Chiều trước khi nghỉ Noel, hơi quỡn, gõ nhăng cuội tí. Mọi năm hay làm list những sách ưa thích trong năm, nhưng cái sự làm list gần đây bị công kích dữ quá, nên gõ luôn thành bài cho nó hoành.
Thứ Ba, 11 tháng 3, 2025
Sự đọc năm nay - 2018
Thói quen xa xỉ
Thứ Hai, 10 tháng 3, 2025
Nghệ thuật của việc không đọc
Nghệ thuật của việc không đọc là một nghệ thuật rất quan trọng. Nó cốt ở việc không quan tâm đến bất cứ điều gì có thể thu hút sự chú ý của công chúng nói chung ở bất cứ thời điểm cụ thể nào. Khi một cuốn sách chính trị hay tôn giáo, hay tiểu thuyết, hay một bài thơ đang làm mưa làm gió, anh nên nhớ rằng kẻ nào viết cho những kẻ ngu ngốc thì luôn tìm được một lượng lớn công chúng cho mình. Điều kiện tiên quyết để đọc những cuốn sách hay là không đọc những cuốn sách dở: bởi cuộc đời thì ngắn. —Arthur Schopenhauer
Chúng ta không thuộc về nhau
Chỉ có đọc lại mới đáng kể, hình như Marai Sandor là người nói câu này. Vào thời nhà nhà cắm mặt vào điện thoại, còn Netflix, HBO, Prime Video thay nhau vẫy chào, đọc còn khó chứ ở đó mà đọc lại. Tuy nhiên, để đánh giá chính xác một cuốn sách, cũng như muốn lấy được chút gì từ một cuốn sách, thì đúng là không có cách nào khác ngoài đọc lại.
Thứ Tư, 22 tháng 1, 2025
Bánh mì kẹp và Ocean Vương
Như một số người có thể đã biết, và một số người khác có thể chưa biết, tôi thích ăn bánh mì kẹp. Tôi thích ăn bánh mì kẹp tất nhiên vì cái tổng thể của vỏ bánh giòn, pa tê đậm vị, ngò thơm, đồ chua tất nhiên chua và thịt nguội tất nhiên nguội, nhưng hơn hết tôi thích bánh mì kẹp vì những miếng ớt nhỏ nằm lẩn quất đâu đó. Ai đó sẽ bảo thích ăn ớt thì cứ việc ăn, việc gì cứ phải bánh mì kẹp mới có ớt. Không, vấn đề không phải là vị cay của ớt, mà vấn đề là sự bất ngờ. Mấy miếng ớt xắt, cố thủ đâu đó giữa dưa leo và chả lụa, hoặc giữa mấy sợi cà rốt chua xà nẹo nhau, hoặc tinh tế mắc vào mép trái cọng ngò, ở những vị trí ngẫu nhiên và không thể dự đoán. Ờ, cố nhiên là ta biết ở trỏng có ớt, ta chỉ không biết nó ở đâu. Để rồi, khi ta cắn phập ổ bánh mì một phát, phát đầu có thể chưa thấy gì, nhưng phát thứ hai, hay phát thứ ba, một vị cay thình lình làm ta xé lưỡi, xộc lên óc, rồi vừa nhai vừa hít hà. Sướng là ở đó.
Nói về sướng, trong buổi nói chuyện của Ocean Vương, Ocean có nói ý như thế này khi một bạn hỏi về chuyện hiểu một bài thơ. Khi bạn đọc một bài thơ mà bạn thấy sướng, nghĩa là bạn đã hiểu bài thơ rồi. Chẳng phải bạn đến với thơ ca hay nghệ thuật nói chung là để sướng sao. Bạn không cần phải phân tích được cái sướng, ai đem phân chất một mùi hương (ref: Xuân Diệu)?
Ocean Vương còn nói thế này về việc đọc và viết, khi có một thính giả hỏi bạn ấy viết như thế nào, làm thế nào để biết mình bắt đầu ở đâu và kết thúc ở đâu, là bạn ấy tránh những mẫu hình có sẵn, có mở đầu, phát triển, cao trào, kết thúc, và tìm cách kể một câu chuyện theo cách riêng của mình, có "dấu vân tay" của mình. Quan trọng không phải kể cái gì mà kể như thế nào. Khi đọc cũng thế, một tác phẩm giữ chân được người đọc là một tác phẩm có thể mang đến sự bất ngờ. Cả đọc cả viết đều cần tránh những công thức.
Về sự bất ngờ, ngày xưa Bàn Tải Cân đã viết trong câu thơ trác tuyệt: "Thơ hay ở chỗ bất ngờ". Dĩ nhiên, Bàn Tải Cân sẽ không phải là Bàn Tải Cân nếu câu bát không bất ngờ thế này: "Người hay ở chỗ đêm mơ xuất tình."
Tới đây dừng bất thình lình.
Thứ Tư, 15 tháng 1, 2025
Bài tập cho trí nhớ
Bây giờ là 5 giờ sáng một ngày chủ nhật. Lẽ ra tôi còn phải đang khò khò, nhất là đêm hôm trước còn hơi quá chén, nhưng tôi lại đang bật laptop và gõ những dòng này. Thời gian thật nghiệt ngã. Ở tuổi hai mươi, người ta có thể ngủ tới chín, mười giờ sáng và vẫn thấy thèm ngủ. Ở tuổi hai mươi người ta có thể thức xuyên đêm đọc một cuốn sách và mười năm sau vẫn nhớ rành mạch từng chi tiết trong cuốn sách đó. Ở tuổi khi đã có con sắp bước vào tuổi hai mươi, người ta, tức tôi, không còn thèm ngủ nhiều như xưa, và mau chóng quên đi những gì mình đã đọc. Chính vì vậy, một yêu cầu nho nhỏ của nhà Z, hãy kể lại một năm đọc sách của mình, đâm ra thành một thách thức. Tôi chấp nhận thách thức đó, bằng cách cố nhớ lại những cuốn sách nào đã gây ấn tượng cho mình trong năm qua, mà không giở lại bất kỳ trang sách nào.
