Hiển thị các bài đăng có nhãn paul auster. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn paul auster. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 8 tháng 12, 2014

Linh tinh mùa Giáng Sinh

Sáng nay, thứ hai đầu tuần, tôi đi viếng một người đồng nghiệp. Tin anh mất là là một cú sốc cho tất cả những người quen biết. Anh mới ngoài năm mươi, giữ một trong những vị trí cao nhất trong công ty. Anh đang phụ trách một dự án lớn. Hồi tháng 9, khoảng một tuần không gặp anh, email anh cũng không trả lời, cứ nghĩ anh đang bận đi công tác như mọi khi. Sau đó mới biết anh bị chẩn đoán ung thư gan. Anh vừa tiễn cậu con trai lên đường du học mới vài tuần trước đó. Còn nhớ, giữa lúc dự án đang bận rộn, anh nghỉ phép mấy ngày. Anh không nói gì nhưng đồng nghiệp bảo gia đình anh tranh thủ đi chơi cùng nhau trước lúc cậu con trai lên đường. Sáng nay, nhìn di ảnh anh, không khác mấy hình anh vẫn dùng trong các ấn phẩm nội bộ công ty. Cậu con trai học lớp 11, mặt mũi khôi ngô, giống anh như tạc, cả cách nói chuyện.

Đi viếng về, tôi và một anh đồng nghiệp ghé quán ăn trưa. Anh em bảo nhau, sống đấy chết đấy, phù du lắm, thế nên phải bớt sân si. Tôi phục những người có khả năng chửi người khác cả năm trời. Tôi cũng phục những người nuôi mối thù năm này sang năm nọ. Chả phải nói gở, ngày nào đọc tin trên báo, cũng có người đang yên đang lành bị BMW đâm vào người hoặc bị thép trên trời rơi xuống. Có ai đang vui khỏe hình dung ra cái chết của mình đâu. Tranh giành nhau, hận thù nhau, lỡ đạp phải cái cống mà không có nắp lúc mưa to, hay rút tiền trúng cái ATM chập mạch, cũng chết. Xuống tuyền đài còn ai mà ganh đua, bon chen. Sao không buông đi.

Cách đây năm năm, tôi bắt đầu đọc Paul Auster. Chủ đề yêu thích của Paul Auster là tính ngẫu nhiên, sự vô thường. Tất nhiên Auster không dùng chữ vô thường. Chữ này, trong ngôn ngữ nghệ thuật Việt, dường như dính chặt với Trịnh Công Sơn mất rồi. Có một truyện của Auster, đọc lâu quên tựa, hình như Oracle Night, kể chuyện một anh nọ, đêm ra đường đi dạo thì một tảng bê tông của một công trình xây dựng rơi xuống sát chân mình. Anh thoát chết trong gang tấc. Sự kiện ấy vĩnh viễn thay đổi cuộc đời anh. Những gì diễn ra sau đó, tôi không nhớ rõ lắm, nhưng có chi tiết anh ra phi trường, mua một vé máy bay bất kỳ, đi đến một thành phố xa lạ rồi nhốt mình vào một căn phòng nào đó.

Giáng sinh năm nay tôi không còn đọc Paul Auster. Những cuốn gần đây ông làm tôi chán ngấy. Nhưng Auster là một dấu ấn với tôi, đánh dấu thời gian tôi trở lại với tiểu thuyết.

Mùa Giáng sinh năm nay, tôi soi gương thấy tóc mình có vài điểm bạc. Tôi tập thể dục đều đặn, ý thức rõ rằng nếu không tập thì cơ thể có thể phản bội mình.

Tôi phóng xe ra Nhã Nam thư quán, mua toàn bộ những tập thơ trong bộ Việt Nam Danh tác. Điêu tàn, Tiếng thu, Mê hồn ca, Lỡ bước sang ngang, Quê ngoại, Gái quê – Xuân như ý. Tôi ngồi ở Nhã Nam một mình, đọc lại những vần thơ mà phần lớn tôi từng thuộc lòng. Cảm giác đọc thơ từ những ấn phẩm xinh xắn vẫn khác. Sẽ rất vô duyên nếu đọc thơ trên Kindle. Thơ cần một đối xử khác, và với bộ sách này, thơ được đối xử đẹp.

Tôi đọc thơ, và nhớ lại những năm mười sáu, mười bảy tuổi của mình, và nghĩ về tuổi mười bảy của tác giả Điêu tàn, tuổi mười tám hai mươi của hầu hết các nhà thơ thời ấy. Không phải bài thơ nào của họ cũng vượt thời gian, nhưng không khí thơ mà họ tạo ra thời ấy thì vượt thời gian.

Mùa Giáng sinh năm nay, tôi nhìn những đứa con mình đang lớn lên. Tôi dựng cây thông Noel, cùng ba mẹ con đi mua đồ về rồi cùng nhau trang trí. Alpha hí hoáy suốt buổi chiều gói quà cho ba, mẹ, và em Pi. Gói quà cho ba, mẹ, Alpha viết dòng chữ: Ông già Noel kính tặng ba V., mẹ Q. Ông già Noel quả thật rất lễ phép.

Chiều chủ nhật, Alpha và Pi được đi xem liên hoan phim khoa học, có phim về ô tô chạy bằng chanh. Về nhà, Pi mơ màng, nếu trái đất này có thật nhiều chanh, thì tất cả ô tô có thể chạy bằng chanh và sẽ không còn ô nhiễm. Pi đã viết một bài văn ngắn về con chó Lucky đã chết của bác N., kết thúc bằng câu, em rất buồn khi nó chết, em mong nó sẽ sống lại.

Từng mùa Giáng sinh qua đi, những đứa trẻ lớn lên, chúng ta có già đi, nhưng vẫn không thôi lãng mạn và yêu thương.

Giáng sinh an lành.

Thứ Sáu, 30 tháng 8, 2013

Những biến tấu trên chủ đề cha

Những biến tấu trên chủ đề cha

(Đọc Khởi sinh của cô độc, Paul Auster, Phương Huyên dịch, NXB Trẻ 7/2013)

Khởi sinh của cô độc là một cuốn sách đặc biệt. Đó là một cuốn sách tràn ngập dẫn chiếu đến những cuốn sách khác và không chịu bó buộc cả về thể loại lẫn đề tài. Với một cuốn sách như vậy, có nhiều cách để đọc, mà một trong các cách là lần theo những biến tấu trên chủ đề cha.

