Thứ Hai, 8 tháng 12, 2014
Linh tinh mùa Giáng Sinh
Thứ Sáu, 30 tháng 8, 2013
Những biến tấu trên chủ đề cha
Thứ Bảy, 3 tháng 8, 2013
Chuyện Paul Auster dịch Hiến pháp Việt Nam
Thứ Năm, 1 tháng 8, 2013
Khởi đầu của khởi đầu
Thứ Bảy, 6 tháng 10, 2012
Thóc mách quần hồng
Thứ Ba, 12 tháng 7, 2011
Đọc đi rồi đọc lại
[Về sự khác nhau giữa đọc và đọc lại]: Cái trước có tốc độ hơn, cái sau có chiều sâu hơn. Cái trước đóng sầm thế giới để tập trung vào câu chuyện; cái sau nhẩn nha trong thế giới nhằm đánh giá câu chuyện. Cái trước vui tươi hơn, cái sau nhiều hoài nghi hơn. Nhưng điều đáng kể đối với cái sau là nó bao gồm cái trước: như nửa phần trên của một bộ kính hai tròng, kể cả khi nhìn cuốn sách qua cái lăng kính phức tạp của người lớn, tôi cũng nhìn nó xuyên qua hồi ức của lần đọc đầu tiên.
Đoạn này nằm trong cuốn Rereadings của Anne Fadiman, được David L. Ulin dẫn lại trong cuốn The Lost Art of Reading, một cuốn sách cổ súy cho việc đọc chậm.
Bonus cái hình:
Thứ Sáu, 24 tháng 12, 2010
Linh tinh mùa Giáng sinh
Thứ Năm, 9 tháng 9, 2010
Ghi chú trong tiểu thuyết
Thứ Hai, 7 tháng 6, 2010
Du hành trong chốn thư phòng
Một thú vị hiển nhiên khi đọc một nhà văn đang sống, so với một nhà văn đã chết rồi, là một khi mình đã thích họ, mình còn niềm vui sướng được chờ đợi và đọc những tác phẩm mới nhất của họ. Tập thể những người chờ đợi tác phẩm của một nhà văn, tuy không ồn ào náo nhiệt, nhưng cũng có thể gọi là fan. Travels in the Scriptorium xuất bản 2007 không phải là tác phẩm mới nhất của Paul Auster, sau cuốn này ông đã kịp in Man in the Dark và Invisible, cũng không phải là tác phẩm hay nhất của ông, nhưng đích thực là một cuốn sách dành cho fan của ông: nó có quá nhiều tham chiếu tới những cuốn tiểu thuyết trước đó của ông, mà nếu chưa đọc những cuốn đó, sự thích thú khi đọc Travels in the Scriptorium sẽ khác đi. Khác đi chứ chưa chắc đã giảm, vì biết đâu người chưa đọc Auster sẽ nhìn thấy trong cuốn này những điều mà người quen thuộc với Auster không nhận thấy, nhất là khi Auster luôn có tài bịa chuyện.
Những tham chiếu dễ nhận ra nhất là các nhân vật: hầu hết (nếu không phải tất cả) nhân vật trong Travels in the Scriptorium đều đã xuất hiện trong các tiểu thuyết trước của Auster. Nhân vật chính, Mr Blank, người tỉnh dậy thấy mình nằm trong một căn phòng lạ với một tá khung ảnh, một chồng hồ sơ, mọi đồ vật trong phòng đều có dán tên, hoàn toàn không biết mình là ai và không nhớ gì về quá khứ, có thể là nhân vật duy nhất chưa từng xuất hiện trong các tiểu thuyết khác. Tuy nhiên, nếu coi Paul Auster là một nhân vật thì Mr Blank, như sau này ta sẽ nhận ra, mang bóng dáng của chính Paul Auster. Nhân vật xuất hiện thứ hai, Anna, người sẽ cho Mr Blank ăn, tắm cho Mr Blank (and give him a hand job!), và được coi là cùng phe với Mr Blank, chính là nhân vật chính của In the Country of Last Things. Người chồng đã chết của Anna, David Zimmer, lại còn xuất hiện đến trong hai cuốn tiểu thuyết khác nhau: trong Moon Palace với vai cậu bạn của Marco Fogg, và trong The Book of Illusions với vai người chồng mất cả vợ và hai con trong một tai nạn máy bay. Ta còn có thể nhận ra Peter Stillman, người ra lệnh cho Mr Blank phải mặc đồ toàn trắng, đã xuất hiện trong City of Glass và The Locked Room; Sophie, người mang thức ăn đến cho Mr Blank thay cho Anna, chính là vợ của Fanshawe – anh chàng tự khóa trái mình trong The Locked Room. Fanshawe cũng được nhắc đến trong cuốn này, cũng với tư cách là chồng Sophie và là tác giả một tập sách có tên… Travels in the Scriptorium, mà Travels in the Scriptorium lại còn là tên một bộ phim được nhắc tới trong The Book of Illusions. Ta còn tưởng ta có thể gặp cả Marco Fogg – chàng trai tự hành xác mình trong Moon Palace – nhưng không, ta chỉ gặp Daniel Quinn – nhà văn mà Peter Stillman nhầm với Paul Auster trong City of Glass – xuất hiện trong cuốn này với tư cách luật sư của Mr Blank.