Hãy bắt đầu bằng một bộ phim, phim truyền hình thì đúng hơn (ngoài lề 1: tôi vẫn kinh ngạc khi thấy cho tới bây giờ một số bậc thức giả vẫn không phân biệt được phim truyền hình và phim điện ảnh, và vẫn nồng nhiệt khen chê lẫn lộn trên mặt báo) (ngoài lề 2: series, thời tiếng Anh chưa phổ biến như thời nay, vẫn được gọi là phim truyền hình nhiều tập, giờ đây, ngang nhiên được gọi là “loạt phim”, một Netflix series được gọi là “loạt phim Netflix”, thật quái gở), Six Feet Under. Mỗi tập phim này bắt đầu bằng một cái chết. Một tập phim khởi đầu với cảnh bà vợ đang chuẩn bị ăn sáng cho chồng, chiên trứng, rót nước cam, bày đĩa trước mặt chồng, trong khi đó, ông chồng thao thao bất tuyệt về một chuyện gì đó. Khi xem, tôi đang băn khoăn, ông này nói cái gì chán thế, thì trên ti vi, bà vợ không nói không rằng, lấy cái chảo vừa mới chiên trứng xong, quật một phát thật lực vào đầu ông chồng, và đó là cảnh mở đầu tập phim này. Ý nghĩ đến ngay trong đầu tôi ngay lúc đó là, ồ, cảnh này thật là tiểu thuyết. Tôi hoàn toàn không có ý nói cảnh đó giả tưởng, không tin được, mà ngược lại, nó rất đáng tin, và đó là một phẩm chất của tiểu thuyết.
Tiểu thuyết, theo tôi, là loại hình nghệ thuật nói được những sự thật không thể nói ra, diễn tả được những khía cạnh bất định của hiện hữu, nhìn thấy được sự đa dạng của cuộc sống mà ở đó cách suy nghĩ, hành xử của mỗi con người được lèo lái bởi những động cơ bên trong không dễ gì nhìn thấu. Những tiểu thuyết đích thực giúp người đọc hiểu hơn một chút về con người, nhưng đồng thời nếu đọc xong một tiểu thuyết mà ta thấy hoang mang hơn về con người thì ấy có thể là dấu hiệu của tiểu thuyết đích thực. Chính vì lẽ đó, mối quan tâm lớn của tôi trong sự đọc là tiểu thuyết. Tôi vẫn đọc khảo cứu, tiểu luận, non-fiction nói chung, nhưng tiểu thuyết mới là thứ mà tôi dành thời gian cho nhiều nhất, trong quỹ thời gian ít ỏi còn lại của tôi sau chục tiếng văn phòng hằng ngày, sau những buổi chạy bộ, leo núi, và trong sự chống chọi mạng xã hội cùng những “loạt phim Netflix”.
Tôi nhớ mình dự định năm nay sẽ dành thời gian đọc lại là chủ yếu, nhưng như nhiều dự định khác, đây là một trong những dự định bất thành. Dù sao đi nữa, tôi nhớ đã bắt đầu năm đọc sách của mình bằng Người xa lạ của Camus. Đây là lần thứ ba hay thứ tư tôi đọc cuốn sách mỏng dính này qua các bản dịch khác nhau và lần nào tôi vẫn còn nguyên vẹn cảm giác lãnh một cú đấm vào mặt. Tôi không nghĩ anh chàng nhân vật chính trong cuốn tiểu thuyết này vô cảm. Anh ta không xử sự theo cách mà đa số mọi người mong đợi, không tỏ vẻ buồn đau, khóc than khi mẹ mất, không hẳn là anh ta không có cảm xúc. Đó là chỉ là một cách ứng xử khác trong vô số cách ứng xử có thể có, nhưng người ta thường nghĩ rằng trong một tình huống A thì cách ứng xử nhất định phải là B, hễ thế này thì nhất định thế kia, nhưng ở đây nhân vật lại ứng xử theo kiểu Z. Tôi cũng không thấy có gì phi lý trong cách nhân vật chính vô cớ giết người. Rất có thể cái chết của mẹ anh ta tác động tới anh ta nhiều hơn anh ta tưởng, và mặt trời chói chang, cái nóng hay con dao của gã Ả rập chỉ là điểm kích hoạt cho hành động có vẻ như bột phát của anh. Dĩ nhiên, đây chỉ là một giả thuyết. Việc Camus chưa bao giờ giải thích động cơ cho hành vi này khiến cho cuốn tiểu thuyết mãi mãi mang một vẻ bí ẩn.
Khi đọc Một chủ nhật khác của Thanh Tâm Tuyền, tôi thấy có hơi hướm của Người xa lạ, mặc dù tôi có nghe nói rằng Thanh Tâm Tuyền khoái Malraux chứ không phải phải Camus. Trong Một chủ nhật khác, có chuyện Trung úy Kiệt, trong một lần được xả trại đã leo lên một chiếc xe đò đi thẳng xuống một tỉnh miền Tây thuê phòng trọ nằm ngủ một mình một đêm thay vì về nhà với vợ. Về sau, vợ Kiệt phát hiện ra chuyện này, Kiệt buộc phải bịa chuyện là mình ngoại tình thì được vợ tin và tha thứ, chứ còn chuyện thuê phòng trọ nằm một mình bởi không muốn gặp gỡ ai, không muốn trò chuyện với ai thì không bà vợ nào tin được. Cũng giống như trong Người xa lạ, nhân vật chính được trông đợi là phải buồn đau khi mẹ mất, ở đây, Kiệt được [vợ] trông đợi là phải ngoại tình. Họ được trông đợi ứng xử theo những mẫu hình khuôn khổ, có thể đoán định được. Nhưng tiểu thuyết là phải bắt được những cách ứng xử không theo khuôn, bởi con người là một động vật cực kỳ phức tạp, đâu có thể dễ dàng quy giản? Một chủ nhật khác cũng là cuốn sách tôi đọc hai lần gần như liên tục.
***
Những chuyến bay thường là thời gian đọc sách lý tưởng nhất, bởi khi đó ta không bị quấy rầy bởi email, tin nhắn và nhất là Facebook. Khi bay, tôi thường mang theo Kindle. Đó cũng là một lựa chọn lý tưởng, vì Kindle gọn, nhẹ, chứa được nhiều sách nên đỡ phải băn khoăn mang cuốn gì theo trước khi bay. Cũng nhờ Kindle tôi có thể mua sách từ nước ngoài chỉ mất vài giây. Với những cuốn sách không được phát hành rộng rãi hoặc đã tuyệt bản, thì Kindle quả là cứu tinh. Tôi đã đọc Night Prayers của Santiago Gamboa, một nhà văn Colombia, tập truyện ngắn Sáng tác mới 2023 do ZZZ review tuyển chọn và Mùa biển động của Nguyễn Mộng Giác bằng Kindle và hầu như trên những chuyến bay.