Từ thần thoại Hy Lạp, hình ảnh Aeneas, người anh hùng còn sót lại của thành Troy, vai cõng cha già, tay dắt con thơ vượt cơn nước lửa thoát đến chỗ an toàn đã vĩnh viễn đi vào nghệ thuật như một biểu tượng vĩ đại của tình cha con. Tuy nhiên, cần phải có con mắt của một nhà phê bình sách lão luyện (Paul Auster từng nhiều năm viết phê bình và điểm sách) mới nhìn thấy mối liên hệ giữa câu chuyện về chú bé người gỗ Pinocchio và hình ảnh Aeneas cõng cha. Trong Khởi sinh của cô độc, Paul Auster nhìn thấy hình ảnh Pinocchio cõng cha thoát khỏi bụng cá voi thoát thai từ hình ảnh Aeneas cõng cha - lão vương Anchises qua những đống lửa bập bùng của thành Troy. Aeneas rồi sẽ tìm thấy Rome, nhưng đó là một câu chuyện khác, còn Pinocchio, khi cậu rối gỗ cao một thước ấy cõng cha bơi giữa biển khơi mịt mùng và đêm tối đầy dọa dẫm, cậu chỉ đơn giản nghĩ rằng nếu phải chết thì "ít nhất cha con mình cũng được chết cùng nhau".

Khởi sinh của cô độc còn có những mẩu chuyện khác về tình cha con. Đó là câu chuyện thi sĩ Pháp Mallarmé viết những vần thơ tuyệt vọng bên giường đứa con trai đang chết dần. Đó là câu chuyện của chính Auster - người cha thức suốt ba ngày ba đêm bên cậu con trai hai tuổi bệnh thập tử nhất sinh. Và còn có câu chuyện của Auster- người con lần giở từng món đồ, từng tấm ảnh của người cha vừa từ giã cõi đời để nhận ra rằng mình vừa mất cha mà cùng lúc đó lại tìm thấy cha.

Trong khi tình mẫu tử mặc nhiên thiêng liêng, thì tình phụ tử là một thứ tình cảm chịu đựng nhiều thách thức mà bản thân sự ra đời của đứa con đã là mối hoài nghi đầu tiên. Quan hệ giữa cha và con trai còn phức tạp hơn: đó là một mối quan hệ dương tính, luôn có khuynh hướng đẩy nhau. Mối quan hệ giữa cha và con trai do đó để lại những dấu ấn dị biệt trong văn chương mà Khởi sinh của cô độc là một ví dụ. Đọc Khởi sinh của cô độc, lại không thể không liên tưởng tới một tác phẩm khác được xuất bản ở Việt Nam gần đây: Thư gửi bố của Kafka. Trong Thư gửi bố, Kafka thuật lại mối quan hệ tuy có bóng dáng yêu thương nhưng phần nhiều cay đắng giữa Kafka với người cha độc đoán. Trong Khởi sinh của cô độc thì người cha lãnh đạm lại trở thành người vô hình trong mắt đứa con trai. Mối quan hệ với cha đổ bóng xuống toàn bộ văn chương Kafka. Còn ở một mức độ kém khốc liệt hơn, Khởi sinh của cô độc vẫn là một chìa khóa để bước vào các tiểu thuyết của Paul Auster.


Quân Khuê

Thứ Bảy, 3 tháng 8, 2013

Chuyện Paul Auster dịch Hiến pháp Việt Nam

Trước khi viết văn, Paul Auster từng làm nhiều nghề khác nhau, trong đó có nghề dịch. Đoạn sau đây, trích dịch từ Hand to Mouth, Auster kể về việc mình suýt dịch Truyện Kiều từ tiếng Pháp sang tiếng Anh, và chuyện ông dịch Hiến pháp Việt Nam.


"Một vài công việc bắt đầu một kiểu nhưng kết thúc một kiểu khác hẳn, như một món hầm bị hỏng mà bạn cứ hoài loay hoay với nó. Cứ khuấy thêm chút gia vị nào đó thử xem có cứu vãn được không. Một ví dụ hay ho là cuộc phiêu lưu nho nhỏ của tôi với những người Bắc Việt ở Paris, khởi đầu từ một cú điện thoại vô hại của Mary McCarthy gọi cho anh bạn tôi André du Bouchet. Bà hỏi anh có biết ai có thể dịch thơ từ tiếng Pháp sang tiếng Anh không, anh cho bà tên tôi, sau đó bà gọi điện mời tôi tới nhà trao đổi về dự án. Khi đó là đầu năm 1973, cuộc chiến Việt Nam vẫn còn đang tiếp diễn. Mary McCarthy đã viết về cuộc chiến suốt nhiều năm, và tôi đã đọc hầu hết các bài báo của bà. Tôi thấy các bài viết của bà nằm trong số những tác phẩm báo chí xuất sắc nhất thời đó. Bà đã có liên lạc với nhiều người Việt của cả hai miền Nam Bắc trong quá trình tác nghiệp. Một người trong số đó, một giáo sư văn chương, đang soạn một hợp tuyển thi ca Việt Nam, và bà đã đề nghị giúp dàn xếp để in bản tiếng Anh ở Mỹ. Các bài thơ đã được dịch sang tiếng Pháp, và người ta có ý định dịch những bản dịch đó sang tiếng Anh. Chính vì vậy mà tên tôi được đề cập và cũng là lý do mà bà muốn nói chuyện với tôi.
  
