Hiển thị các bài đăng có nhãn Javier Marias. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Javier Marias. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 19 tháng 5, 2025

Không còn tình yêu - Javier Marías

Truyện ngắn của Javier Marías


Rất có thể mục tiêu chính của các hồn ma, nếu họ vẫn tồn tại, là ngăn cản mong muốn của những người còn sống, hiện ra khi sự có mặt của họ không được chào đón và lẩn biến đi nếu có ai trông chờ hay đòi hỏi. Tuy vậy, các tài liệu mà Ngài Halifax và Ngài Rymer thu thập được trong những năm 1930 cho ta biết, đôi khi, có những thỏa thuận giữa ma và người.


Một trong những trường hợp khiêm nhượng và cảm động nhất là chuyện về một bà cụ sống ở thị trấn Rye, khoảng năm 1910: một nơi chốn phù hợp cho những mối quan hệ lâu bền, vì cả Henry James lẫn E.F. Benson đều từng sống ở Rye độ vài năm trong cùng ngôi nhà có tên là Lamb House, (họ sống ở đó trong những quãng thời gian khác nhau, Benson thậm chí còn trở thành thị trưởng), hai nhà văn rất mực bận rộn với những chuyến viếng thăm và sự trông đợi, hay có lẽ, niềm hoài nhớ ấy. Thời trẻ, bà cụ này (nhũ danh Molly Morgan Muir) là người hầu cho một quý bà cao tuổi, giàu có; Molly giúp việc cho bà, gồm cả việc đọc tiểu thuyết để bà dịu nỗi buồn chán vì bà chẳng có nhu cầu gì mấy mà lại gánh chịu cảnh góa phụ từ sớm và không thể tránh khỏi: theo người dân trong thị trấn, bà Cromer-Blake đã phải chịu đựng sự thất vọng ngang trái thi thoảng trong tình yêu sau cuộc hôn nhân ngắn ngủi, và có lẽ điều này - hơn là cái chết của ông chồng ít được hay hoàn toàn không được nhớ tới - đã khiến bà có vẻ cáu bẳn và thu mình vào cái tuổi mà những phẩm chất ấy ở một phụ nữ không còn hấp dẫn hay duyên dáng hay là đối tượng đùa cợt nữa. Sự chán nản khiến bà uể oải đến nỗi bà gần như không thể tự mình đọc cái gì một mình trong im lặng, vì vậy bà sai người hầu đọc to cho bà nghe những chi tiết về các chuyện tình và cảm xúc mà với mỗi ngày trôi qua - và chúng trôi qua rất nhanh và đơn điệu - dường như càng xa cách hơn căn nhà ấy. Bà luôn lắng nghe thật lặng lẽ, tuyệt đối đắm chìm trong câu chuyện, và thảng hoặc lắm mới yêu cầu Molly Morgan Muir đọc lại một đoạn hay một mẩu đối thoại mà bà không muốn giã từ mà trước hết không cố tỏ ra lưu luyến. Mỗi khi Molly đọc xong, nhận xét duy nhất của bà là: “Molly, giọng của cô thật dễ thương. Với chất giọng đó cô sẽ tìm thấy tình yêu.”


Chính trong những buổi đọc ấy hồn ma của ngôi nhà xuất hiện: mỗi tối, khi Molly đang đọc những câu văn của Stevenson, Jane Austen, Dumas hay Conan Doyle, cô có thể nhận ra hình dáng một chàng trai trẻ, thuần hậu, một anh chàng vững chải. Lần đầu thấy anh, đứng tì hai khuỷu tay trên lưng ghế bà già đang ngồi, như thể anh ta đang chăm chú lắng nghe truyện cô đang đọc, cô suýt rú lên vì sợ hãi. Nhưng chàng trai trẻ ngay lập tức nhấc một ngón tay lên môi trấn an, ra hiệu cô cứ tiếp tục và đừng tiết lộ sự có mặt của anh. Anh có một gương mặt hiền lành, và một nụ cười bẽn lẽn thường trực trong đôi mắt giễu cợt, thỉnh thoảng nhường chỗ cho, giữa những đoạn u sầu, vẻ nghiêm túc ngây thơ và đầy cảnh giác của một người không rành rọt cách phân biệt giữa cái có thực và cái tưởng tượng. Cô gái nghe theo, cho dù trong ngày đầu tiên đó, cô không thể không ngước lên quá thường xuyên nhìn qua cái chỏm trên đầu bà Cromer-Blake, người cũng nhìn lên theo, như thể tự hỏi một cái mũ giả định nào đó đang bị lệch hay như thể đèn không đủ sáng. “Gì thế, cô bé?” bà nói, hơi bực mình. “Sao cô cứ ngước nhìn cái gì hoài vậy?” “Không có gì ạ,” Molly Muir đáp, “chỉ là cách cháu cho mắt nghỉ ngơi trước khi quay lại cuốn sách thôi. Đọc lâu thế này làm cháu mỏi mắt.” Chàng trai khăn quấn quanh cổ khẽ gật đầu và cử chỉ đó có nghĩa là cô gái sau này có thể tiếp tục thói quen ngước nhìn và nhờ đó ít ra có thể thỏa mãn con mắt tò mò của mình. Vì, kể từ đó, đêm nào cũng thế, trừ rất ít ngoại lệ, cô đọc cho bà già mà cũng là đọc cho anh, mà bà già chưa bao giờ ngoảnh lại hay khám phá ra sự hiện diện của chàng trai trẻ.