Tôi còn chưa nghe tên Santiago Gamboa khi đọc Return to the Dark Valley của ông hồi năm ngoái. Vì một lý do nào đó, Amazon “recommend” ông cho tôi. Cái nhan đề cuốn hút, cộng thêm mác nhà văn Colombia với phong cách gần giống Roberto Bolaño khiến tôi nhắp chuột ngay tắp lự, để rồi sau đó nhắp chuột lần nữa, tải Night Prayers về Kindle. Dường như tình dục, chính trị và bạo lực là đặc sản của các nhà văn Mỹ La tinh. Tất cả món này có trong Night Prayers, câu chuyện về một cậu sinh viên triết học vướng vào vận chuyển ma túy nên phải ngồi tù ở Bangkok và người chị tìm mọi cách để cứu cậu ra. Nhưng cũng như trong các tiểu thuyết của Bolaño, Night Prayers có rất nhiều digression – ngoại đề hay chuyện ngoài lề. Một trong những đoạn ngoài lề bàn về bạo lực ở Colombia mà tôi thích thú đó là khi một nhân vật nói đại ý rằng hòa bình mà ta thấy ở châu Âu ngày hôm nay (sách viết trước khi chiến tranh Nga – Ukraina nổ ra) chỉ có được sau hai nghìn năm giết chóc, và các quốc gia châu Âu khi cùng tuổi với Colombia ở thời điểm hiện tại tàn sát lẫn nhau, máu chảy thành sông, nội chỉ việc Hồng quân chiếm Berlin vài tuần đã khiến nhiều người chết hơn cả một thế kỷ xung đột ở Colombia, bạo lực là một phần của lịch sử và Colombia sẽ tiến tới hòa bình nhanh hơn, và ít đổ máu hơn châu Âu. Cũng nhân vật đó cho rằng châu Âu không có tương lai. “Đó là một châu lục mệt mỏi, xấu tính cố gắng dạy dỗ người khác phải sống thế nào, nhưng lại trở nên đông cứng do tự ngắm mình quá nhiều trong gương.” Night Prayers có phải là cuốn xuất sắc hay không? Tôi nghĩ là không. Nhiều chỗ nó ly kỳ một cách không cần thiết, hơi giống các phim truyền hình Tây Ban Nha hay Mexico với các nhân vật hay hoa tay múa chân và nói sùi bọt mép, nhưng được cái nhịp độ nhanh nên không buồn ngủ.
Các truyện ngắn trong số Sáng tác mới 2023 do ZZZ Review tuyển chọn mang tới cho tôi nhiều bất ngờ. Nếu tại thời điểm này hỏi lại truyện nào của ai viết gì thì tôi chịu, nhưng ấn tượng chung khi đọc là các truyện đều mới mẻ. Cái cách các tác giả dựng truyện, chủ đề họ theo đuổi, ngôn ngữ họ sử dụng ít thấy dấu vết của các tác giả Việt Nam thế hệ trước. Đọc họ, thấy ảnh hưởng của các nhà văn nước ngoài nhiều hơn, và có vẻ như họ còn đọc trực tiếp nguyên tác không qua bản dịch. Điều này cũng thể hiện phần nào trong cách họ hành văn. Người khó tính sẽ cho đó là văn thiếu chỉn chu. Người không khó tính lắm có thể cho rằng mỗi thế hệ có cách diễn đạt riêng của họ, và nhóm các tác giả này đã tìm được cách diễn đạt phù hợp với thời họ đang sống.
Một thành tựu trong năm của tôi là đã đọc xong bộ trường thiên tiểu thuyết năm tập Mùa biển động của Nguyễn Mộng Giác bằng Kindle. Vâng, với sự cạnh tranh khốc liệt của các “loạt phim Netflix” thì cày vài “loạt phim” không phải chuyện gì to tát, nhưng đọc xong mấy nghìn trang của một cuốn sách nhất định phải tự coi đó là thành tựu. Do cách dàn trang, format không chuẩn của các file Kindle mà tôi đã đọc tập 3, tập về Mậu Thân, cũng là tập hay nhất, trước tiên rồi mới quay lại đọc tập 1, tập 2. Giả như tôi đọc thì tập 1 thì chưa chắc tôi đã hoàn thành. Có lẽ vì định bụng viết trường thiên tiểu thuyết nên tác giả dàn cảnh hơi lâu, điều này hoàn toàn hiểu được, khoảng hai, ba chương đầu của tập 1 chưa hứa hẹn gì. Tôi nghĩ viết tiểu thuyết dài cũng giống như chạy marathon, nếu khởi đầu hăng quá thì mau đuối sức. Nguyễn Mộng Giác rõ là người chạy marathon tốt.
Câu chuyện của Mùa biển động xoay quanh một nhóm bạn và các thành viên gia đình của họ, bắt đầu tại Huế khoảng năm 65-66, rồi theo chân các nhân vật đến Quy Nhơn, Buôn Mê Thuột rồi Sài Gòn vắt qua mốc 75 kèo dài đến khoảng năm 80. Một không gian rộng lớn và một quãng thời gian khá dài như thế nên Mùa biển động đương nhiên có nhiều câu chuyện, nhiều sự kiện, chủ đề: phong trào đấu tranh của sinh viên Huế, sự kiện Mậu Thân, chuyện văn giới miền Nam, quân Việt Nam Cộng Hòa thất thủ ở cao nguyên và Huế, trại cải tạo, vượt biên.v.v. Tôi đặc biệt quan tâm những chương viết về tranh luận, đối đầu giữa ba người bạn thân Ngữ, Tường, Ngô. Qua họ, ta có thể hình dung ra các trí thức trẻ miền Nam trước đây đã suy nghĩ, băn khoăn, lựa chọn hướng đi ra sao. Rõ ràng họ có quyền lựa chọn hướng đi, trong mối tương quan với các trí thức trẻ miền Bắc cùng thời kỳ; rõ ràng không ai chọn hướng đi giùm họ, nhưng sự tự do lựa chọn không bảo đảm gì họ có một lựa chọn đúng đắn. Dẫu gì thì họ đã được sống và trả giá bằng lựa chọn của chính mình, nên đấy cũng là một niềm an ủi.
Mùa biển động có những trang viết về tình yêu thật đẹp, tôi nghĩ thuộc loại đẹp nhất trong văn chương Việt Nam. Mùa biển động cũng có những đại cảnh được viết lại dựa trên các hồi ký (của Hoàng Khởi Phong và Cao Xuân Huy) nên rất sống động. Tuy không nên so sánh giữa tiểu thuyết và hồi ký, nhưng phần viết lại Tháng ba gãy súng của Cao Xuân Huy trong tập 4 của Miền biển động tôi thấy hay hơn sách của họ Cao. Mùa biển động, chắc chắn là một trong những tiểu thuyết xuất sắc nhất của văn học Việt Nam, cùng với Sông Côn mùa lũ.
