấy có rất nhiều …thơ, thứ không phải lúc nào cũng có được khi ta đi mua thơ!

Ca tụng bóng tối (Junichiro Tanizaki, Trịnh Thùy Dương dịch, NXB Tổng hợp TPHCM)

Chiếm một vị trí trong danh sách này là cuốn tản văn mỏng Ca tụng bóng tối của nhà văn Nhật Bản Tanizaki. Lừng lẫy không kém Kawabata, nhưng ở Việt Nam, Tanizaki ít được biết đến hơn. Trước đây, ông chỉ mới có hai tác phẩm được dịch ra tiếng Việt là hai cuốn tiểu thuyết ngắn Chiếc chìa khóaYêu trong bóng tối. Ca tụng bóng tối là tác phẩm Tanizaki viết về không chỉ nghệ thuật sử dụng bóng tối trong kiến trúc và thiết kế Nhật Bản, mà hơn thế, về thẩm mỹ và văn hóa Nhật Bản nói riêng, phương Đông nói chung trong cuộc đụng độ với thẩm mỹ và văn hóa phương Tây. Trong cuộc đụng độ ấy, có những người cho rằng ánh sáng – phương Tây mới là đại diện của cái đẹp, cái văn minh, thể hiện ở đèn điện chói lòa, đồ sứ lấp lánh .v.v; còn Tanizaki thì trìu mến chỉ ra vẻ đẹp của bóng tối – phương Đông như một cân bằng với ánh sáng: vẻ đẹp của bát xúp mi-xô sơn mài đen, sân khấu kịch Nô, cách gia giảm ánh sáng trong các nhà hàng, khách sạn. Điều Tanizaki mong muốn là “giữ lại bằng văn chương cái thế giới bóng tối mà chúng ta đang đánh mất”. Với người đọc Việt Nam, cuốn sách này là một gợi ý thật đẹp về cách giữ gìn những giá trị văn hóa và thẩm mỹ Việt, đặc biệt trong thời đại rối loạn về chuẩn thẩm mỹ hiện nay, khi cái giả tạo, cái kệch cỡm, lai căng đang lan tràn.

Là người Nhật – Lịch sử, Thi ca và Kịch bản học quá trình hình thành chế độ toàn trị (A.N. Mesheriakov, Phạm Nguyên Trường dịch, NXB Tri thức)

Mesheriakov là nhà Nhật Bản học người Nga. Đây là cuốn sách tiếp theo của cuốn Hoàng đế Minh Trị và nước Nhật Bản của ngài (chưa được dịch ra tiếng Việt). Là người Nhật là nghiên cứu về những nét đặc thù của sự hình thành chủ nghĩa toàn trị tại Nhật Bản trong nửa đầu thế kỷ hai mươi, có phân tích những điểm khác biệt với chủ nghĩa toàn trị tại Đức và Liên Xô cùng thời. Tác giả khiêm tốn tự nhận cuốn sách chỉ là những nghiên cứu bước đầu, nhiều vấn đề cần đào sâu thêm. Tuy nhiên, độc giả phổ thông hoàn toàn có thể thoả mãn với những phân tích sâu sắc của tác giả về chủ nghĩa toàn trị Nhật Bản. Đó là một “hiện tượng nội sinh”, tức một thứ chủ nghĩa sinh ra bởi bản chất văn hóa nội tại, tuy không đoạn tuyệt, không phá hoại quá khứ (như chủ nghĩa toàn trị tại Đức và Liên Xô) nhưng không phải không gây ra những hậu quả khủng khiếp đối với các dân tộc khác.

Kiên ngạnh như thủy (Diêm Liên Khoa, Minh Thương dịch, NXB Hội nhà văn và Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây)