Chàng trai không nấn ná hay xuất hiện vào bất cứ lúc nào khác, do đó trong suốt bao năm trời Molly Muir chưa bao giờ có cơ hội nói chuyện với anh hay hỏi anh là ai hay từng là ai hay tại sao anh lại nghe cô đọc sách. Cô ngẫm tới khả năng anh biết đâu là nguyên do của sự thất vọng trong tình yêu bị cấm đoán mà bà chủ của cô gánh chịu đâu đó trong quá khứ, nhưng bà chủ chưa bao giờ chia sẻ bí mật nào, bất chấp những lời bóng gió của những trang sách được đọc to ấy và của chính Molly trong những cuộc trò chuyện chậm rãi, trong đêm suốt cả nửa cuộc đời. Có lẽ tin đồn là không đúng và bà chủ chẳng có gì đáng để kể lại, ấy là lý do tại sao bà đòi nghe những câu chuyện xa xôi nhất, lạ lẫm nhất và khó xảy ra nhất. Hơn một lần, Molly có ý định làm điều tử tế, nói cho bà nghe chuyện gì diễn ra sau lưng bà để bà chia sẻ với cô niềm hào hứng nho nhỏ hằng ngày, kể cho bà nghe về sự hiện diện của một người đàn ông giữa những bức tường vô tính, trầm tư trong đó chỉ có tiếng vọng, đôi khi nguyên cả ngày đêm, của giọng họ; giọng của bà chủ ngày càng già hơn, lẫn thẫn hơn, còn giọng của Molly Muir, mỗi sáng, bớt đẹp đi một tí, yếu ớt hơn và nhợt nhạt hơn, và trái ngược với dự đoán, không mang đến tình yêu cho cô, ít nhất không phải là một thứ tình yêu sẽ ở lại, một thứ tình yêu có thể cầm nắm được. Nhưng bất cứ khi nào cô định đầu hàng sự quyến rũ đó, cô sẽ đột nhiên nhớ lại cử chỉ ra hiệu im lặng của chàng trai - ngón tay trên môi, thỉnh thoảng lặp đi lặp lại với ánh nhìn hơi có vẻ trêu chọc - và thế là cô giữ im lặng. Cô không muốn chọc giận anh chút nào. Có lẽ ma cũng dễ chán chường như góa phụ. 


Sau khi bà Cromer-Blake mất, Molly vẫn ở trong ngôi nhà ấy, buồn và mất phương hướng nên cô ngừng đọc sách mất mấy ngày: chàng trai không xuất hiện. Tin rằng chàng trai quê muốn có được học vấn mà chàng rõ ràng là đã thiếu trong cuộc đời, nhưng cũng sợ rằng không phải vậy mà sự hiện diện của chàng gắn một cách bí ẩn với bà già mà thôi, cô quyết định đọc to trở lại để gọi anh về, lần này cô không chỉ đọc tiểu thuyết, mà còn cả sách về lịch sử và khoa học tự nhiên. Mất ít lâu chàng trai mới xuất hiện trở lại - có lẽ ma cũng để tang, họ có lý do làm điều ấy hơn ai hết - nhưng cuối cùng chàng cũng xuất hiện trở lại, có lẽ bị thu hút bởi những nội dung mới, mà chàng tiếp tục lắng nghe với cùng vẻ chăm chú, nhưng lần này chàng không đứng, tì vào lưng ghế, mà thoải mái ngồi hẳn xuống ghế bành, thỉnh thoảng vắt chân chữ ngũ, cầm tẩu thuốc trên tay, như một vị trưởng tộc mà anh không bao giờ trở thành.


Cô gái, ngày càng già đi, càng nói chuyện thân mật hơn với anh, nhưng chưa bao giờ được trả lời: ma không phải lúc nào cũng nói được, mà cũng không phải lúc nào cũng muốn nói. Và như thế mối liên kết đơn phương ấy phát triển, năm tháng cứ thế trôi qua, cho đến một ngày nọ chàng trai không hiện ra, rồi cả những ngày và tuần kế tiếp cũng không thấy chàng đâu. Cô gái, giờ đã khá già, thoạt tiên lo lắng như một người mẹ, sợ một tai nạn hay chuyện không may nghiêm trọng nào đó đã xảy ra với anh, không nhận thức được rằng những chuyện ấy chỉ có thể xảy ra với người sống, chứ ai không còn sống thì lại an toàn. Hiểu ra điều này, nỗi lo lắng của bà chuyển sang tuyệt vọng: tối tối, bà nhìn chằm chằm vào cái ghế bành trống rỗng và nguyền rủa sự im lặng, hỏi những câu hỏi đau buồn với hư không, ném những lời trách móc vào không gian vô hình, bà băn khoăn không biết mình đã phạm phải lỗi lầm gì và bà háo hức tìm những cuốn sách mới có thể khơi dậy lòng hiếu kỳ của chàng trai để khiến chàng quay trở lại, những thể loại mới và tiểu thuyết mới, và bà nôn nao chờ đợi từng kỳ truyện Sherlock Holmes mới, vì bà tin tưởng kỹ năng và văn chương của ông hơn bất kỳ món mồi khoa học hay văn chương nào khác. Bà tiếp tục đọc to mỗi ngày, để xem chàng trai có đến hay không.