***
Quãng thời gian cuối năm, tôi muốn dành thời gian cho cổ điển. Đó là lý do tôi quyết định bắt đầu đọc Giáo dục tình cảm của Flaubert qua bản dịch Lê Hồng Sâm. Tôi rất thẹn thùng tiết lộ rằng tôi đã định đọc cuốn này từ 10 năm trước, thế nhưng, dẫu biết rằng lao đầu vào các tác phẩm cổ điển sẽ được tưởng thưởng xứng đáng, thực tế tác phẩm cổ điển đồng thời cũng tạo ra một nỗi ngán ngại. Ta có đủ thời gian cho nó không? Ta có kiên nhẫn lật dở từng trang của cuốn sách dày cộp không khi còn bao sách chất đống quanh nhà? Thời gian trôi rất vội, bữa ăn trưa chỉ có năm phút, mà tác giả thì tỉ mỉ, kể lể chi tiết từng hoa văn trên váy áo, từng món xốt trên bàn tiệc, từng vết cào trên da. Trong khi đó, như bao người khác, tôi còn dễ bị dẫn dụ bởi bao nhiêu sách vở, phim ảnh bình thường, tầm thường, ngớ ngẩn hoặc chỉ để giải trí. Bước vào một tác phẩm cổ điển, tuy không đến nỗi phải tắm rửa dọn mình, nhưng ít ra cần toàn tâm, toàn ý, dành thời gian cho nó. Thực tế, tôi mất khoảng 4 tuần mới đọc xong Giáo dục tình cảm.
Giáo dục tình cảm quả nhiên là đỉnh cao của nghệ thuật tiểu thuyết. Hầu hết các tiểu thuyết gia lớn đều giữ khoảng cách với nhân vật của mình, nhưng tôi nghĩ, với Flaubert, ông đã đạt tới sự khách quan tuyệt đối với các nhân vật tiểu thuyết. Tôi nhận thấy ông không bao giờ tỏ ra yêu, ghét, giận dữ, thương mến, hay bất kỳ tình cảm nào với các nhân vật của mình, dù họ đáng yêu hay đáng khinh đến mức nào.
Ông tả cái sự mê gái hay thôi rồi. Khi say một người con gái, say làn da lộng lẫy, vóc dáng quyến rũ, hay những ngón tay thanh tú đã đành. Nhưng cái sự say mà ông miêu tả, nó đi sâu và xa làm sao. Say là say cả đồ vật người ta sở hữu, là tò mò, muốn biết tất tần tật về cuộc đời người ta: “Anh nhìn giỏ đồ khâu của nàng với niềm kinh ngạc, như một vật phi thường. Nàng tên gì, ở đâu, cuộc đời nàng, quá khứ của nàng ra sao? Anh ước mong biết được đồ đạc trong phòng nàng, mọi áo váy nàng đã mặc, những người nàng giao du; và ham muốn chiếm hữu thể chất thậm chí cũng tan biến dưới một khao khát sâu xa hơn, trong một nỗi tò mò đau đớn vô biên.” Đúng là đỉnh về say mê.
Tôi tìm hiểu một chút thì biết được Flaubert đã mất năm năm nghiên cứu để đảm bảo các chi tiết lịch sử trong sách chân thực tối đa. Chẳng hạn như trong sách có viết cuộc bạo loạn đã đốt năm đống lửa trong cung điện, thì trong thực tế lịch sử đã có năm đống lửa, chứ không phải bốn, hay sáu được đốt. Đây là một gợi ý cho các nhà văn khi viết về lịch sử, có hư cấu thế nào thì cũng phải đảm bảo các chi tiết lịch sử chính xác.
Giáo dục tình cảm là một tiểu thuyết lớn, nên tôi nghĩ tôi cần đọc lại nó sau ba hay năm năm nữa. Đọc, là để đọc, để quảng cáo cho bạn bè đọc, chứ viết gì về nó tôi cũng thấy nông cạn.
***
Những cuốn trên đây cơ hồ là những cuốn tôi nhớ nhất trong năm nay. Cũng có những cuốn khác, khi đọc, tôi thấy hay, thậm chí rất thích, nhưng đến giờ hỏi tôi cuốn sách ấy viết về cái gì thì chịu. Trí nhớ tôi quả thật rất suy tàn. Tuy vậy, nhờ Goodreads nhắc, tôi biết tôi đã đọc và thích những cuốn sau: Một chỗ trong đời của Annie Ernaux, Người cô độc của Christopher Isherwood, Tiếng núi của Kawabata (rất hay), Sậy của Thuận (tôi thích cuốn này nhất trong những cuốn gần đây của Thuận) và Hành trình yêu của Alain de Botton.
Cũng xin thú nhận, nếu nói bài viết này là bài tập cho trí nhớ, thì bài tập này đã thất bại. Tôi đã không nhớ tên nhân vật chính trong Người xa lạ nên phải đi tra. Cũng như để có những đoạn trích trong Night Prayers hay Giáo dục tình cảm tôi buộc phải lần lại những trang đã đánh dấu.
Để kết thúc bài một năm đọc sách, tôi muốn trích một đoạn thơ trong một cuốn sách ra đời lặng lẽ tháng cuối năm, lặng lẽ như chính tác giả của nó, cuốn Thơ Phan Đan.
“Những cành cây/hai lần chết chém
Những đám mây/hai lần bị bắn
Và nụ cười tôi/hai lần bị treo cổ/cái màu đỏ điên rồ/khi tôi đón em.”
Tập thơ này có 160 bài, hơn 400 trang. Hầu hết các bài đều viết đã lâu, như rượu được ủ nhiều năm. Mỗi ngày, tôi nhấm nháp một ít, tự thưởng cho mình (vì đã vâng lời chị Z).
Thứ Ba, 23 tháng 8, 2016
Đọc lại: Du hành cùng Herodotus
Một nhà nào đó khác đã nói, nếu một cuốn sách không xứng đáng để đọc lại, thì mắc mới gì phải cầm nó lên và đọc lần đầu tiên.
Tôi, một mặt "quán triệt" những lời thông thái trên; mặt khác do tính ham của lạ nên hay đọc tứ tung, tuy vậy hằng năm đều dành thời gian để đọc lại một số cuốn mà tôi thấy đáng để đọc lại. Hiện, tôi đang đọc lại cuốn Du hành cùng Herodotus của nhà báo Ba Lan Ryszard Kapuściński, qua bản dịch từ tiếng Ba Lan của Nguyễn Thái Linh.
Hồi đọc lần đầu năm 2009, tôi có nói đâu đó rằng nếu bạn chỉ đọc một cuốn du ký duy nhất thì nên đọc cuốn này. Giờ đọc lại, tôi thấy gọi cuốn này là du ký e có phần lầm lạc. Tôi không có vấn đề với thể loại du ký, nhưng có vẻ những cuốn xuất sắc nhất trong thể loại này đều đứng trên, vượt ra ngoài thể loại. Ngoài ra, du ký nhất là ở Việt Nam gần đây hầu như ai cũng viết được. Đi một tí, ngó nghiêng một tí, wiki một tí, thêm vài chuyện nhăng nhít ngồ ngộ, là lạ thế đã thành sách du ký rồi. Vì vậy, tôi không muốn gọi Du hành cùng Herodotus là du ký nữa.