So với Mạc Ngôn hay Dư Hoa, Diêm Liên Khoa ít được bạn đọc Việt Nam biết tới hơn, song ông cũng là một tên tuổi lớn của văn học Trung Quốc đương đại. Ông từng đoạt các giải thưởng lớn của Trung Quốc như giải Lỗ Tấn, Lão Xá và quốc tế như giải Văn học Kafka 2014. Kiên ngạnh như thủy là tác phẩm thứ ba của ông được dịch ra tiếng Việt sau Vì nhân dân phục vụPhong nhã tụng. Lấy đề tài cách mạng văn hóa như khá nhiều tiểu thuyết Trung Quốc khác, Kiên ngạnh như thủy tạo ra sự khác biệt nhờ cách kể chuyện từ góc độ người trong cuộc. Người kể chuyện ở đây, nhân vật xưng tôi, là một “hồng vệ binh” hăng hái triển khai cách mạng, chứ không phải nạn nhân của cách mạng văn hoá, một góc kể đã quá phổ biến. Dĩ nhiên, không thể không nhắc tới màu sắc tính dục đậm đặc trong tiểu thuyết, làm nền cho một chất hài hước đen hiếm có. Diêm Liên Khoa là giọng lạ của văn học Trung Quốc đương đại. Bản dịch của Minh Thương từng được trao giải văn học dịch của Hội Nhà văn Hà Nội năm 2015.

Lan Hữu (Nhượng Tống, Tao Đàn & NXB Văn học)

Quy tắc nào cũng có thể có ngoại lệ. Chín cuốn trên đây đều là những cuốn sách in lần đầu trong giai đoạn từ cuối 2014 đến hết 2015. Riêng Lan Hữu là sách tái bản. Tuy nhiên, khoảng thời gian 75 năm sau khi in lần đầu và 65 năm sau lần tái bản duy nhất, khiến sự trở lại của Lan Hữu trong năm 2015 chẳng khác một cuốn sách hoàn toàn mới. Đọc Lan Hữu, người ta không khỏi ngạc nhiên cho số phận long đong của một cuốn tiểu thuyết đẹp đẽ, vì sao có thể bị bỏ quên trong một thời gian dài như thế. Lan Hữu là câu chuyện tình tay ba thơ mộng tuổi thiếu niên, của một cậu trai mười sáu tuổi bàng hoàng nhận ra mình đem lòng say mê cả hai cô gái Lan và Hữu. Chuyện tình ấy, như muôn vàn chuyện tình thuở đầu đời khác, lẽ dĩ nhiên chẳng đi đến đâu, chỉ có nỗi mộng mơ mà nó gieo vào lòng người đọc là mãi không tan. Để nói gọn về cuốn sách, chẳng gì bằng nhắc lại lời của Beaudelaire mà Lưu Trọng Lư trích trong lời tựa lần xuất bản đầu tiên: “Một giấc mộng nồng nàn dệt xe trên gối kẻ thiếu niên.”


Quân Khuê

Thứ Ba, 22 tháng 12, 2015

Khúc tiêu đồng

Tên đầy đủ là Khúc tiêu đồng - Hồi ký của một vị quan triều Nguyễn. Sách của NXB Trẻ in năm 2014. Đây là một cuốn sách rất chi hay ho, vì:

- kể lại chân thực cuộc đời một viên quan xuất thân nhà nghèo, nhờ học hành chăm chỉ mà thi đỗ để làm quan, và làm quan cho đến khi triều Nguyễn chấm dứt năm 1945;

- cung cấp chi tiết về việc học hành, thi cử, làm quan từ góc độ một người kể chuyện mình vs. góc độ sử gia. Ta hay phê phán người Việt xưa nay học chỉ mong để làm quan. Cuốn này kể rõ về câu chuyện học để làm quan đó. Hoàn toàn có thể hiểu được và chấp nhận được vì thời đó xuất thân nhà nghèo muốn đổi đời không có cách nào ngoài con đường học hành. Ngoài ra, cũng ghi nhận rằng, thời phong kiến, nhưng cơ hội tiến thân có thể được mở ra với bất kỳ ai thông qua thi cử. (Tuy rằng thi cử cũng lắm gian lận, và chuyện làm bài thuê/làm bài hộ là việc bình thường).

- cho phép người đọc hiểu hơn nhiều điều về xã hội Việt Nam. Chẳng hạn, cho thấy tham nhũng ở Việt Nam có truyền thống lâu đời. Thi đậu thì được làm quan, nhưng muốn có những chỗ ngon thì phải chạy tiền là chuyện đương nhiên. Về chuyện này, tác giả nhận xét người Pháp công bằng hơn, xét người chủ yếu dựa vào năng lực chứ không phải quan hệ.