Một tối nọ, sau nhiều tháng sầu muộn, bà phát hiện ra cái đánh dấu sách kẹp trong một cuốn của Dickens mà bà đã kiên nhẫn đọc cho chàng trai trong khi chàng vắng mặt không còn ở chỗ bà đánh dấu nữa, mà đã được dời sang chỗ khác cách đó nhiều trang. Bà cẩn thận đọc trang chàng đánh dấu, và rồi, cay đắng bà hiểu ra và gánh chịu nỗi thất vọng vốn có thể đến trong mọi cuộc đời, cho dù cuộc đời ấy kín đáo hay tĩnh lặng đến thế nào chăng nữa. Trong trang sách ấy, có một câu như thế này: “Và khi cô già đi và nhăn nheo, chất giọng mờ đục của cô không còn làm chàng vui sướng nữa.” Ngài Rymer nói rằng bà già ấy trở nên phẫn uất như một người vợ bị từ chối, và rằng, hoàn toàn không chấp nhận phán xét này và không chịu câm lặng, bà lớn tiếng mắng mỏ khoảng không: “Ngươi không công bằng. Ngươi không già đi và ngươi cứ muốn có những giọng đọc trẻ trung, tươi tắn, ngươi muốn ngắm những gương mặt đầy căng rạng rỡ. Đừng nghĩ là ta không hiểu ngươi, ngươi trẻ trung và vẫn mãi trẻ trung. Nhưng ta đã dạy dỗ ngươi, giải khuây cho ngươi bao nhiêu năm nay, nếu nhờ ta mà ngươi học được bao nhiêu điều, kể cả học đọc, thì cũng đừng tới mức mà ngươi để lại cho ta những lời nhắn phũ phàng qua chính cuốn sách mà ta luôn chia sẻ với ngươi. Hãy nhớ rằng khi bà mất đi, ta có thể dễ dàng đọc trong im lặng, nhưng ta đã không làm vậy. Ta biết ngươi có thể đi tìm những giọng nói khác, không có gì ràng buộc ngươi với ta và đúng là ngươi chưa từng đòi hỏi gì ở ta, nên ngươi chẳng nợ nần gì ta. Nhưng nếu ngươi có chút lòng biết ơn nào, ta yêu cầu ngươi ít nhất một tuần một lần đến nghe ta đọc và hãy kiên nhẫn với giọng của ta, cho dù giọng ta không còn đẹp đẽ và không còn làm ngươi vui sướng, bởi vì giờ đây nó sẽ không bao giờ mang tình yêu đến cho ta. Ta sẽ cố tiếp tục đọc tốt hết sức mình. Nhưng hãy tới, bởi vì giờ đây ta đã già, ta mới là người cần ngươi đến đây giải khuây cho ta.”


Theo Ngài Rymer, hồn ma thanh xuân thuần hậu vĩnh hằng đó không phải là hoàn toàn không  hiểu biết và chàng đã nghe rõ lý do hay ít ra cũng hiểu biết ơn nghĩa là gì: từ đó, cho đến khi chết, Molly Morgan Muir hào hứng và sốt sắng đợi đến mỗi thứ Tư, ngày mà tình yêu câm lặng và không chạm tới được của bà chọn để trở về với quá khứ của thời của chàng, mà thực ra, ở đó không có quá khứ và không có thời gian. Và người ta nghĩ rằng chính điều ấy đã khiến bà sống thêm nhiều năm nữa, tức là, với một quá khứ và một hiện tại và cả một tương lai hay có lẽ chỉ là niềm hoài nhớ.


Dịch từ truyện "No More Loves" trong tập When I was Mortal của Javier Marías, theo bản tiếng Anh của Margaret Jull Costa 


Thứ Sáu, 8 tháng 3, 2013

Đọc là niềm lạc thú


Trả lời phỏng vấn F Magazine, một tạp chí thời trang, với tư cách độc giả

Anh đang đọc gì?

Tôi đang đọc cuốn tiểu thuyết của nhà văn Tây Ban Nha Javier Marías, Tomorrow in the battle think on me. Nhà văn này đã có hai cuốn được dịch ở Việt NamTrái tim bạc nhược Người đàn ông đa cảm.

Câu chuyện của cuốn sách anh đang đọc là gì?