Vậy nên gọi nó là gì? Tôi thấy nó là một bài review sách khổng lồ, chứa đựng một khối tò mò khổng lồ. Vâng, đúng là trong cuốn sách này, RK sẽ dẫn ta đến Ấn Độ, Trung Hoa, Ai Cập, Congo và rất nhiều địa danh khác .v.v.. Nhưng phần quan trọng nhất của cuốn sách là những trang review cuốn Sử ký của Herodotus, giúp ta gián tiếp đọc cuốn sách ắt là kỳ thú này.
Cách làm của RK là nhẩn nha lật một trang Sử ký, chép lại cho chúng ta vài đoạn, và rồi đặt ra vô số câu hỏi, hệt như một cậu bé có óc tò mò vô hạn. Chẳng hạn như, RK thuật lại chuyện Herodotus kể về người Babylon chống lại người Ba Tư, để làm việc đó, người Babylon đồng ý với nhau là bóp ngạt các thành viên nữ trong gia đình, trừ mẹ và một người mà họ phải chọn, để tiết kiệm thực phẩm trong công cuộc chống người Ba Tư. Họ bàn bạc với nhau như thế nào? có ai bất đồng không? có ai phát điên không? làm thế nào họ chọn bóp ngạt vợ hay con gái, bà hay em gái? rồi họ xử lý xác như thế nào, những vài chục ngàn xác người cùng một lúc? bóp ngạt xong rồi, họ cảm thấy như thế nào? RK sẽ đặt ra những câu hỏi như thế, xuyên suốt cuốn sách. Du hành cùng Herodotus do đó là tập hợp của cả hàng trăm câu hỏi, những câu hỏi nối tiếp nhau không có câu trả lời?
Tôi nhặt được rất nhiều thứ trong lần đọc lại này. Có quá nhiều thứ hay ho, quá nhiều thứ gợi suy nghĩ. Tôi thậm chí nghĩ nếu các tổng thống Mỹ đã đọc cuốn này thì họ sẽ không làm tan hoang Iraq hay Syrie, bởi giá trị của một nhà độc tài mà cuốn sách có nhắc tới, trong khi trích dẫn Herodotus.
Sách in năm 2009, không biết ngoài tiệm có còn không. Nếu ai chưa có nên tìm mà đọc; nếu có mà chưa đọc thì đọc đi, không phải hối tiếc đâu.
Thứ Sáu, 25 tháng 3, 2016
Mấy cuốn mới đọc gần đây
Trần Khánh Dư của Lưu Sơn Minh, Đông A xuất bản
đọc cũng được
nhưng "cũng được" chắc không phải từ tác giả muốn nghe :)
nói chung tác giả nói 8 năm mới viết xong, tôi tin, vì rõ ràng tác giả viết công phu và chăm chút
tuy nhiên, công phu và chăm chút không có nghĩa là tác phẩm đạt được những điều tác giả muốn
tác giả muốn khắc họa một Trần Khánh Dư kiêu bạc và cô độc, nhưng cứ lặp đi lặp lại rằng "ông rất cô độc" không hẳn là cách hay
trận hải chiến Vân Đồn gần cuối sách đáng lý phải là một đỉnh điểm, bùng nổ, cái chết của các vị tướng thân cận lẽ ra phải gây nhiều đau đớn hơn, phải làm cho người đọc bùi ngùi, nuối tiếc hơn. Ở điểm này, Lưu Sơn Minh chưa bằng được thầy mình - Hà Ân.
dù sao, tôi vẫn trân trọng nỗ lực của nhà văn và luôn muốn đọc/xem những tác phẩm khai thác đề tài sử Việt
Hồi phục của Phan Hồn Nhiên, Trẻ xuất bản
Rất tệ, một thất vọng lớn so với Ngựa thép của chính Phan Hồn Nhiên ra cách đây hai năm. Ngựa thép đã có dấu hiệu văn hơi Tây, nhưng hãy còn ở trong chừng mực mang đến cho câu văn chút lạ lẫm nhất định, và nói chung thì giọng văn ấy hài hòa với câu chuyện. Còn trong tập này, PHN viết văn như người nước ngoài viết tiếng Việt, hay như dịch từ tiếng nước ngoài ra, mà là một bản dịch rất vụng nữa. Chẳng những PHN dùng cấu trúc dịch từ tiếng nước ngoài, mà cả từ vựng. Người Việt nào sẽ nói "trả từng phần" thay cho "trả góp", hay đặt câu kiểu "cảm xúc được thiết lập bởi...." Hằng hà sa số câu cú và từ dùng ngô nghê như thế trong Hồi phục. Vì văn quá tệ, mọi thứ khác trở nên không còn quan trọng.
Cũng nói thêm, cuốn này đầy lỗi biên tập. Chẳng hạn, trong cùng một trang, lúc thì dùng "va-li", lúc thì dùng "valise".
Sương mù tháng Giêng của Uông Triều, Trẻ xuất bản
Bối cảnh của Sương mù tháng Giêng chủ yếu trải từ kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ hai sang kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ ba của nhà Trần. Thời kỳ này, nếu chỉ đọc chính sử, ta cũng biết có rất nhiều sự kiện diễn ra; quan trọng hơn, có nhiều "chuyện" để nhà văn tưởng tượng, thêm thắt vào, để thành tiểu thuyết, ví dụ chuyện vua Trần gả An Tư cho Thoát Hoan, chuyện Trần Ích Tắc phản bội, chuyện Trần Bình Trọng hy sinh, chuyện Trần Quốc Toản dấy quân, mối bất hòa giữa Trần Quang Khải và Trần Hưng Đạo, chuyện Trần Khánh Dư tòm tem công chúa Thiên Thụy .v.v..
Uông Triều chọn cách gom gần hết những chuyện trên đây vào Sương mù tháng Giêng, thay vì chỉ khai thác sâu một trong những sử liệu trên. Làm vậy cũng được, nhưng nếu vậy, người đọc trông đợi một cuốn tiểu thuyết bề thế, đầy đặn hơn. Đằng này, rất nhiều chương trong Sương mù tháng Giêng chẳng khác gì những bài đọc lịch sử trong sách giáo khoa lớp 5. Sự sáng tạo của nhà văn là hạn chế.