- bản thân tác giả là người thú vị, ở chỗ, ông không hẳn là người xuất sắc, vượt trội, nhưng là người có năng lực và chuyên nghiệp. Ông có cảm tình với người làm chính trị, làm cách mạng, nhưng xác định bản thân không đủ can đảm để làm cách mạng, chỉ làm quan để kiếm sống. Coi việc làm quan là một nghề, ông hành nghề một cách tử tế, chuyên nghiệp, làm trọn phận sự của mình. Ông thanh liêm, tuy rằng không quá thanh liêm, nói chung, ông khá thực tế, những chuyện quà cáp nếu là tục lệ thì ông nhận, còn thì không đòi hỏi, không nhũng nhiễu dân. Chính ra, bây giờ ta rất cần những ông quan như thế này.

Thứ Năm, 17 tháng 12, 2015

Bao người chờ đợi

Đọc và thích mê Cuộc sống ở trước mặt của Romain Gary từ lâu, mà đến 5 năm sau tôi mới đọc cuốn thứ hai của ông là Lời hứa lúc bình minh, một tuyệt tác khác. Quyết định không buông tha cho Romain Gary nữa, tôi đọc ngay luôn Bao người chờ đợi qua bản dịch của Lê Vui, một cuốn sách cũ mèm và rách nát do NXB Thuận Hóa in năm 1989, nằm mốc trên kệ sách từ khá lâu. Cuốn này, nếu dịch sát thì phải là Nền giáo dục châu Âu.

Romain Gary viết xong cuốn này năm 1943, tức là trước cả kết thúc chiến tranh thế giới thứ hai. Đây là câu chuyện về những người du kích Ba Lan trong chiến tranh thế giới thứ hai, trốn tránh trong rừng, và chiến đấu chống lại phát xít Đức. Cuốn sách không tập trung vào cuộc chiến đấu, mà thiên về mô tả cuộc đời của những người du kích ấy. Không có một nhân vật trung tâm, tuy nhiên có thể nói cậu thiếu niên 14 tuổi Janek được dành nhiều đất nhất. Con trai của một bác sĩ, cậu được cha mẹ cho trốn trong rừng để tránh số phận bi thảm của hai người anh trai. Cậu mau chóng nhận thấy cha sẽ không bao giờ quay lại chỗ trốn của mình trong rừng. Cậu ở lại, sống bằng tình yêu dành cho những bản nhạc, niềm hy vọng về chiến thắng của trận Stalingrad, và tình yêu của cô bé 15 tuổi Zosia. Quanh cậu, là những số phận khác, bằng những cách khác nhau trải nghiệm cái gọi là "giáo dục châu Âu": đói, lạnh, giết chóc. Văn của Romain Gary, tuy đọc qua bản dịch, lúc nào cũng cảm động.

Nếu thấy cuốn này đâu đó ở một tiệm sách cũ, bạn chớ nên bỏ qua.

Tôi vẫn còn đang kiếm cuốn thứ tư của Romain Gary được dịch ra tiếng Việt là Chó trắng, nhưng mãi vẫn chưa tìm được.

Thứ Tư, 16 tháng 12, 2015

Yêu bà già

Năm vừa rồi, tôi yêu hai bà già. Chỉ gần đến cuối năm tôi mới phát hiện ra hai bà và đã gần như lập tức yêu hai bà đắm đuối. Hôm nay nói một chút đến bà thứ nhất.

Bà tên là Szabó Magda, người Hungary, sinh năm 1917, mất năm 2007. Tác phẩm đầu tiên và duy nhất của bà được dịch ra tiếng Việt, in trong năm 2015 vừa rồi, là Cánh cửa. Tiểu sử của bà cho biết bà là một trong những nhà văn hàng  đầu Hungary. Đất nước Hungary nhỏ bé thế mà sinh ra bao nhiêu nhà văn lớn, chắc nhờ vào phẩm chất đế quốc một thời (đế quốc Áo Hung tồn tại đến năm 1918). Đã dịch ra tiếng Việt thì có Marai Sandor (Những ngọn nến cháy tàn, Bốn mùa - trời và đất, v.v.), Imre Kertesz (Kinh cầu cho đứa trẻ chưa ra đời, Không số phận); chưa dịch ra tiếng Việt thì có Antal Szerb, Peter Nadas, và nhà văn có tên rất khó nhớ là László Krasznahorkai, chủ nhân giải Man Booker International 2015. Cả bốn người trên đều đã được dịch ra tiếng Anh nhiều. Còn Szabó Magda, kể cả trong thế giới Anh ngữ vẫn chưa được biết nhiều lắm. Cuốn Cánh cửa, được dịch ra tiếng Anh lần đầu 1995, nhưng mãi đến khi New York Review Book Classics đưa vào series của mình thì mới được đọc rộng rãi. Năm 2015, The Door được New York Times chọn là 1 trong 10 cuốn sách hay nhất trong năm.