Đời tư, bà là phu nhân West. Chồng bà là một doanh nhân Mỹ thành đạt, căn hộ của họ ở Paris rộng rãi, trang hoàng lộng lẫy tràn ngập các món đồ nghệ thuật, đồ cổ và đồ gỗ sang trọng. Phục vụ bữa trưa là một cô giúp việc vận đồng phục đen trắng. Trên bàn, bên cạnh tay phải của chủ nhân là một chiếc chuông bằng sứ, mỗi khi bà nhấc nó lên khẽ lắc tức thì cô giúp việc sẽ quay lại phòng ăn nhận thêm lệnh. Cái cách mà Mary McCarthy thực hiện những nghi thức này thật ấn tượng, thật bà lớn, nhưng sự thật hóa ra là bà thể hiện tất cả mọi thứ mà tôi kỳ vọng ở bà: sắc sảo, thân thiện, không kiểu cách. Chiều hôm đó chúng tôi trò chuyện rất nhiều, và vài giờ sau tôi ra khỏi căn hộ của bà khệ nệ với sáu, bảy tập thơ Việt Nam. Bước đầu tiên, tôi phải làm quen với nội dung của chúng. Sau đó, vị giáo sư và tôi sẽ gặp nhau để tiến hành làm bộ hợp tuyển.
  
Tôi khá thích các tập thơ mà tôi đã đọc, đặc biệt là Truyện Kiều, đại thi phẩm dân tộc.* Chi tiết thế nào thì giờ tôi quên sạch, nhưng tôi nhớ đã hứng thú với một số vấn đề về hình thức do các thể thơ Việt Nam truyền thống mang lại, chúng chẳng có hình thức tương đương trong thơ ca phương Tây. Được mời làm việc này tôi rất vui. Không chỉ được thù lao hậu hĩnh, mà có vẻ như tôi còn học được vài thứ khá hời. Tuy nhiên, sau bữa ăn trưa chừng một tuần, Mary McCarthy gọi báo có việc khẩn nên vị giáo sư bạn bà đã quay về Hà Nội. Bà không biết chắc liệu ông ấy có quay lại Paris hay không, nhưng ít ra trước mắt dự án phải bị đình lại.
  
Vậy là tạm nghỉ. Tôi gạt mấy tập thơ sang một bên và hy vọng công việc này không chết luôn, mặc dù trong thâm tâm tôi biết là xong rồi. Vài ngày sau, đột nhiên, tôi nhận được một cú phôn từ một phụ nữ Việt Nam sống ở Paris. "Giáo sư ấy-ấy đưa tên ông cho chúng tôi," cô nói. "Ông ấy bảo ông có thể dịch sang tiếng Anh. Đúng vậy không?" "Vâng," tôi nói, "đúng thế." "Tốt lắm," cô nói, "Chúng tôi có việc này định nhờ ông." 

Việc đó hóa ra là việc dịch Hiến pháp mới của Bắc Việt. Tôi không ngại việc này, chỉ thấy lạ sao nó tìm đường tới với tôi. Ta thường nghĩ một văn kiện kiểu này sẽ được dịch bởi một tay nào đó làm việc cho chính quyền, trực tiếp từ tiếng Việt sang tiếng Anh, chứ không phải từ tiếng Pháp, và nếu từ tiếng Pháp thì cũng không phải bởi một tay Mẽo kẻ thù vạ vật ở Paris. Tuy nhiên, tôi không hỏi. Tôi vẫn đang khấn cho cái hợp tuyển kia được tiếp tục và không muốn làm tiêu ma các cơ hội, nên tôi nhận lời. Tối hôm sau, người phụ nữ đó tới chỗ tôi giao văn bản. Cô là một nhà sinh vật học áng chừng ba lăm, ba sáu tuổi, gầy guộc, phục sức đơn giản, cung cách cực kỳ kín đáo. Cô không nói gì về thù lao dịch, nhưng từ vẻ im lặng của cô tôi đồ rằng sẽ chẳng có xu nào. Do cái sắc thái chính trị bùng nhùng của tình hình (cuộc chiến giữa hai nước, cảm giác của tôi về cuộc chiến đó, đại khái thế), tôi hầu như không có ý đòi hỏi về tiền bạc. Thay vào đó, tôi hỏi cô đôi câu về những bài thơ Việt Nam đã đọc. Có một lúc, tôi mời được cô ngồi xuống bàn cùng tôi, vẽ sơ đồ giảng giảng giải cho tôi về các hình thức thơ truyền thống mà tôi đã rất đỗi tò mò. Phác thảo của cô rất hữu ích, nhưng khi tôi hỏi liệu tôi có thể giữ nó lại để sau này tham khảo không, cô lắc đầu, vò tờ giấy và nhét vào túi mình. Tôi sững sờ không nói nên lời. Trong một cử chỉ nhỏ nhặt đấy thôi, cả một thế giới đã khai lộ với tôi, một cõi vũ trụ ngầm của sợ hãi và phản bội mà trong đó ngay cả một mẩu giấy vụn cũng là đối tượng tình nghi. Không tin ai; xóa dấu vết; hủy chứng cứ. Chẳng phải là cô sợ tôi làm gì với cái sơ đồ thơ đó. Chẳng qua là cô hành động theo thói quen, và tôi không thể không thấy tội nghiệp cho cô, tội nghiệp cho cả hai chúng tôi. Có nghĩa là chiến tranh có mặt khắp mọi nơi, có nghĩa là chiến tranh làm bại hoại mọi thứ. 

Bản Hiến pháp chỉ dài tám hay mười trang, và trừ vài từ ngữ Mác-xít Lê-nin-nít điển hình, ("bọn tay sai đế quốc", "bọn tôi đòi tư sản"), là một thứ khá khô khan. Ngày hôm sau tôi hoàn thành bản dịch, và khi gọi cô bạn - nhà sinh vật học kia nói rằng đã dịch xong, cô ra chiều hết sức vui vẻ và biết ơn. Chỉ đến khi đó cô mới bảo tôi về thù lao: một lời mời đi ăn tối. Nói theo cô là "Để thay lời cảm ơn." Tiệm ăn tình cờ nằm ở quận Năm, không xa chỗ tôi trọ, chỗ này tôi đã đến ăn nhiều lần. Đó là tiệm ăn Việt đơn giản và rẻ nhất Paris, nhưng cũng ngon nhất. Vật trang trí duy nhất trong cửa tiệm là một tấm hình Hồ Chí Minh in đen trắng treo trên vách." 