(Nhờ sự chỉ điểm của Giò Trắng, tôi đã tìm ra Anna Bloom hay Blume trong Moon Palace. Trong cuốn này, cô là bạn gái mất tích của David Zimmer. Trước đó, trong In the Country of Last Things, Auster đã gửi cô đến một đất nước xa xôi để đi tìm người anh trai William và đẩy cô vào tình trạng cực cùng tuyệt vọng. Vì cái thói hay đày đọa nhân vật của mình mà Auster – trong hình dáng của Mr Blannk - có thể sẽ phải trả giá, như ta sẽ thấy trong Travels in the Scriptorium. Auster viết Moon Palace năm 1989, hai năm sau khi hoàn thành In the Country of Last Things. Như vậy ngay từ hồi đó Auster đã có thói quen cho nhân vật xuất hiện liên văn bản.)
Khó nhận thấy hơn là những tham chiếu về tình tiết. Trước khi viết Travels in the Scriptorium, Auster đã viết 12 tiểu thuyết trong vòng 20 năm. Rất khó để biết Auster tham chiếu tình tiết nào trong cuốn nào và nhằm mục đích gì. Trong City of Glass, Peter Stillman mặc đồ toàn trắng, trắng đến nỗi có cảm giác như anh ta vô hình. Ở đây, Mr Blank được Anna mặc cho đồ cũng toàn trắng theo lệnh của Peter Stillman. Peter Stillman trả đũa Mr Blank – Auster chăng? Trả đũa như thế còn nhẹ, vì còn có nhân vật khác, James P Flood, lại một nhân vật trong The New York Trilogy, còn mang dao theo người, định dụ Mr Blank ra công viên và xử đẹp. Tôi không nhớ ra Auster đã làm gì James P Flood, nhưng tôi nhớ rõ Auster đã cho Benjamin Sachs nổ tung ngay đầu cuốn Leviathan. Chính vì thế, giữa vô số lời buộc tội Mr Blank trong cuốn này, Quinn – luật sư của Mr Blank – đã nói nếu có thể bào chữa cho Mr Blank khỏi cáo buộc này (cáo buộc làm nổ tung Benjamin Sachs), thì sẽ có tiền lệ để bào chữa các cáo buộc khác.
Chủ đề quen thuộc trong các tiểu thuyết của Auster là căn cước (identitity) và việc viết lách (writing/authorship). Cả hai chủ đề này xuất hiện trở lại trong Travels in the Scriptorium. Bằng việc cho hàng lọat các nhân vật cũ xuất hiện trở lại, có vẻ như Auster muốn làm một cuộc tự truy vấn rốt ráo về trách nhiệm của nhà văn đối với các nhân vật của mình bởi vì, như Auster viết trong trang cuối của cuốn tiểu thuyết này, các nhân vật tuy là sản phẩm của trí tưởng tượng, nhưng một khi đã được ném vào thế giới, tức khi đã được kể, thì sống một cuộc đời dai dẳng ngay khi các nhân vật đã chết rồi. Dĩ nhiên ta cũng có thể hiểu Auster muốn gián tiếp nhắc đến trách nhiệm của nhà văn đối với thế giới. (Auster thường xuyên kể những câu chuyện-trong-chuyện, và một trong những câu chuyện được kể trong cuốn này là chuyện một cuộc thảm sát không rõ thủ phạm lại bị bóp méo trong một báo cáo quân sự thành một cuộc thảm sát xác định rõ thủ phạm – tác giả bản báo cáo sau đó tự nổ súng vào đầu.)
Tuy nhiên, cũng có thể tôi hiểu sai Auster hoàn toàn, và biết đâu việc hiểu sai của tôi – một độc giả - mới là chủ đích của Auster, người luôn kể những câu chuyện không chắc chắn, mơ hồ, và đầy bí ẩn như chính thế giới của chúng ta.