Cánh cửa chắc chắn là một trong những tiểu thuyết hay nhất mà tôi đọc được  năm rồi. Nếu nói cuốn sách kể về cái gì, thì nghe có vẻ rất tẻ nhạt, bởi trên bề mặt nó chỉ kể về mối quan hệ giữa hai người đàn bà, một là nhà văn - xưng tôi, người kia là một bà già giúp việc nhà. 

Tuy nhiên, Emerence, tên bà già giúp việc, ắt là một trong những nhân vật văn học ấn tượng nhất, giàu cá tính nhất mà tôi từng biết. Bà lập dị, hẳn nhiên; bà lững lững, cả về tinh thần lẫn thể xác. Bà có một năng lực gần như siêu nhiên, đó là năng lực điều khiển chó, mèo,  (phải mở ngoặc con chó đực mang tên cái Viola cũng là một trong những con chó đáng nhớ nhất trong văn chương), thậm chí cho phép ai, bao gồm bản thân, được  chết hay không. 

Cái tôi thích ở Cánh cửa đó là cách mà tác giả chấm phá về lịch sử Hungary, những biến cố đất nước này trải qua, cả về chế độ chính trị, bằng cách gần như, có vẻ như chỉ tập trung vào mối quan hệ giữa hai người đàn bà. Một cuốn tiểu thuyết có thể rất chính trị, nói được nhiều điều về một đất nước,  trong khi bề ngoài có vẻ đơn giản, thậm chí tẻ nhạt. 

Riêng về Emerence, có một điểm trong tính cách của bà làm tôi nhớ tới một nhân vật trong một tiểu thuyết khác mà tôi cũng rất thích, đó là Zorba trong Tay chơi Hy Lạp. Sự liên tưởng này có vẻ hơi kỳ quái, nhưng nếu ai đọc cả hai cuốn rồi chắc sẽ đoán ra tôi muốn nói tới điểm nào.

Thứ Hai, 14 tháng 12, 2015

Đọc tiểu thuyết: Trường hợp Suối nguồn

Gần đây tôi hay nhìn thấy một số ý kiến liên quan đến cuốn Suối nguồn, tức The Fountainhead, của Ayn Rand. Đại để, Suối nguồn là một trong những cuốn tiểu thuyết đáng đọc nhất, gây ảnh hưởng lớn nhất đối với người đọc abcd, hay Suối nguồn phải xếp ngang hàng với Tội ác và trừng phạt của Dos, Trăm năm cô đơn của G.G. Marquez, Âm thanh và cuồng nộ của Faulkner, hay Núi thần của Thomas Mann v.v. Có ý kiến còn cho rằng phải đạt một trình độ nhất định mới thưởng thức được Suối nguồn.

Bản thân tôi có một kỷ niệm hết sức sâu sắc về Suối nguồn. Đó là một lần đi chơi với bạn gái, giận dỗi gì đó, tôi bèn đem cuốn sách mang theo bên mình khi ấy, tình cờ là The Fountainhead, ra đọc liền một mạch 200 trang. Sau 200 trang đó thì thôi, vì cuộc giận kia đã kết thúc. Từ đó, chưa một lần tôi đọc tiếp hay đọc lại Suối nguồn. Tuy vậy, không cần phải đọc hết một cuốn sách mới biết cuốn sách ấy như thế nào.

Đáng đọc hay không, hoặc ảnh hưởng thế nào đến cá nhân, xin không bàn, vì đó là cảm nhận riêng của mỗi người. Nhưng có một điều cần nói rõ, đó là Suối nguồn không phải là tiểu thuyết văn học đích thực, do đó không thể xếp ngang hàng với các cuốn nhắc trên.