Thứ Năm, 1 tháng 8, 2013

Khởi đầu của khởi đầu

 “Theo tôi nhà văn thế nào cũng phải có một lần quyết định, mình sẽ trở thành nhà văn” – Paul Auster nói trong bài trả lời phỏng vấn nhà báo Hungary Lévai Balázs (Thế giới là một cuốn sách mở – Giáp Văn Chung dịch, Nhã Nam & NXB Văn Học, 2009). Từ chỗ là một người mê đọc sách, 16 tuổi Paul Auster đã quyết định trở thành người sáng tạo ra những cuốn sách. Thế nhưng ông chỉ có thể chính thức tập trung viết văn được sau cái chết của cha. Mất mát đó, thật tréo ngoe, có ý nghĩa quyết định với sự nghiệp văn chương của Paul Auster: một mặt nó là chất liệu trực tiếp cho tác phẩm văn xuôi đầu tay của ông, The invention of solitude (Khởi sinh của cô độc); mặt khác, chỉ sau cái chết của cha, nhờ vào món tiền thừa kế mà Auster mới có thể toàn tâm toàn ý viết văn. Quãng đời trước đó, ông phải làm đủ nghề vặt kiếm sống, từ thuỷ thủ, trực điện thoại cho đến dịch, viết điểm sách, được ông thuật lại trong một tác phẩm khác: Hand to Mouth (tạm dịch Tay làm hàm nhai).

Khởi sinh của cô độc (Phương Huyên dịch, nhà xuất bản Trẻ, 2013) là một tác phẩm hồi ký – tự truyện được chia thành hai phần. Phần một, Chân dung một người vô hình, Paul Auster thuật lại ký ức về người cha vừa qua đời; phần hai, Sách của ký ức, gồm những mảnh rời trên nhiều chủ đề. Hai phần gần như rất tách biệt này nối với nhau bằng đường dây của tình phụ tử: Paul Auster với tư cách người con trong phần thứ nhất và Paul Auster (được gọi là A.) với tư cách người cha trong phần thứ hai.

Có một sự khác biệt trong hai mối quan hệ cha – con này. Khi là cha, Paul Auster nhận thấy “cuộc đời của cậu bé có ý nghĩa lớn lao hơn cuộc đời của chính anh; nếu anh cần phải chết để cứu con mình, anh sẽ sẵn lòng chết. Và vì thế trong khoảnh khắc sợ hãi đó anh đã trở thành, một lần và mãi mãi, cha của con anh” (tr.171). Trong khi đó, quan hệ của Paul Auster với cha mình không hoàn toàn là một mối quan hệ suôn sẻ. Ký ức của ông về cha là sự vắng mặt, sự thờ ơ. Cha ông dường như chẳng bao giờ để ý tới con trai mình. “Tôi thành công hay thất bại cũng chẳng có chút mảy may ảnh hưởng nào tới cha” (tr.39). 

Sự cô độc của người cha như xây nên một thành trì vô hình quanh ông, mà Paul Auster – người con, nhất là trong thời niên thiếu, không thể nào phá vỡ được, cho dù người con “không bao giờ ngừng khao khát tình yêu từ cha mình” (tr.31). Nhiều năm về sau, Paul Auster – nhà văn, trong sự cô độc khi đối diện với trang viết, đã thử lý giải về chính cái thành trì cô độc của cha mình ngày xưa. Khi soạn ra những món đồ của người đã khuất, Paul Auster gặp một tấm ảnh (được in tại trang 52). Thoạt nhìn, dễ tưởng rằng đó là ảnh của một nhóm người. Thật ra, đó là ảnh của cha Auster, chụp từ năm góc ghép lại với nhau. Do cách ghép, mắt của năm phân thân không tương tác với nhau, mà mỗi phân thân đều như nhìn vào một khoảng trống rỗng. Auster nhận thấy đó là “tấm ảnh của cái chết, chân dung của người vô hình” (tr.53). 

Nếu như phần Chân dung một người vô hình tuy không được viết theo trình tự thời gian nhưng hãy còn được thuật theo dòng hồi ức, thì phần thứ hai, Sách của ký ức, chỉ bao gồm toàn các mảnh rời. Trong phần này, phóng túng nhưng đầy kiểm soát, Paul Auster chiêm nghiệm về sức mạnh của ký ức, sự cô độc, tính chất ngẫu nhiên của cuộc đời, và nhất là về bản thân sự đọc và sự viết. Chen lẫn là vô số dẫn chiếu đến các tác phẩm khác, từ Nghìn lẻ một đêm tới Kinh Thánh, từ thần thoại Hy Lạp đến chuyện chú bé người gỗ Pinocchio... và những trải nghiệm về quan hệ cha – con giữa tác giả với cậu con trai nhỏ của mình. Hình ảnh “căn phòng”, như một ám chỉ về sự cô độc, lặp đi lặp lại: căn phòng của A., căn phòng của S., căn phòng của Hölderlin, căn phòng của Van Gogh. “Căn phòng không phải là sự tái hiện của nỗi cô độc, mà nó là cốt lõi của chính nỗi cô độc ấy” (tr.225). 

Khởi sinh của cô độc in lần đầu tại Mỹ năm 1982. Từ đó đến nay, trong quãng thời gian hơn 30 năm, Paul Auster đã cho ra đời 16 tiểu thuyết. Những chủ đề thường gặp trong tiểu thuyết của ông là sự ngẫu nhiên, tính bất định, vô thường của cuộc sống, sự truy tìm căn cước… thật ngạc nhiên đều đã xuất hiện trong tác phẩm văn xuôi đầu tay Khởi sinh của cô độc. Chính Paul Auster cũng thừa nhận trong bài trả lời phỏng vấn tạp chí The Paris Review rằng Khởi sinh của cô độc là tác phẩm nền tảng trong văn nghiệp của ông. Với ý nghĩa đó, Khởi sinh của cô độc không chỉ là tác phẩm đầu tay, mà còn mở ra một thế giới: thế giới văn chương ký tên Paul Auster.