Vậy nhà văn có sáng tạo không? Có, nhưng rất tiếc, những chỗ ấy thường mang màu sắc cải lương, gượng gạo, sến, non yếu. Những đoạn độc thoại nội tâm của Trần Khánh Dư, Trần Nhân Tông, Trần Ích Tắc thậm chí của Hốt Tất Liệt và Thoát Hoan đều được viết na ná nhau. Quay qua quay lại đều có những câu cảm thán như "ta là ai" "nó là ai mới được chứ". Đoạn đối thoại giữa An Tư và Thoát Hoan thì quá sức cải lương, tầm thường đến mức buồn cười. Ngoài ra, việc nhà văn trộn lẫn giữa phong cách người kể chuyện toàn năng và độc thoại nội tâm là không đạt, gây đứt gãy trong mạch kể, khiến các độc thoại nội tâm đều có vẻ giả tạo.
Tôi rất tiếc không tìm ra được điểm sáng trong cuốn tiểu thuyết này, mặc dù rất quý tác giả!
PS. Giá bìa cao phi lý, 112.000 đồng.
Không ai qua sông của Nguyễn Ngọc Tư, Trẻ xuất bản
3.5 sao, làm tròn thành 4.
Nếu như cầu thủ bóng đá có người chỉ thiên khiếu mà thành tài, có người vừa có khiếu vừa chuyên cần học hỏi luyện tập, thì Nguyễn Ngọc Tư thuộc loại thứ hai. Tư vừa có khiếu, vừa rất chăm học. Càng về sau, kỹ thuật viết truyện của chị càng cao cường. Kỹ thuật cao không luôn đồng nghĩa có truyện hay, tuy nhiên, cái nào ra cái đó, thấy kỹ thuật cao thì khen kỹ thuật.
Tiêu biểu cho lối viết thiên về kỹ thuật là truyện Đất, truyện dài nhất ở cuối tập. Ở câu chuyện trải qua 4 thế hệ, dữ dội không kém Cánh đồng bất tận này, không thể không phục tác giả tài gói ghém chi tiết, dàn dựng nút thắt nút mở .v.v.. Tuy nhiên, vì khéo quá, dụng công nhiều quá, nên không ép phê bằng Cánh đồng bất tận.
Những truyện đáng chú ý khác trong tập là Tiều tụy vòng quanh, Vực không đáy và một hai truyện nữa nhất thời không nhớ tên (mới nhớ ra một truyện là Giữa mùa chán chết).
Tập truyện này với người khác có thể kể là một thành tựu, nhưng với Tư thì chưa vượt lên chính mình. Tuy nhiên, sự chuyên nghiệp của chị là điều đáng trân trọng.
PS. Tôi sẽ thích hơn nếu tên truyện được rút lại, ví dụ Vực thay vì Vực không đáy, Tiều tụy thay vì Tiều tụy vòng quanh, Chán thay vì Giữa mùa chán chết; còn Không ai qua sông thì có thể rút thành Không!
Thứ Bảy, 16 tháng 1, 2016
Mặt trời mù - giữa thú và người
Thứ Ba, 5 tháng 1, 2016
The Sympathizer của Viet Thanh Nguyen
Trước khi đọc cuốn này, tôi nghe nói đâu đó rằng nếu như Nỗi buồn chiến tranh là góc nhìn chiến tranh của một người miền Bắc Việt Nam thì The Sympathizer là góc nhìn về chiến tranh Việt Nam từ góc độ một người miền Nam. Đọc rồi thì thấy không hẳn như vậy.
Cuốn tiểu thuyết bắt đầu từ những ngày cuối tháng 4 năm 75, khi Sài Gòn sụp đổ và người Mỹ đang tháo chạy. Nhân vật xưng tôi, người kể chuyện, là một điệp viên Cộng sản cài trong bộ máy cảnh sát của chế độ Sài Gòn với vai trò trợ lý cho một viên tướng cảnh sát. Anh này được lệnh của cấp trên cùng thoát sang Mỹ để tiếp tục báo cáo tin tức về hoạt động chống phá cách mạng từ Mỹ của viên tướng kia cũng như của người Việt ở nước ngoài. Viên tướng rồi sẽ tổ chức được một lực lượng vũ trang nhỏ đưa về Thái Lan, dự định xâm nhập biên giới Việt Nam từ đó. Anh điệp viên, vì lý do muốn bảo vệ người bạn của mình, một chuyên gia ám sát do CIA đào tạo, đã chống lệnh cấp trên mà cùng về trong chuyến đi này. Những gì đón chờ anh và đồng đội tại Việt Nam không quá khó để đoán ra.
Phần lớn cuốn sách là lời thú tội của anh viết trong trại giam. Vài chương cuối thuật lại những gì xảy ra trong trại giam, những găp gỡ bất ngờ, và khoảnh khắc anh nhận ra, among others, cái gì quý giá hơn độc lập tự do. Chúng ta đều biết đó là cái gì!
Cuốn sách không hẳn là góc nhìn về chiến tranh. Cuốn sách là góc nhìn vào chính mình của một người vừa thuộc về hai nơi chốn vừa chơi vơi không thuộc về nơi nào. Không thuộc về bên này cũng không thuộc về bên kia. Không thuộc về Mỹ cũng chẳng thuộc về Việt Nam. Thậm chí, để cho chủ đề không thuộc về đâu thêm trọn vẹn, tác giả còn cho nhân vật của mình là một đứa con lai nửa Việt nửa Pháp. Số phận của anh ta vì thế định mệnh là một số phận bi kịch.
Trừ vài chỗ hơi trầm trọng, thì The Sympathizer là một cuốn sách well-written. Đoạn tả cảnh tháo chạy ở sân bay Tân Sơn Nhất hồi hộp như xi nê hành động. Đoạn tả cảnh tra tấn trong trại giam thì giống như phim Hitchcock. Nhiều đoạn viết về văn hoá Mỹ và văn hoá Việt Nam đích đáng. Chẳng hạn, viết về người Mỹ, thông qua phát ngôn của một Việt Cộng:"Americans are a confused people because they can't admit this contradiction. They believe in a universe of divine justice where the human race is guilty of sin, but they also believe in a secular justice where human beings are presumed innocent. You can't have both...They pretend they are eternally innocent no matter how many times they lose their innocence." (Người Mỹ là một dân tộc hoang mang/rối rắm bởi lẽ họ không thừa nhận mâu thuẫn này. Họ tin vào một vũ trụ với công lý Chúa trời mà ở đó giống người là có tội, nhưng họ cũng tin vào một thứ công lý thế tục nơi con người được giả định là vô tội. Ngươi không thể có cả hai...Họ vờ mình vĩnh viễn ngây thơ vô tội bất kể họ đánh mất sự ngây thơ vô tội bao nhiêu lần rồi.) Hay đoạn viết về người Việt: "...the government doing its best to steal from the Americans, the average man doing its best to steal from the goverment, the worst of us doing our best to steal from each other." ("...chính quyền cố hết sức để ăn cắp của người Mỹ, dân thường cố hết sức để ăn cắp của chính quyền, còn đám tệ nhất trong chúng ta thì cố hết sức để ăn cắp lẫn nhau.")