Bản chất của tiểu thuyết là đa nguyên, tinh thần của tiểu thuyết là sự phức tạp. Suối nguồn làm ngược lại tinh thần này. Nó đơn giản hóa mọi sự, bởi lẽ Ayn Rand viết cuốn này để minh họa cho tư tưởng của bà. Suối nguồn do đó là một loại văn nghệ minh họa, không khác gì nhiều tác phẩm văn nghệ minh họa khác mà chúng ta quá quen thuộc, duy chỉ minh họa cho một tư tưởng khác mà thôi.

Thích hay không thích xin tùy ý, nhưng về mặt khách quan, vạn vật đều có chỗ của nó.


Thứ Ba, 2 tháng 6, 2015

Sách đọc 2014


Theo truyền thống, cuối năm nào cũng tổng cái sự đọc trong năm. Năm nay, không còn là full time reader như năm trước, dĩ nhiên đọc ít đi hơn.  Tuy nhiên, sự khoan khoái không vì thế mà bớt lại. Những cái khoan khoái nhất được ghi lại dưới đây, theo thứ tự đọc, không phải theo thứ tự khoái:
  1. Alice ở xứ sở thần tiên (Lewis Caroll): Kể cũng hơi xấu hổ, đây là lần đầu tiên đọc trọn cuốn này, nhờ đọc cho Alpha và Pi. Trước đó, chỉ đọc bản rút gọn. Truyện cho trẻ con mà bố thấy hay, sự không phải bàn thêm.

  2. Alexis Zorba – Con người hoan lạc (Nikos Kazantzaki, Dương Tường dịch): Đọc lần thứ hai. Lần đọc sau thấy cuốn sách làm mình yêu đời hơn lần trước. Đây sẽ là cuốn sách cứ hai, ba năm cần đọc lại một lần.
  3. Kaputt (Curzio Malaparte): Chiến tranh thế giới thứ hai qua mắt một nhà báo Ý, nhưng đây không phải là tác phẩm báo chí mà là tác phẩm văn học. Tôi thích cuốn này vì sự khốc liệt, thông minh và hài hước của nó.
  4. Đời tôi (Marcel Reich-Ranicki, Lê Chu Cầu dịch): Cuốn sách này nói với tôi hai điều: Thứ nhất, một tình yêu, ở đây là tình yêu văn chương, có thể giúp người ta vượt qua qua những quãng thời gian đọa đày nhất như thế nào; thứ hai, làm một nhà phê bình văn học đích thực nghĩa là thế nào. Quyển sách này nhất định rất có ích cho các nhà văn.
  5. The spy who came from the cold (John le Carré, đã có bản dịch tiếng Việt hình như là Người về từ miền đất lạnh): Đỉnh cao thể loại tiểu thuyết gián điệp.
  6. The road (Cormac McCarthy): U tối và đầy ám ảnh, đồng thời cũng là câu chuyện tuyệt đẹp về cha và con trai.
  7. Memet, chàng mảnh khảnh (Yaşar Kemal, Trần Dần dịch từ bản tiếng Pháp): Thiên anh hùng ca về một tướng cướp xuất thân nông dân. Văn chương khoái hoạt vô cùng, bản dịch của Trần Dần cũng tuyệt diệu. Mười lăm, mười sáu tuổi mà đọc được cuốn này thì mơ làm tướng cướp mất thôi. May mà đã qua tuổi đó.
  8.  Tình cuồng (Raymond Radiguet, Huỳnh Phan Anh dịch): Một tuyệt phẩm nho nhỏ về tình yêu. Điều kinh ngạc nhất là làm thế nào Raymond Radiguet có thể viết cuốn này khi mới mười bảy tuổi.
  9. Chúa tể những chiếc nhẫn (J.R.R. Tolkien, nhóm dịch giả Nhã Nam): Có lẽ không cần nói thêm gì về bộ truyện này vì nó quá nổi tiếng.
  10. Thương (Toni Morrison, Hồ Như dịch): Nhiều khi đọc tiểu thuyết chỉ là để nhớ một cảnh như thế này: một bà mẹ da đen cầm cưa, cưa đứa con mười mấy tháng tuổi của mình để nó khỏi rơi vào cảnh nô lệ.
  11. Mù lòa (José Saramago, Phạm Văn dịch): Chuyện gì xảy ra khi tất cả chúng ta đều mù? Con người sẽ đối xử với nhau như thế nào? Trong tuyệt vọng, man dã, rốt cuộc cũng có những điểm sáng. Con người tuy tệ, nhưng vẫn không đến mức phải mất hết cả lòng tin vào con người.
  12. Lời hứa lúc bình minh (Romain Gary, Nguyễn Duy Bình dịch): Tuyệt.
(Note này viết cuối năm rồi.)