Thứ Bảy, 6 tháng 10, 2012

Thóc mách quần hồng





Sáng  ra khỏi nhà, xin phép vợ cho  đi thóc mách quần hồng. (Bác nào chưa biết thóc mách quần hồng là chi, có thể mở trang 12 cuốn Hiệp sĩ không hiện hữu ra tham khảo.) Kết quả không thóc mách được quần hồng nào, chỉ toàn thóc mách chuyện /sách/, bán được mấy cuốn sách, mua được mấy cuốn sách. Toàn sách với sách.  Trong số mấy cuốn mới rinh về có Lời bộc bạch của một thị dân. Tên tuổi của Marai Sandor là một bảo chứng  cho cuốn sách, nhưng kể cả không thích hay không đọc được Marai Sandor đi chăng nữa, không thể không phải lòng cái bìa - một trong những bìa sách đẹp nhất Nhã Nam từng có. Đây là loại sách vì một cái bìa mà  ta có thể mua nguyên cả một cuốn sách. Tại sao không chứ, khi người ta có thể vì  một lúm đồng tiền mà cưới nguyên một cô vợ. Tuy vậy, mọi so sánh chỉ  có tính chất tương đối, vì có thể mua rất nhiều sách về chất quanh nhà, chứ không thể làm như thế với vợ.

Nói về mua sách, sáng nay có một bạn tỏ ra ngại ngần khi chưa thể thanh toán hết số sách mình đang có. Tất nhiên ấy là một ngại ngần chính đáng. Cách đây năm năm, tôi cũng mang một tâm thế y như vậy, và, để cho sang trọng, có thể nói, y như Walter Benjamin. Trong bài “Unpacking My Library”, Benjamin kể chuyện nhiều năm trời, kệ sách của ông mỗi năm chỉ dày thêm độ vài inch, vì  ông không cho phép thêm vào đó bất cứ một cuốn sách nào chưa được  ông xác nhận “Đã đọc.”  Kệ sách khi đó, với ông, chỉ là kho chứa những cuốn sách đã đọc rồi. Nhưng một ngày đẹp trời, sau khi đi uống cà phê ở Nhã Nam Thư hùng quán về, ông/bà bỗng nhận ra mua sách và đọc sách  không nhất thiết là hai việc liên quan khăng khít với nhau.  Người ta có thể mua một cuốn sách chỉ vì cái bìa, vì muốn trọn bộ tác giả, vì nếu không mua bây giờ có thể ngày mai không còn để mua (trường hợp cuốn Em làm ơn mua đi được không là một ví dụ điển hình), vì một chữ ký thiếu nét, hay cũng có thể, chỉ vì cuốn sách xếp nhầm trang.  Đến lúc đó, như Benjamin đã nói, người ta đã từ chỗ vẩn vơ trên những ngõ hẽm tiến ra đại lộ tích lũy sách.

Và, trong một thời đại khi cơn mưa cũng khước từ sự độc tài, đọc sách không nhất thiết là việc chăm chú đọc từ bìa một đến bìa bốn cuốn sách, không bỏ qua cả một dấu chấm phẩy.  Trong một số trường hợp,  đọc một cuốn sách có thể, và chỉ nên là, đọc tất cả các dấu chấm phẩy trong cuốn sách ấy.  Đọc theo chiều dọc, đã đành, nhưng hãy thử các phương cách khác: Đọc từ sau ra trước, chỉ đọc các chương lẻ, chỉ đọc các cụm từ viết hoa hoặc in nghiêng, đọc năm cuốn sách cùng một lúc, đọc như tra từ điển, đọc như nghịch mạng internet, chỉ đọc những chương viết về các hòn đảo của nước Lào, chỉ đọc nửa trên của các trang, chỉ đọc nửa dưới của các trang, chỉ đọc phần chú thích, chỉ đọc những chỗ tác giả trích dẫn người khác, không đọc gì  khác ngoại trừ gáy sách… Chớ nên giới hạn mình ở bất cứ một khả năng nào. 

Thứ Ba, 12 tháng 7, 2011

Đọc đi rồi đọc lại

Có những cuốn sách đọc cả cuốn chỉ đắc ý được một đoạn. Éo le thay cái đoạn ấy lại không phải của tác giả, mà của người khác được tác giả trích lại. Chẳng hạn đoạn này:

[Về sự khác nhau giữa đọc và đọc lại]: Cái trước có tốc độ hơn, cái sau có chiều sâu hơn. Cái trước đóng sầm thế giới để tập trung vào câu chuyện; cái sau nhẩn nha  trong thế giới nhằm đánh giá câu chuyện. Cái trước vui tươi hơn, cái sau nhiều hoài nghi hơn. Nhưng điều đáng kể đối với cái sau là nó bao gồm cái trước: như nửa phần trên của một bộ kính hai tròng, kể cả khi nhìn cuốn sách qua cái lăng kính phức tạp của người lớn, tôi cũng nhìn nó xuyên qua hồi ức của lần đọc  đầu tiên.

Đoạn này  nằm trong cuốn Rereadings của Anne Fadiman, được David L. Ulin dẫn lại trong cuốn The Lost Art of Reading, một cuốn sách cổ súy cho việc đọc chậm. 


Bonus cái hình:







Thứ Sáu, 24 tháng 12, 2010

Linh tinh mùa Giáng sinh

Năm ngoái có cái entry Linh tinh mùa Giáng sinh.  Bổn cũ soạn lại, năm nay cũng phải linh tinh một phát, vì đã lâu rồi chẳng linh tinh.

***





Sáng nay, nhìn cái mục Ăn khách trong tuần, thấy chín trên mười entry là những cái liên quan đến sách (cái còn lại liên quan đến bao cao su), tôi không khỏi tự cảm thán: Thật là đồi trụy quá đỗi! Quả tình là tôi không định biến blog này thành nơi chuyên tán nhảm về sách.  Tôn chỉ ban đầu của blog này là ăn chơi nhảy múa, thơ ca hò vè; thế nhưng sau một thời gian lại đổ đốn ra, ăn chơi thơ thẩn giảm dần, nhường chỗ cho toàn sách là sách.  Phải mà chịu khó xem tivi thì entry ăn khách nhất hiện giờ hẳn là “Uyên Linh và những fan cuồng” hay cái gì gần như thế:)

***

Tối qua, vào Facebook chợt thấy hình đám cưới.  Nhìn cô dâu quen quen, hóa ra là một bạn cũng hay còm trên blog này.  Tìm chú rể mãi chẳng thấy đâu, chỉ thấy có hình bác cũng quen mặt sơ mi trắng xóa đứng cạnh. 