Tôi  mới đọc được một phần ba, nên cũng không biết câu chuyện sẽ dẫn chúng ta đến đâu, nhưng nó đặt ra một tình huống đặc biệt. Một người đàn ông có hẹn với một phụ nữ mới quen. Cô ta mời anh ta đến nhà ăn tối, dĩ nhiên có phần lãng mạn theo sau. Chồng cô ta đi công tác. Cô có một đứa con 2 tuổi. Ăn tối xong, phải dỗ mãi cô ta mới cho đứa bé ngủ được. Khi hai người họ đang ở vào khúc dạo đầu của yêu đương được độ 10 phút, thì người phụ nữ  đột nhiên lên cơn khó thở, và chết. Anh ta sẽ phải làm gì trong căn hộ xa lạ, với một đứa trẻ 2 tuổi đang ngủ và một người phụ nữ đã chết? Nếu lẳng lặng rút lui, anh ta sẽ không gặp phiền toái gì và không ai biết anh ta từng có mặt ở đây, nhưng còn đứa bé 2 tuổi, lỡ nó thức dậy và gặp nguy hiểm? Nếu anh ta ở lại? Chuyện ngoại tình sẽ vỡ lở, sẽ gặp rắc rối với cảnh sát điều tra, người phụ nữ đã chết bị ô danh…

Đúng là chưa ăn được táo thì đã bị rắn mổ vào chân! Ở vào hoàn cảnh người đàn ông đó, anh xử trí thế nào?

Xử trí thế nào… hừm… tôi chưa bao giờ rơi vào hoàn cảnh đó (!) Tôi cũng không biết tác giả sẽ đẩy nhân vật đến đâu. Lúc này anh ta đã tìm thấy số điện thoại của người chồng đang công tác ở London và mân mê nó trên tay. Riêng cái trường đoạn tâm lý này thôi đã kéo dài 50 trang và chưa hết. Những đoạn phân tích tâm lý nhân vật thật tinh vi, kỳ thú.

Vậy là anh, độc giả Lâm Vũ Thao, anh sẽ chọn ở lại để rồi dấn thân vào hàng loạt các rắc rối không thể tiên liệu hết hay rút êm, giao phó đứa trẻ cho bàn tay số mệnh?

Tôi ở lại. Có lẽ phải như vậy. Tôi không làm khác được.

Anh xứng đáng là độc giả của Trái tim bạc nhượcNgười đàn ông đa cảm! Hẳn Javier Marías hài lòng về anh. Vì sao anh lại ưu tiên đọc sách văn học, đặc biệt là tiểu thuyết, hơn hẳn các loại sách khác?

Tôi đọc sách không nhằm vào mục đích gì, soi sáng bản thân hay tìm niềm cảm thông, an ủi, cũng không phải vì công việc, chỉ đơn giản là tôi thích. Bất cứ theo đuổi cái gì thì đấy đều là niềm đam mê– theo đuổi để thỏa mãn mình. Khi đọc, tôi tìm thấy nhiều niềm vui trong đó. Cuộc sống thực tế  trải nghiệm thường không quá đa dạng, không đủ đáp ứng cho đời sống cảm xúc và trí tưởng tượng của tôi. Đó cũng là lý do chung nhất khiến người người ta tìm đến nghệ thuật. Riêng với tiểu thuyết, nó là nghệ thuật, không chỉ hấp dẫn riêng tôi, “ Tiểu thuyết và nhạc giao hưởng là hai nghệ thuật trụ cột của văn minh châu Âu”, Orhan Pamuk nói vậy.

Vì sao anh gạt bỏ tivi, phim ảnh, nhạc nhẽo, nói chung là các bộ môn nghe – nhìn qua một bên để dành thời gian cho sách mà không phải là ngược lại?

Tivi, tôi không chịu nổi. 2 năm qua tôi không bật tivi, vợ tôi cũng không xem, chỉ còn hai đứa con. Báo chí tôi chỉ lướt qua. Tôi có thể kiên nhẫn trong 7- 8 tiếng liền cho đọc nhưng với tivi, các loại DVD nói chung, tôi thường chỉ có thể kiên nhẫn với chúng 15- 20 phút là hết.

Anh bị sự trừu tượng của ngôn ngữ lôi cuốn sâu vào thế giới của chúng, tôi nghĩ vậy. Có khi nào anh tự đánh đắm mình trong thế giới tưởng tượng ấy không?

Không. Tôi là luật sư, tôi rất tỉnh táo và lý trí. Tôi biết một cuốn sách hay chứ không phải cảm một cuốn sách hay. Tôi thưởng thức cái đẹp của cấu trúc, ngôn ngữ, câu chuyện và văn phong chứ tôi không nhập thân vào tác phẩm hay nhân vật.

Anh có phải là người được yêu chiều, kẻ được nhiều người vây quanh, đứa con cưng của số mệnh không?

Sao chị lại nghĩ vậy?

Vì cách đọc sách của anh. Đấy thuần túy là hoạt động trí óc của một nhà nghiên cứu dù anh không định nghiên cứu. Anh không có sự đồng cảm về mặt tâm hồn với các nhân vật văn học, không tìm thấy ở nó một niềm an ủi, thấu hiểu sâu xa. Sách vở không gây nên ở anh những cơn chấn động quyết định đến cách nhìn cuộc đời và cách ứng xử với cuộc đời của anh. Anh cũng không cần nương tựa vào sách để tăng sức chịu đựng với cuộc đời này. Một tâm hồn không run rẩy với văn chương là một tâm hồn chưa từng trải qua mất mát, khổ đau chăng?