Thứ Sáu, 17 tháng 10, 2014

Ngựa thép của Phan Hồn Nhiên

Phải đến Ngựa thép, Phan Hồn Nhiên mới gọi tác phẩm của mình là tiểu thuyết. Với những tác phẩm trước đây như Công ty hay The Joker, Phan Hồn Nhiên chỉ gọi đó là truyện dài (thật ra, tôi chưa đọc tác phẩm nào khác của Phan Hồn Nhiên). Tuy sự phân chia thể loại không nhất thiết phải quá rạch ròi, nhưng qua việc này, có thể nhận thấy Phan Hồn Nhiên đã rất cẩn trọng với việc dán nhãn tác phẩm của mình. Phan Hồn Nhiên quan niệm rằng tiểu thuyết phải đi xa hơn việc kể một câu chuyện. Chính vì lẽ đó, nếu đi tìm câu chuyện của Ngựa thép, người đọc sẽ bối rối.  Rõ ràng có nhiều hơn một câu chuyện, mà lại rất khó kết nối các câu chuyện ấy với nhau.

Tác giả đã gọi tác phẩm của mình là tiểu thuyết, và người đọc cũng có cảm giác mình được đọc một tiểu thuyết đích thực, bởi lẽ Ngựa thép nắm bắt được tính phức tạp và bất ngờ vốn tiềm tàng ở mỗi cá nhân con người, cũng như trong quan hệ giữa họ với nhau, nhưng thường lại hay bị quy giản. Ngựa thép đi vào những mối quan hệ không nhiều khi được đề cập trong văn chương Việt Nam: tình cảm cảm thông và thẳng thắng giữa cha dượng và con riêng của vợ, sự gắn bó và đố kỵ giữa hai anh em song sinh, sự thấu hiểu kỳ lạ giữa một cô gái đánh mất trí nhớ sau tai nạn và một chuyên gia ngôn ngữ. Những nhân vật ấy vừa lạ lẫm vừa quen thuộc. Lạ lẫm vì nếu so với cuộc đời mà ta biết, ta chưa từng gặp những con người tương tự như vậy; còn quen thuộc vì, trong một góc sâu kín nào đó, cách ứng xử cách suy nghĩ của những nhân vật ấy rất có thể là của chính ta. 

Trong Ngựa thép, Phan Hồn Nhiên cũng thử nghiệm trò chơi cấu trúc. Tiểu thuyết gồm ba phần chỉ kết nối với nhau bằng một số chi tiết nhỏ. Cấu trúc này gợi nhớ đến bộ ba phim Xanh, Trắng, Đỏ của đạo diễn Ba Lan Krzysztof Kieslowski, hoặc tiểu thuyết The Blindfold của Siri Husdvet. Trong phần một, giọng kể lần lượt thay đổi từ người cha dượng, sang người mẹ rồi đến cô bạn gái, qua đó Sơn - có thể gọi là nhân vật chính của phần một - hiện lên từ các góc nhìn khác nhau. Phần ba lại có tiểu thuyết lồng trong tiểu thuyết: chen giữa tiểu thuyết về cô gái mất trí nhớ và chuyên gia ngôn ngữ, là cuốn tiểu thuyết mà cô gái được yêu cầu đọc để phục hồi trí nhớ của mình. Ba phần của tiểu thuyết giống như ba bức tranh trong cùng một bộ treo cạnh nhau, cùng trình diễn sự cô độc của con người trong thế giới hiện đại.

Về mặt ngôn ngữ, Ngựa thép có phần hơi Tây. Đôi chỗ cách dùng các đại từ khiến người đọc cả cảm giác mình đang đọc một tiểu thuyết dịch.  Bỏ qua những lấn cấn về ngôn ngữ đó, cuốn sách vẫn có nhiều đoạn văn cảm động. Tổng thể, Ngựa thép là một cuốn tiểu thuyết đẹp, đáng đọc.