Ngoài ra, đoạn tả mực ống trong cuốn sách này rất có thể khiến ta ngờ vực mỗi khi món mực ống được dọn ra trên bàn ăn, rằng liệu có thằng nhóc nào đã chơi ngẵng với con mực trước khi được cho lên chảo không?
Thứ Sáu, 1 tháng 1, 2016
Một năm đọc sách: 10 cuốn sách của năm 2015
Thứ Ba, 22 tháng 12, 2015
Khúc tiêu đồng
- kể lại chân thực cuộc đời một viên quan xuất thân nhà nghèo, nhờ học hành chăm chỉ mà thi đỗ để làm quan, và làm quan cho đến khi triều Nguyễn chấm dứt năm 1945;
- cung cấp chi tiết về việc học hành, thi cử, làm quan từ góc độ một người kể chuyện mình vs. góc độ sử gia. Ta hay phê phán người Việt xưa nay học chỉ mong để làm quan. Cuốn này kể rõ về câu chuyện học để làm quan đó. Hoàn toàn có thể hiểu được và chấp nhận được vì thời đó xuất thân nhà nghèo muốn đổi đời không có cách nào ngoài con đường học hành. Ngoài ra, cũng ghi nhận rằng, thời phong kiến, nhưng cơ hội tiến thân có thể được mở ra với bất kỳ ai thông qua thi cử. (Tuy rằng thi cử cũng lắm gian lận, và chuyện làm bài thuê/làm bài hộ là việc bình thường).
- cho phép người đọc hiểu hơn nhiều điều về xã hội Việt Nam. Chẳng hạn, cho thấy tham nhũng ở Việt Nam có truyền thống lâu đời. Thi đậu thì được làm quan, nhưng muốn có những chỗ ngon thì phải chạy tiền là chuyện đương nhiên. Về chuyện này, tác giả nhận xét người Pháp công bằng hơn, xét người chủ yếu dựa vào năng lực chứ không phải quan hệ.
- bản thân tác giả là người thú vị, ở chỗ, ông không hẳn là người xuất sắc, vượt trội, nhưng là người có năng lực và chuyên nghiệp. Ông có cảm tình với người làm chính trị, làm cách mạng, nhưng xác định bản thân không đủ can đảm để làm cách mạng, chỉ làm quan để kiếm sống. Coi việc làm quan là một nghề, ông hành nghề một cách tử tế, chuyên nghiệp, làm trọn phận sự của mình. Ông thanh liêm, tuy rằng không quá thanh liêm, nói chung, ông khá thực tế, những chuyện quà cáp nếu là tục lệ thì ông nhận, còn thì không đòi hỏi, không nhũng nhiễu dân. Chính ra, bây giờ ta rất cần những ông quan như thế này.
Thứ Năm, 17 tháng 12, 2015
Bao người chờ đợi
Romain Gary viết xong cuốn này năm 1943, tức là trước cả kết thúc chiến tranh thế giới thứ hai. Đây là câu chuyện về những người du kích Ba Lan trong chiến tranh thế giới thứ hai, trốn tránh trong rừng, và chiến đấu chống lại phát xít Đức. Cuốn sách không tập trung vào cuộc chiến đấu, mà thiên về mô tả cuộc đời của những người du kích ấy. Không có một nhân vật trung tâm, tuy nhiên có thể nói cậu thiếu niên 14 tuổi Janek được dành nhiều đất nhất. Con trai của một bác sĩ, cậu được cha mẹ cho trốn trong rừng để tránh số phận bi thảm của hai người anh trai. Cậu mau chóng nhận thấy cha sẽ không bao giờ quay lại chỗ trốn của mình trong rừng. Cậu ở lại, sống bằng tình yêu dành cho những bản nhạc, niềm hy vọng về chiến thắng của trận Stalingrad, và tình yêu của cô bé 15 tuổi Zosia. Quanh cậu, là những số phận khác, bằng những cách khác nhau trải nghiệm cái gọi là "giáo dục châu Âu": đói, lạnh, giết chóc. Văn của Romain Gary, tuy đọc qua bản dịch, lúc nào cũng cảm động.
Nếu thấy cuốn này đâu đó ở một tiệm sách cũ, bạn chớ nên bỏ qua.
Tôi vẫn còn đang kiếm cuốn thứ tư của Romain Gary được dịch ra tiếng Việt là Chó trắng, nhưng mãi vẫn chưa tìm được.
Thứ Tư, 16 tháng 12, 2015
Yêu bà già
Bà tên là Szabó Magda, người Hungary, sinh năm 1917, mất năm 2007. Tác phẩm đầu tiên và duy nhất của bà được dịch ra tiếng Việt, in trong năm 2015 vừa rồi, là Cánh cửa. Tiểu sử của bà cho biết bà là một trong những nhà văn hàng đầu Hungary. Đất nước Hungary nhỏ bé thế mà sinh ra bao nhiêu nhà văn lớn, chắc nhờ vào phẩm chất đế quốc một thời (đế quốc Áo Hung tồn tại đến năm 1918). Đã dịch ra tiếng Việt thì có Marai Sandor (Những ngọn nến cháy tàn, Bốn mùa - trời và đất, v.v.), Imre Kertesz (Kinh cầu cho đứa trẻ chưa ra đời, Không số phận); chưa dịch ra tiếng Việt thì có Antal Szerb, Peter Nadas, và nhà văn có tên rất khó nhớ là László Krasznahorkai, chủ nhân giải Man Booker International 2015. Cả bốn người trên đều đã được dịch ra tiếng Anh nhiều. Còn Szabó Magda, kể cả trong thế giới Anh ngữ vẫn chưa được biết nhiều lắm. Cuốn Cánh cửa, được dịch ra tiếng Anh lần đầu 1995, nhưng mãi đến khi New York Review Book Classics đưa vào series của mình thì mới được đọc rộng rãi. Năm 2015, The Door được New York Times chọn là 1 trong 10 cuốn sách hay nhất trong năm.
Cánh cửa chắc chắn là một trong những tiểu thuyết hay nhất mà tôi đọc được năm rồi. Nếu nói cuốn sách kể về cái gì, thì nghe có vẻ rất tẻ nhạt, bởi trên bề mặt nó chỉ kể về mối quan hệ giữa hai người đàn bà, một là nhà văn - xưng tôi, người kia là một bà già giúp việc nhà.
Tuy nhiên, Emerence, tên bà già giúp việc, ắt là một trong những nhân vật văn học ấn tượng nhất, giàu cá tính nhất mà tôi từng biết. Bà lập dị, hẳn nhiên; bà lững lững, cả về tinh thần lẫn thể xác. Bà có một năng lực gần như siêu nhiên, đó là năng lực điều khiển chó, mèo, (phải mở ngoặc con chó đực mang tên cái Viola cũng là một trong những con chó đáng nhớ nhất trong văn chương), thậm chí cho phép ai, bao gồm bản thân, được chết hay không.