Có lẽ tôi là người nhiều may mắn trong cuộc đời, mà cái may mắn lớn nhất là khi sinh ra đất nước không còn chiến tranh nữa. Nói không đồng cảm với nhân vật văn chương thì không đúng. Tôi đồng cảm với các nhân vật, nhưng không run rẩy với văn chương theo cách nói của chị. Còn theo cách nói của tôi thì tôi quan tâm đến bản thân văn chương hơn nhân vật trong các tác phẩm. Những đau khổ, mất mát của cá nhân tôi, cũng có, nhưng nhỏ nhặt, có là gì so với bao người.

Sách vở đẩy chúng ta ra khỏi sự lười biếng của tư duy và cảm xúc, nhưng lại dễ khiến chúng ta rơi vào sự do dự trong hành động. Anh có nhận thấy điều này ở mình không?

Không, tôi sống rất cân bằng, sách vở không có những tác động tiêu cực lên tôi. Từ việc đọc như một sở thích giờ đã trở thành cần thiết. Lúc nào tôi cũng phải đọc. Thời gian không đọc tôi thấy mình trống rỗng, khô cạn. Đọc làm đầy năng lượng trong tôi.

Đùa vui một tí, anh “bị” như thế lâu chưa?

Tôi ham đọc và đọc rất nhanh từ nhỏ. Thời gian đọc nhiều nhất là từ hồi học cấp II trở xuống, sau đấy đến thời tuổi trẻ  vẫn đọc nhiều  nhưng còn có những mối quan tâm khác. 5 năm trở lại đây thì đọc kha khá.

Anh duy trì việc đọc mấy tiếng một ngày? Tốc độ đọc hiện nay?

Thường ngày tôi đọc 2- 3 tiếng. Với sách văn học tiếng Việt, tôi có thể đọc từ 100- 120 trang/ giờ, sách tiếng Anh khoảng 50 trang/giờ. Với sách lịch sử, nghiên cứu thì chậm hơn.

Anh thường chọn sách theo tiêu chí nào?

Tác giả. Tôi để ý đến tác giả qua các bài viết về tác giả đó, và nếu thích, sẽ theo đuổi mãi. Trong những năm gần đây, năm nào tôi cũng tìm ra được một tác giả yêu thích.  Ví dụ năm thì  Paul Auster,  tôi đọc cả chục cuốn của ông. Năm thì Orhan Pamuk, 7 cuốn. Roberto Bolano, 5 – 7 cuốn liên tục. Năm ngoái tôi đọc Yukio Mishima. Mỗi thời gian tôi tìm một tác giả và say sưa với họ. Năm nay tôi đang muốn tìm một số tác giả của Đông Âu.

Nếu có thể trở thành một nhân vật trong văn học, anh muốn trở thành ai?

Goldmund , trong tác phẩm  Nhà khổ hạnh và gã lang thang của Hermann Hesse. Tôi mong  muốn trở thành anh ta, vì đó là phần mình thiếu (thực ra tôi giống anh bạn thầy tu Narziss hơn). Tôi muốn mà không đồng nhất về quan niệm cuộc đời với Goldmund. Tôi hâm mộ anh ta ở kiểu sống lang bạt và khả năng chinh phục phụ nữ! 

Nếu có thể lấy làm vợ một nhân vật trong văn học, anh sẽ hỏi cưới ai?

Không, không có ai.

Anh có thể yêu và chung sống với một phụ nữ không màng gì đến văn chương sách vở không?

Chắc là không.

Ai sẽ hấp dẫn anh, một cô thật xinh hay một cô chăm đọc sách?

Một cô gái có tâm hồn.

Nhật Chiêu cho rằng, đọc tiểu thuyết “gần với ái ân”. Anh nghiện tiểu thuyết, anh giải thích giúp tôi được không?

Đọc sách làm ta sướng nhưng cũng có thể làm ta đau. Chị tự luận ra phần còn lại nhé.

Bạn đọc có thể giao tiếp với anh qua kênh nào?

Qua blog của tôi, “bloggoldmund.blogspot.com”. Đây gần như là một blog chuyên về sách vở và những người chơi trong ấy cũng toàn là mọt sách.

Hải Miên (thực hiện)

Thứ Tư, 12 tháng 12, 2012

Trái tim bạc nhược - bức tranh ghép về cuộc đời


Bạn có một bí mật? Tốt. Lời khuyên dành cho bạn là đừng chia sẻ điều đó với bất kỳ ai, kể cả, và nhất là, cho những người bạn yêu thương nhất. Hãy giữ nó lại cho riêng mình, vì chẳng thể lường trước được hiểm nguy nào có thể xảy ra khi bí mật đó được tiết lộ. Thật ra, đây là lời khuyên của một ông bố dành cho cậu con trai mới lấy vợ. Ông bố là Ranz, và cậu con trai là Juan, hai nhân vật trong cuốn tiểu thuyết Trái tim bạc nhược của nhà văn Tây Ban Nha Javier Marías (Lê Xuân Quỳnh dịch, Bách Việt và NXB Phụ Nữ 2010).