PS. Khi đọc xong cuốn này, lạ thay, tôi nhớ đến tác phẩm của một nhà văn Việt Nam – truyện ngắn Bút máu của Vũ Hạnh. Liên tưởng của tôi có thể khập khiễng, nhưng nếu bạn chưa đọc Bút máu thì chẳng có lý do gì bây giờ bạn lại không đọc cả. Bạn sẽ thấy thông điệp trong truyện của Vũ Hạnh rõ ràng gấp mười lần truyện của Auster:)
Thứ Sáu, 7 tháng 5, 2010
Không lời A, K & M
Chủ Nhật, 6 tháng 12, 2009
Linh tinh mùa Giáng sinh
Thứ Sáu, 13 tháng 11, 2009
The Bourne Identity
Cách đây vài tuần, tôi đi sao y chục bản Chứng minh nhân dân, thế quái nào mà đã hết veo. Tuần này phải chuẩn bị đi sao y thêm vài bản Chứng minh nhân dân nữa. Nghĩ cũng lạ, đằng nào thì tôi cũng là nhân dân – không là nhân dân thì còn là ai được nữa, vậy mà ở nơi nào ở chỗ nào cũng có ai đó cần phải biết rằng tôi có phải là nhân dân hay không. Đâm ra tôi hoài nghi, nếu chẳng may mất Chứng minh nhân dân thì cái thằng tôi còn tồn tại hay không. Đây là câu hỏi dành cho chàng Hăm-nét.
Trong một chừng mực nào đó có thể nói cụm từ “chứng minh nhân dân” thay cho “thẻ căn cước” là một ví dụ mẫu mực của tiếng Việt cũ nhường chỗ cho tiếng Việt mới (chào cụ Kundera), hay nói cách khác đấy cũng là một thành quả của “cách mạng”. Với tôi thì về mặt ngôn ngữ “thẻ căn cước” vẫn luôn có ý nghĩa hơn “chứng minh nhân dân” nhiều lần. Căn cước có ý nghĩa xác định ai là ai về phương diện pháp luật, còn chứng minh nhân dân nghe hơi buồn cười: sao tôi phải chứng minh tôi là nhân dân? Nói vậy thôi, cũng như “sống chỉ còn như một thói quen”, từ dùng nghe riết quen tai, chỉ có ai không phải là nhân dân mới không biết chứng minh nhân dân chính là chứng minh nhân thân:) Căn cước hay chứng minh nhân dân, đằng nào thì khi có tấm thẻ nho nhỏ đó trong tay, người ta bị ràng buộc bởi pháp luật của đất nước cấp cho họ tấm thẻ đó.
Trong thế giới ảo (được dùng với nghĩa thế giới mạng), nickname trong một chừng mực nào đó là căn cước. Tất nhiên không ai cấm bạn dùng nhiều nickname khác nhau, vì vậy, mới có cái qualification “chừng mực nào đó”. Nhưng khi sử dụng một nickname nhất định trong một cộng đồng mạng nhất định, vẫn trong một chừng mực nào đó, người ta bị ràng buộc bởi những quy tắc ứng xử của cộng đồng mạng đó. Nói cách khác, khi phát ngôn dưới một nickname quen thuộc, người ta có khuynh hướng phát ngôn có trách nhiệm đối với nickname đó. Còn ở trong cõi ẩn hình, người ta sẽ cho phép mình phát ngôn tự do hơn, vì chẳng ai chịu trách nhiệm hay cảm thấy mình phải chịu trách nhiệm về phát ngôn của một nick nặc danh cả. Khi rũ bỏ được cái trách nhiệm vô hình đó, người ta chợt thấy mình tự do, không ngần ngại gì mà không tuôn ra những lời man rợ. Nhưng không là ai cả, người ta cũng đáng thương hơn.
Sự nhập nhoạng của căn cước là một chủ đề trở đi trở lại trong bộ ba tiểu thuyết ngắn của Paul Auster về New York (The New York Trilogy: gồm City of Glass, Ghosts, và The Locked Room). Trong ba tiểu thuyết này, có lúc nhân vật này đóng vai nhân vật kia, nhân vật trở thành tác giả, tác giả trở thành nhân vật, kẻ theo dõi trở thành người bị theo dõi rồi cả hai nhập thành một, có người thì đột nhiên biến mất không để lại mảy may dấu vết. Gấp sách lại, hoặc không gấp sách lại, một câu hỏi lúc nào cũng lơ lửng: rốt cuộc thì ai là ai? Nhưng có lẽ câu hỏi đó không quan trọng bằng cảm giác mà bộ ba tiểu thuyết này tạo ra: nhu cầu về tìm kiếm sự thật.
Mà thôi, mọi sự thật chỉ là tương đối. Tôi quan tâm đến điều đó làm gì khi tôi còn phải bận đi sao y chứng minh nhân dân? Ít ra tôi không phải băn khoăn như chàng Bourne trong loạt phim cùng tên, người đã chạy khắp châu Âu sang đến Ấn Độ, trèo lên mái nhà, bắn súng hai tay, cưỡi mô tô, nhảy xuống nước, rồi leo lên bờ trong hành trình đi xác định mình.