***

Giờ này năm ngoái đang say mê theo bác Paul Auster sau khi đọc một loạt mấy cuốn đỉnh của bác.  Giờ này năm nay thì chán bác rồi. Những cuốn gần đây của bác đều kém.  Năm ngoái cuốn Invisible đã thảm, cuốn năm nay Sunset Park có vẻ không khá khẩm gì hơn, dù tôi chỉ mới đọc độ hai mươi trang.   Có khi khuyên bác tạm nghỉ ít năm trước khi ra cuốn tiếp theo.  Nhân đây, trích một câu trong Other Colors mà Orhan Pamuk có nhắc tới Paul Auster (chỗ duy nhất trong hơn 400 trang của cuốn này): “Độc giả văn học ngày nay đợi chờ một cuốn sách mới của Garcia Márquez, Coetzee hay Paul Auster cùng một cách như những thế hệ độc giả trước đợi chờ tác phẩm mới của Dickens - như chờ những tin tức mới nhất.”

***

Còn đây là hai câu trích trong Lũ người quỉ ám của Dostoyevsky, cuốn mà Orhan Pamuk đánh giá là “tiểu thuyết chính trị vĩ đại nhất mọi thời đại”: (i) “Hẳn đó là một ý nghĩ vô liêm sỉ, nhưng vốn một người càng đạt đến trình độ phát triển cao bao nhiêu thì càng có xu hướng vô liêm sỉ bấy nhiêu, dù đó chỉ là vì cấu tạo của người đó càng trở nên phức tạp hơn”; (ii) “Trong nước ta, cái gì cũng do tật lười sinh ra, kể cả những điều hay”.

Theo tôi thì bất cứ ai có tham vọng thành tiểu thuyết gia cũng phải giải quyết xong Dos trước tuổi 20.  Câu này cũng tương tự như câu bất kỳ ai muốn thành cầu thủ bóng đá thì phải xem Brazil đá trước tuổi 11, nhưng tôi chắc là mọi người dễ dàng đồng ý với câu sau hơn.:)

***

Năm nay có vẻ tôi bội thu sách tặng.  Phần nhiều người tặng là những bạn có đọc blog tôi và biết tôi thích đọc và tàng trữ sách.  Lời hứa tặng mới nhất là của một bạn mê Ruồi Trâu, hứa sẽ tặng Đầu xanh tuổi trẻ của Dos, bản in năm 74.  Nhân dịp Giáng sinh, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các bạn đã tặng sách cho tôi. Tôi xin hứa vào một dịp thích hợp tôi sẽ tặng lại tất cả các bạn đã tặng sách cho tôi một cuốn sách thích đáng (còn việc bạn có thích thú với cuốn sách đó hay không ngoài tầm kiểm soát của tôi.)

***

Tâm sự của hai bạn Alpha và Pi nhân dịp Noel:  Được hỏi thích ông già Noel tặng quà gì, bạn Alpha đề đạt nguyện vọng, con thích công chúa Bạch Tuyết, công chúa Barbie và hoàng tử; còn bạn Pi thì, con thích kiếm, ô tô và hoàng tử.  Hôm qua, ông và bà già Noel đi dạo đến rả cẳng, nhưng chỉ đáp ứng được một phần nguyện vọng của hai bạn. 

***

Cuối cùng, xin chúc tất cả các bạn gần xa một mùa Giáng sinh an lành.

Thứ Năm, 9 tháng 9, 2010

Ghi chú trong tiểu thuyết

Tôi chưa đọc tác phẩm nào trong số các tác phẩm đọat giải tuổi Văn học tuổi 20 năm nay.  Có vẻ như lần này có khá nhiều tiểu thuyết đoạt giải.  Tôi luôn quan tâm đến tiểu thuyết hơn truyện ngắn nên có lẽ sẽ kiếm vài cuốn đọc thử.

Trong trao đổi trực tuyến với độc giả, có người hỏi Mai Anh Tuấn - tác giả một trong những tác phẩm đoạt giải về việc sử dụng ghi chú trong tác phẩm của anh.  Anh đã trả lời như sau: Quả thật khi viết Giảng đường yêu dấu tôi đã muốn lạ hóa cách viết bằng việc đưa vào các ghi chú. Thông thường, các ghi chú chỉ xuất hiện trong văn bản phi hư cấu (non fiction). Nhưng tôi cố tình đưa ghi chú vào một văn bản hư cấu nhằm muốn có một sự hỗn dung thể loại. Các ghi chú được tôi triển khai theo nhiều dạng khác nhau: khi là dạng báo chí, khi dạng chính luận, khi dạng từ điển, nhật ký, kịch bản... Điều đó sẽ mở rộng ra những phạm vi hiện thực khác nhau cũng như những ý vị khác nhau.

Không rõ Mai Anh Tuấn học được ý tưởng về sử dụng ghi chú trong tiểu thuyết từ đâu.

Trong Oracle Night, Paul Auster sử dụng triệt để các ghi chú để mở rộng câu chuyện.  Sau này, khi trả lời phỏng vấn The Paris Review,  ông xác nhận việc sử dụng ghi chú trong tiểu thuyết cũng không phải là phát kiến của ông.  Tuy nhiên, trong tiểu thuyết đó, do câu chuyện chính diễn ra trong hiện tại, giới hạn trong những sự kiện diễn ra trong vòng hai tuần, nên ông không muốn ngắt mạch truyện.  Ông dùng các ghi chú để kể lại những chuyện diễn ra trong quá khứ.

Tôi chưa có dịp đọc các tiểu thuyết khác sử dụng ghi chú như một kỹ thuật kể chuyện.  Tuy nhiên, chắc chắn là có, vì như Paul Auster đã nói, đó không phải là ý tưởng do ông tự nghĩ ra.

Thứ Hai, 7 tháng 6, 2010

Du hành trong chốn thư phòng

Cái tít ở trên tôi tạm dịch từ Travels in the Scriptorium của Paul Auster mà ra. Tôi vừa đọc xong hôm nay, dự định ghi lại vài phát hiện thú vị khi đọc cuốn này. Tuy nhiên, đó là chuyện tôi sẽ làm khi hai bạn Alpha và Pi ngủ say đã. Còn bây giờ, trong khi chờ đợi hai bạn ngủ yên, tôi sẽ post vài dòng này lên câu view (học chiêu của bác Giò Trắng):), đồng thời đọc Chúa Ruồi (Lord of the Flies) của William Golding qua bản dịch của Lê Chu Cầu. Các bạn lưu ý đi, đây là một cuốn nên có trong tủ sách của bạn (dĩ nhiên nếu bạn có một cái).