Trái tim bạc nhược mở đầu bằng một vụ tự sát trong phòng tắm của một cô gái vừa mới đi hưởng tuần trăng mật trở về - cô gái ấy là vợ thứ hai của Ranz và là bác gái của Juan. Ngay kế đó, thời gian của chuyện kể nhảy hơn bốn mươi năm, đến cuộc đàm thoại giữa hai vị lãnh đạo cấp cao của Tây Ban Nha và Anh - cuộc đàm thoại mà nhờ đó Juan, với tư cách người phiên dịch, quen với Louisa, người sau này trở thành vợ anh. Từ thời điểm đó, thời gian của câu chuyện, qua lời kể của Juan, liên tục xáo trộn, xen kẽ giữa những chuyến đi của Juan. Đến gần cuối sách, Juan mới tìm hiểu được bí mật về cái chết bác gái - và từ đó soi rọi vào đời sống hôn nhân của chính mình.

Với cấu trúc như thế, Trái tim bạc nhược có dáng vẻ của một bức collage - một bức tranh ghép thành từ nhiều bức tranh nhỏ hơn, đính lại với nhau bằng một số chi tiết. Một trong những chi tiết đó là hình ảnh Juan gẩy tàn thuốc lên tấm khăn trải giường mà vợ anh đang nằm. Bố Juan, tức Ranz, cũng đã làm tương tự như thế với người vợ đầu tiên của mình mà hậu quả của hành vi đó cực cùng khốc liệt, không chỉ ở thời điểm hành vi đó diễn ra. Một hình ảnh trở đi trở lại khác ở nhiều chỗ khác nhau trong tác phẩm đó là hình ảnh chỗ dựa: “chúng ta chỉ thật sự cảm thấy có chỗ dựa lưng khi có người khác ở phía sau mình.” Những đoạn viết về chiếc gối trong đời sống vợ chồng cũng có tác dụng đính kết tương tự.

 Trái tim bạc nhược đầy ắp những quan sát tinh tế đến nỗi ta có cảm giác tác giả chẳng bao giờ bị cuộc sống cuốn trôi, rằng cuộc đời tuy có xôn xao đến thế nào chăng nữa thì tác giả vẫn giữ một sự tỉnh táo, một khoảng cách cần thiết để rút ra những đánh giá, nhận xét lạnh lùng và đau đớn nhất. Ở một chương gần đầu cuốn sách, khi nhắc đến những người đến chật quảng trường lớn để tung hô Franco, nhà độc tài đã có công làm cho Tây Ban Nha trở thành một trong những quốc gia lạc hậu nhất châu Âu, Javier Marías cho nhân vật của mình nhận xét rằng những người ấy thực sự yêu mến Franco. Tại sao? “Bởi vì trước đây, suốt mấy chục năm họ đã bị bắt buộc làm việc đó. Yêu mến cũng là một thói quen mà.” Ở một đoạn khác, Javier Marías bình luận về trí tưởng tượng: “Có trí tưởng tượng sẽ tránh được nhiều tai ương, ai tự tưởng tượng ra cái chết của bản thân thì sẽ ít khi tự sát, ai hình dung ra cái chết của người khác thì hiếm khi trở thành kẻ giết người...” Quả đúng như thế.

Có thể nói, Trái tim bạc nhược là một tiểu thuyết về những điều bí mật, nhưng cũng có thể nói đây là một tiểu thuyết về đời sống hôn nhân, là một truyện vụ án, là một cuốn sách mang những ẩn ý về chính trị. Trên hết, đây là một tiểu thuyết về cuộc đời. Dĩ nhiên, đây là một mệnh đề mơ hồ, mang tính “ba phải”, vì bất cứ tiểu thuyết nào, nếu thực sự là tiểu thuyết, cũng đều là cuốn sách về cuộc đời. Sự khác biệt chỉ nằm ở chỗ hời hợt hay sâu sắc, nhàm chán hay giàu tính khám phá - tương tự như danh xưng “người đàn bà hát” vốn chỉ dành cho một số rất hiếm hoi phụ nữ lấy hát làm lẽ sống.

Trái tim bạc nhược đã đoạt nhiều giải thưởng quốc tế, trong đó có giải thưởng rất uy tín IMPAC Dublin - giải thưởng từng được trao cho các tác phẩm như Tên tôi là đỏ của Orhan Pamuk hay Hạt cơ bản của Houellebecq  - vào năm 1997. Trái tim bạc nhược nói riêng cũng như Javier Marías nói chung xứng đáng được độc giả  Việt Nam tìm đọc nhiều hơn.