Cái tôi thích ở Cánh cửa đó là cách mà tác giả chấm phá về lịch sử Hungary, những biến cố đất nước này trải qua, cả về chế độ chính trị, bằng cách gần như, có vẻ như chỉ tập trung vào mối quan hệ giữa hai người đàn bà. Một cuốn tiểu thuyết có thể rất chính trị, nói được nhiều điều về một đất nước, trong khi bề ngoài có vẻ đơn giản, thậm chí tẻ nhạt.
Riêng về Emerence, có một điểm trong tính cách của bà làm tôi nhớ tới một nhân vật trong một tiểu thuyết khác mà tôi cũng rất thích, đó là Zorba trong Tay chơi Hy Lạp. Sự liên tưởng này có vẻ hơi kỳ quái, nhưng nếu ai đọc cả hai cuốn rồi chắc sẽ đoán ra tôi muốn nói tới điểm nào.
Thứ Hai, 14 tháng 12, 2015
Đọc tiểu thuyết: Trường hợp Suối nguồn
Bản thân tôi có một kỷ niệm hết sức sâu sắc về Suối nguồn. Đó là một lần đi chơi với bạn gái, giận dỗi gì đó, tôi bèn đem cuốn sách mang theo bên mình khi ấy, tình cờ là The Fountainhead, ra đọc liền một mạch 200 trang. Sau 200 trang đó thì thôi, vì cuộc giận kia đã kết thúc. Từ đó, chưa một lần tôi đọc tiếp hay đọc lại Suối nguồn. Tuy vậy, không cần phải đọc hết một cuốn sách mới biết cuốn sách ấy như thế nào.
Đáng đọc hay không, hoặc ảnh hưởng thế nào đến cá nhân, xin không bàn, vì đó là cảm nhận riêng của mỗi người. Nhưng có một điều cần nói rõ, đó là Suối nguồn không phải là tiểu thuyết văn học đích thực, do đó không thể xếp ngang hàng với các cuốn nhắc trên.
Bản chất của tiểu thuyết là đa nguyên, tinh thần của tiểu thuyết là sự phức tạp. Suối nguồn làm ngược lại tinh thần này. Nó đơn giản hóa mọi sự, bởi lẽ Ayn Rand viết cuốn này để minh họa cho tư tưởng của bà. Suối nguồn do đó là một loại văn nghệ minh họa, không khác gì nhiều tác phẩm văn nghệ minh họa khác mà chúng ta quá quen thuộc, duy chỉ minh họa cho một tư tưởng khác mà thôi.
Thích hay không thích xin tùy ý, nhưng về mặt khách quan, vạn vật đều có chỗ của nó.
Thứ Ba, 2 tháng 6, 2015
Sách đọc 2014
Theo truyền thống, cuối năm nào cũng tổng cái sự đọc trong năm. Năm nay, không còn là full time reader như năm trước, dĩ nhiên đọc ít đi hơn. Tuy nhiên, sự khoan khoái không vì thế mà bớt lại. Những cái khoan khoái nhất được ghi lại dưới đây, theo thứ tự đọc, không phải theo thứ tự khoái:
- Alice ở xứ sở thần tiên (Lewis Caroll): Kể cũng hơi xấu hổ, đây là lần đầu tiên đọc trọn cuốn này, nhờ đọc cho Alpha và Pi. Trước đó, chỉ đọc bản rút gọn. Truyện cho trẻ con mà bố thấy hay, sự không phải bàn thêm.
- Alexis Zorba – Con người hoan lạc (Nikos Kazantzaki, Dương Tường dịch): Đọc lần thứ hai. Lần đọc sau thấy cuốn sách làm mình yêu đời hơn lần trước. Đây sẽ là cuốn sách cứ hai, ba năm cần đọc lại một lần.
- Kaputt (Curzio Malaparte): Chiến tranh thế giới thứ hai qua mắt một nhà báo Ý, nhưng đây không phải là tác phẩm báo chí mà là tác phẩm văn học. Tôi thích cuốn này vì sự khốc liệt, thông minh và hài hước của nó.
- Đời tôi (Marcel Reich-Ranicki, Lê Chu Cầu dịch): Cuốn sách này nói với tôi hai điều: Thứ nhất, một tình yêu, ở đây là tình yêu văn chương, có thể giúp người ta vượt qua qua những quãng thời gian đọa đày nhất như thế nào; thứ hai, làm một nhà phê bình văn học đích thực nghĩa là thế nào. Quyển sách này nhất định rất có ích cho các nhà văn.
- The spy who came from the cold (John le Carré, đã có bản dịch tiếng Việt hình như là Người về từ miền đất lạnh): Đỉnh cao thể loại tiểu thuyết gián điệp.
- The road (Cormac McCarthy): U tối và đầy ám ảnh, đồng thời cũng là câu chuyện tuyệt đẹp về cha và con trai.
- Memet, chàng mảnh khảnh (Yaşar Kemal, Trần Dần dịch từ bản tiếng Pháp): Thiên anh hùng ca về một tướng cướp xuất thân nông dân. Văn chương khoái hoạt vô cùng, bản dịch của Trần Dần cũng tuyệt diệu. Mười lăm, mười sáu tuổi mà đọc được cuốn này thì mơ làm tướng cướp mất thôi. May mà đã qua tuổi đó.
- Tình cuồng (Raymond Radiguet, Huỳnh Phan Anh dịch): Một tuyệt phẩm nho nhỏ về tình yêu. Điều kinh ngạc nhất là làm thế nào Raymond Radiguet có thể viết cuốn này khi mới mười bảy tuổi.
- Chúa tể những chiếc nhẫn (J.R.R. Tolkien, nhóm dịch giả Nhã Nam): Có lẽ không cần nói thêm gì về bộ truyện này vì nó quá nổi tiếng.
- Thương (Toni Morrison, Hồ Như dịch): Nhiều khi đọc tiểu thuyết chỉ là để nhớ một cảnh như thế này: một bà mẹ da đen cầm cưa, cưa đứa con mười mấy tháng tuổi của mình để nó khỏi rơi vào cảnh nô lệ.
- Mù lòa (José Saramago, Phạm Văn dịch): Chuyện gì xảy ra khi tất cả chúng ta đều mù? Con người sẽ đối xử với nhau như thế nào? Trong tuyệt vọng, man dã, rốt cuộc cũng có những điểm sáng. Con người tuy tệ, nhưng vẫn không đến mức phải mất hết cả lòng tin vào con người.
- Lời hứa lúc bình minh (Romain Gary, Nguyễn Duy Bình dịch): Tuyệt.