--------

Một thú vị hiển nhiên khi đọc một nhà văn đang sống, so với một nhà văn đã chết rồi, là một khi mình đã thích họ, mình còn niềm vui sướng được chờ đợi và đọc những tác phẩm mới nhất của họ. Tập thể những người chờ đợi tác phẩm của một nhà văn, tuy không ồn ào náo nhiệt, nhưng cũng có thể gọi là fan. Travels in the Scriptorium xuất bản 2007 không phải là tác phẩm mới nhất của Paul Auster, sau cuốn này ông đã kịp in Man in the DarkInvisible, cũng không phải là tác phẩm hay nhất của ông, nhưng đích thực là một cuốn sách dành cho fan của ông: nó có quá nhiều tham chiếu tới những cuốn tiểu thuyết trước đó của ông, mà nếu chưa đọc những cuốn đó, sự thích thú khi đọc Travels in the Scriptorium sẽ khác đi. Khác đi chứ chưa chắc đã giảm, vì biết đâu người chưa đọc Auster sẽ nhìn thấy trong cuốn này những điều mà người quen thuộc với Auster không nhận thấy, nhất là khi Auster luôn có tài bịa chuyện.

Những tham chiếu dễ nhận ra nhất là các nhân vật: hầu hết (nếu không phải tất cả) nhân vật trong Travels in the Scriptorium đều đã xuất hiện trong các tiểu thuyết trước của Auster. Nhân vật chính, Mr Blank, người tỉnh dậy thấy mình nằm trong một căn phòng lạ với một tá khung ảnh, một chồng hồ sơ, mọi đồ vật trong phòng đều có dán tên, hoàn toàn không biết mình là ai và không nhớ gì về quá khứ, có thể là nhân vật duy nhất chưa từng xuất hiện trong các tiểu thuyết khác. Tuy nhiên, nếu coi Paul Auster là một nhân vật thì Mr Blank, như sau này ta sẽ nhận ra, mang bóng dáng của chính Paul Auster. Nhân vật xuất hiện thứ hai, Anna, người sẽ cho Mr Blank ăn, tắm cho Mr Blank (and give him a hand job!), và được coi là cùng phe với Mr Blank, chính là nhân vật chính của In the Country of Last Things. Người chồng đã chết của Anna, David Zimmer, lại còn xuất hiện đến trong hai cuốn tiểu thuyết khác nhau: trong Moon Palace với vai cậu bạn của Marco Fogg, và trong The Book of Illusions với vai người chồng mất cả vợ và hai con trong một tai nạn máy bay. Ta còn có thể nhận ra Peter Stillman, người ra lệnh cho Mr Blank phải mặc đồ toàn trắng, đã xuất hiện trong City of GlassThe Locked Room; Sophie, người mang thức ăn đến cho Mr Blank thay cho Anna, chính là vợ của Fanshawe – anh chàng tự khóa trái mình trong The Locked Room. Fanshawe cũng được nhắc đến trong cuốn này, cũng với tư cách là chồng Sophie và là tác giả một tập sách có tên… Travels in the Scriptorium, Travels in the Scriptorium lại còn là tên một bộ phim được nhắc tới trong The Book of Illusions. Ta còn tưởng ta có thể gặp cả Marco Fogg – chàng trai tự hành xác mình trong Moon Palace – nhưng không, ta chỉ gặp Daniel Quinn – nhà văn mà Peter Stillman nhầm với Paul Auster trong City of Glass – xuất hiện trong cuốn này với tư cách luật sư của Mr Blank.

(tối mai viết tiếp chớ bây giờ phải đi ngủ::)))

--------

(Nhờ sự chỉ điểm của Giò Trắng, tôi đã tìm ra Anna Bloom hay Blume trong Moon Palace. Trong cuốn này, cô là bạn gái mất tích của David Zimmer. Trước đó, trong In the Country of Last Things, Auster đã gửi cô đến một đất nước xa xôi để đi tìm người anh trai William và đẩy cô vào tình trạng cực cùng tuyệt vọng. Vì cái thói hay đày đọa nhân vật của mình mà Auster – trong hình dáng của Mr Blannk - có thể sẽ phải trả giá, như ta sẽ thấy trong Travels in the Scriptorium. Auster viết Moon Palace năm 1989, hai năm sau khi hoàn thành In the Country of Last Things. Như vậy ngay từ hồi đó Auster đã có thói quen cho nhân vật xuất hiện liên văn bản.)

Khó nhận thấy hơn là những tham chiếu về tình tiết. Trước khi viết Travels in the Scriptorium, Auster đã viết 12 tiểu thuyết trong vòng 20 năm. Rất khó để biết Auster tham chiếu tình tiết nào trong cuốn nào và nhằm mục đích gì. Trong City of Glass, Peter Stillman mặc đồ toàn trắng, trắng đến nỗi có cảm giác như anh ta vô hình. Ở đây, Mr Blank được Anna mặc cho đồ cũng toàn trắng theo lệnh của Peter Stillman. Peter Stillman trả đũa Mr Blank – Auster chăng? Trả đũa như thế còn nhẹ, vì còn có nhân vật khác, James P Flood, lại một nhân vật trong The New York Trilogy, còn mang dao theo người, định dụ Mr Blank ra công viên và xử đẹp. Tôi không nhớ ra Auster đã làm gì James P Flood, nhưng tôi nhớ rõ Auster đã cho Benjamin Sachs nổ tung ngay đầu cuốn Leviathan. Chính vì thế, giữa vô số lời buộc tội Mr Blank trong cuốn này, Quinn – luật sư của Mr Blank – đã nói nếu có thể bào chữa cho Mr Blank khỏi cáo buộc này (cáo buộc làm nổ tung Benjamin Sachs), thì sẽ có tiền lệ để bào chữa các cáo buộc khác.