                                                                                           

Thứ Ba, 24 tháng 7, 2012

Trước lúc đi ngủ


Trước lúc ngủ say là một cuốn tiểu thuyết tâm lý hình sự của Watson, Nguyễn Lê My Hoàn dịch, NXB Trẻ; còn Trước lúc đi ngủ là tên một entry của tôi. Chính là entry này!

Thường buổi tối, sau khi đã tống được hai con heo con và chó con đi ngủ, tôi sẽ ngồi vào bàn dịch vài trang. Đến khi díp mắt, thì đi tắm cho tỉnh, rồi mở một cuốn sách nào đó ra đọc vài chục trang. (Đã từ lâu TV không còn là một phần cuộc sống của tôi!). Tình hình là tôi thường xuyên nhảy loạn từ cuốn này sang cuốn kia  - bi kịch của một người có quá nhiều sách nhưng quá ít thời gian. Mấy hôm nay trước lúc đi ngủ tôi đang tạm dừng ở cuốn Written Lives của Javier Marias - tác giả của Trái tim bạc nhược mà tôi từng nồng nhiệt giới thiệu trên blog này.

Written Lives là một cuốn sách gồm các bài dạng như tiểu sử mini về các nhà văn trên khắp thế giới. Tối hôm trước, tôi đọc bài về cái chết của Yukio Mishima - một nhà văn tôi quan tâm, còn tối hôm qua, tình cờ  tôi đọc bài về Malcolm Lowry, một nhà văn tôi không biết tới, chỉ nghe loáng thoáng cuốn Under the Volcano của ông rất nổi tiếng, nằm trong danh sách 100 tiểu thuyết hay nhất của Modern Library.  Cả hai ông đều chết trước tuổi năm mươi. Mishima tự sát bằng cách mổ bụng như một samurai, còn Lowry thì ắt vì nát rượu và thuốc ngủ quá liều. Tôi bất giác thoáng nghĩ: có lẽ, điều quan trọng với các nhà văn là để  lại tác phẩm gì, chứ mọi phán xét về bản thân con người nhà văn đều không có ý nghĩa. Lowry cả đời nghiện rượu, hẳn phải là thảm họa cho gia đình và vợ con. Còn Mishima - hám danh ( đinh ninh rằng mình phải được Nobel, đến khi Nobel được trao cho Kawabata thì chạy như bay đến nhà Kawabata để xuất hiện trong tấm hình chúc mừng Kawabata), lấy vợ chỉ để vui lòng mẹ (vì dường như ông là người đồng tính), bản thân giả ốm để trốn đi lính nhưng lại cổ vũ  cho một thứ chủ nghĩa dân tộc cực đoan - có vẻ chẳng phải là một con người dễ ưa tí nào.

Nhưng chẳng vì thế mà tôi bớt yêu thích những tác phẩm của Mishima - Người thủy thủ bị biển khước từ hay Ngôi đền vàng vẫn nằm trong danh sách những tiểu thuyết tôi thích nhất. Còn Under the Volcano? Đợi một lúc nào bớt bi kịch rồi sẽ đọc.



Chủ Nhật, 19 tháng 2, 2012

Không đầu không đuôi 25-30

25.  Nhân dịp đi dự khai trương triển lãm tranh Bất khả phục hồi của họa sĩ Mộng Mỵ, cả nhà bạn Alpha lần đầu tiên có cơ hội đặt chân vào Bảo tàng Mỹ thuật. Bất khả phục hồi, theo giải thích của họa sĩ là kiểu như bút sa gà chết, hay diễn dịch theo bối cảnh mỹ thuật là cọ sa họa sĩ chết (vì tiếc). Nói thế chứ thành thật tôi không biết Mộng Mỵ vẽ bằng gì, cọ hay bút, nhưng tôi biết chắc chắn chất liệu là lụa. Vẽ trên lụa, theo Mộng Mỵ, đặt bút (hay cọ) xuống vẽ nét nào là coi như xong, không có cơ hội sửa chữa, nếu không hài lòng chỉ có nước vứt tấm lụa đó đi lấy tấm lụa khác (nên mới có chuyện chết vì tiếc!), cũng như trong cuộc đời có những chuyện xảy ra rồi thì sau này ta có cố gắng cứu chữa thế nào đó vẫn là một chuyện đã xảy ra rồi chẳng thể nào xóa đi được cái sự thể ta đã từng làm một việc dại dột.  Thơ Phan Nhiên Hạo: Khi còn bé tôi đã nhổ nước bọt vào bàn tay ngửa ra của một người mù/ Bây giờ tôi phải làm gì trong mùa thu? Mộng Mỵ tức là blogger Chu Chỉ Mỵ, một blogger ít viết nhưng thỉnh thoảng có những comment hết sức duyên dáng. Triển lãm kéo dài đến hết tháng.

26.  Đã bước chân vào Bảo tàng Mỹ thuật, cả nhà bạn Alpha quyết định đi xem bảo tàng luôn. Cảm nhận đầu tiên là tranh ít quá. Đi lòng vòng bảo tàng chỉ đủ làm bạn Pi mỏi chân vì bạn ấy chỉ quan tâm đến xe tăng và súng, chứ bạn Alpha thì vẫn hăng hái lắm, xem tranh nào cũng hỏi ai vẽ, vẽ cái gì, mà khổ, có phải tranh nào ba mẹ bạn cũng biết là vẽ cái gì đâu. Khổ nhất là xem những bức khỏa thân, bạn cứ oang oang hỏi chẳng chút ý nhị nào, mẹ ơi, sao cô này hở ti? rồi thảng thốt hơn, mẹ ơi, cô này hở cả đít, sao cô không mặc quần áo gì hết. May mà Bảo tàng chỉ có khách nước ngoài, chứ chẳng có khách Việt nào nên không ai ý kiến gì. Ba bạn trả lời quấy quá, chắc tại vì cô nóng quá con, mà ở đây thì không có máy lạnh.

27.  Nhân nói tới bảo tàng, tôi nhớ đến một mẩu chuyện trong cuốn Trái tim bạc nhược của Javier Marias.  Marias là một nhà văn Tây Ban Nha rất oách và cuốn Trái tim bạc nhược mà nhà Bách Việt dịch và in tại Việt Nam cũng là một cuốn rất oách, tuy nhiên, cũng như nhiều cuốn oách khác đã in tại Việt Nam, nó chia sẻ số phận hẩm hiu của sự thờ ơ và lãng quên vì những tờ báo lớn nhất nước chẳng mấy tờ có lấy một mục điểm sách cho tử tế.  Lan man rồi, đây không phải chỗ ném đá báo chí và các nhà báo. Trong Trái tim bạc nhược, có một mẩu chuyện thế này: Ranz khi đó là chuyên viên viện bảo tàng một chiều trước khi ra về bắt gặp một bác bảo vệ lâu năm của bảo tàng đang bật hộp quẹt gaz tính đốt một bức tranh nổi tiếng của Rembrandt vì Ranz tìm hiểu ra rằng bác ta không chịu nổi cái con mụ béo phị trong tranh ấy. Tình hình lúc đó rất chi gay cấn vì nếu Ranz hô hoán lên hay có bất cứ một hành động nào khác thì bức tranh cũng bị hư hại bất khả phục hồi. Ranz đã rất khôn ngoan  chia sẻ sự bức xúc của bác bảo vệ và yêu cầu bác lui ra để Ranz đích thân dùng bình cứu hỏa nện cho con mụ béo phị trong tranh ấy một trận nên thân. Bằng cách ấy, Ranz đã kích thích được tính chuyên nghiệp của bác bảo vệ vì ngay lập tức bác ấy đã cất hộp quẹt đi và ngăn không cho Ranz đập con mụ ấy lại còn dọa báo cáo giám đốc bảo tàng nữa. Bức tranh được cứu, tất nhiên bác bảo vệ không báo cáo về Ranz, mà Ranz cũng đã lựa chọn không báo cáo về hành vi bất thường của bác bảo vệ. Ranz nghĩ rằng bác ấy đã là một bảo vệ chuyên nghiệp, nhiệt thành trong mấy chục năm thì không có lý gì bác ấy lại không tiếp tục là một bảo vệ tốt như thế.  Ranz chỉ sắp xếp cho ông chuyển sang phòng tranh khác để khỏi phải thấy con mụ béo phị kia đồng thời quan tâm hơn đến đời sống của ông động viên ông chuẩn bị cho cái tuổi già sắp đến. Bài học rút ra là... tôi lỡm đấy tôi chúa ghét cái việc viết bài học rút ra trừ khi tôi muốn rút ra một thứ gì đó trớt quớt hoặc muốn manipulate một chuyện gì khác.

28.  Câu chuyện ở trên chỉ là một mảnh nhỏ trong cuốn tiểu thuyết Trái tim bạc nhược. Căn bản, đây là một tiểu thuyết về cuộc đời. Dĩ nhiên, câu tôi vừa nói là một câu ngớ ngẩn vì tiểu thuyết nào mà chẳng viết về cuộc đời, chỉ có khác nhau là dở hay hay, hời hợt hay sâu sắc. Trái tim bạc nhược thuộc loại thứ hai: nó tràn ngập những quan sát tinh tế, khiến ta có cảm giác cả cuộc đời tác giả cầm kính lúp săm soi cuộc đời và lúc cầm bút bất cứ khi nào cũng có thể chèn vào một mẩu quan sát tinh tế, đầy ngạc nhiên. Tôi còn chưa nói đây là một cuốn tiểu thuyết nói về hôn nhân và việc giết vợ. Sao cuốn tiểu thuyết nào nói về việc giết vợ cũng hay? Là tôi nói lại ba xàm đó. Tôi chỉ nhớ ra hai cuốn viết về chuyện giết vợ mà hay, cuốn thứ nhất cuốn Bản sonata Kreutzer của Lev Tonstoy và cuốn thứ hai là cuốn này.

29.  Chương trình mỗi ngày một tấm ảnh, một cuốn sách hôm nay có đến hai tấm ảnh. Tuy  hai mà một. Xin giới thiệu hai bản dịch khác nhau một tiểu thuyết của Yukio Mishima.