Chủ đề quen thuộc trong các tiểu thuyết của Auster là căn cước (identitity) và việc viết lách (writing/authorship). Cả hai chủ đề này xuất hiện trở lại trong Travels in the Scriptorium. Bằng việc cho hàng lọat các nhân vật cũ xuất hiện trở lại, có vẻ như Auster muốn làm một cuộc tự truy vấn rốt ráo về trách nhiệm của nhà văn đối với các nhân vật của mình bởi vì, như Auster viết trong trang cuối của cuốn tiểu thuyết này, các nhân vật tuy là sản phẩm của trí tưởng tượng, nhưng một khi đã được ném vào thế giới, tức khi đã được kể, thì sống một cuộc đời dai dẳng ngay khi các nhân vật đã chết rồi. Dĩ nhiên ta cũng có thể hiểu Auster muốn gián tiếp nhắc đến trách nhiệm của nhà văn đối với thế giới. (Auster thường xuyên kể những câu chuyện-trong-chuyện, và một trong những câu chuyện được kể trong cuốn này là chuyện một cuộc thảm sát không rõ thủ phạm lại bị bóp méo trong một báo cáo quân sự thành một cuộc thảm sát xác định rõ thủ phạm – tác giả bản báo cáo sau đó tự nổ súng vào đầu.)

Tuy nhiên, cũng có thể tôi hiểu sai Auster hoàn toàn, và biết đâu việc hiểu sai của tôi – một độc giả - mới là chủ đích của Auster, người luôn kể những câu chuyện không chắc chắn, mơ hồ, và đầy bí ẩn như chính thế giới của chúng ta.

PS. Khi đọc xong cuốn này, lạ thay, tôi nhớ đến tác phẩm của một nhà văn Việt Nam – truyện ngắn Bút máu của Vũ Hạnh. Liên tưởng của tôi có thể khập khiễng, nhưng nếu bạn chưa đọc Bút máu thì chẳng có lý do gì bây giờ bạn lại không đọc cả. Bạn sẽ thấy thông điệp trong truyện của Vũ Hạnh rõ ràng gấp mười lần truyện của Auster:)

PS2: Tôi rất mong một số cuốn khác của Auster sẽ được dịch ra tiếng Việt. Ngoài Leviathan mà tôi biết bác Giò Trắng đang dịch, tôi còn mong thấy bản tiếng Việt của ít ra là The Book of Illusions, Oracle NightThe Brooklyn Follies. Bạn nào mê phim ảnh rất nên đọc The Book of Illusions.


Thứ Sáu, 7 tháng 5, 2010

Không lời A, K & M



A. Còn thiếu The New York Trilogy mẹ bạn Nemo chưa trả. Hy vọng chưa thành bỉm cho Nemo!




K. Còn thiếu Vô tri ơi hỡi Vô tri!


M. Một số tập truyện ngắn đã dịch ra tiếng Việt tôi chưa có, vì tôi ít khi đi mua truyện ngắn. Nhưng nếu có ai tặng tôi hứa không phiền lòng.:)

Chủ Nhật, 6 tháng 12, 2009

Linh tinh mùa Giáng sinh

* Được email của một người bạn chưa bao giờ biết mặt. Bạn đề nghị tặng tôi một cuốn sách mà tôi chưa có. Tôi hỏi có tiện không, bạn ở xa quá mà, những nửa vòng trái đất. Bạn bảo không có gì không tiện bạn ơi. Vui. Rồi lại email của bạn, nói bạn không tìm thấy cuốn bạn định gửi, liệu tôi có muốn cuốn khác cùng tác giả không. Cuốn đấy thì tôi đã có. Bạn áy náy, đề nghị đền bù cuốn khác, bạn có nhiều sách tiếng Anh thú vị lắm. Tôi nói cuốn nào cũng được, nhưng tiếng Anh thì tốt hơn. Ở đây sách tiếng Anh khó mua, mà lại đắt nữa. Không cần phải nói tên sách trước vì tôi muốn chờ đợi bất ngờ. Tôi muốn có cảm giác được đoán trong một bưu kiện có gì. Chắc là sẽ không có anthrax!:)


* Email khác của một người bạn khác, cũng ở nước ngoài. Người này tôi đã gặp nhưng lâu rồi chưa gặp lại. Bạn nhờ tôi giới thiệu những chỗ vui chơi ở Sài Gòn cho một người bạn khác ghé qua Sài Gòn vài ngày. Tôi bảo tôi không còn đáng tin cậy để giới thiệu về đời sống Sài Gòn ban đêm nữa rồi. Đã bao lâu tôi không đi chơi đêm? Tôi làm gì biết Sài Gòn có những quán cafe hay quán bar nào mới, chỗ nào chơi nhạc thú vị. Vẫn tồn tại trong trí nhớ suy tàn và ký ức đau thương của tôi Yoko chơi Beatles và Cranberries, Sax 'n' Art của Trần Mạnh Tuấn chơi jazz, Carmen chơi flamenco, nhưng tôi không chắc những quán đấy còn ở những chỗ đấy, và họ có còn chơi nhạc không. Sài Gòn thay đổi rất nhanh, mà tôi về cơ bản đã thuộc thành phần chậm tiến. Hỏi bạn sống thế nào, bạn bảo về cơ bản bạn nghèo kiết xác, nhưng it's alright. It sounds very much like you!


* Dự tiệc Noel của AMCHAM, năm nay chủ đề Christmas in New York. Phông sân khấu là ảnh thành phố New York. Mỗi bàn tiệc mang tên một đường phố New York: Madison, Fifth Avenue, Broadway, v.v. Tôi ngồi ở bàn Đường số 42. MC mở đầu chương trình bằng bài New York, New York... the city that never sleeps...  Phải mở lại Frank Sinatra mới được. Tôi khoe với người bạn ngồi cạnh, một người đến từ New Mexico, rằng tôi đã có một Giáng sinh ở New York. Ở đó lần đầu tiên tôi thấy tuyết. Chúng tôi đã ném tuyết vào nhau trong đêm Giáng sinh. Rất vui và rất đáng nhớ. Mới đó mà đã bảy năm. New York đã hóa nương dâu.


* Tôi đọc Paul Auster, theo chân các nhân vật của ông trên các nẻo đường New York. Có một truyện bắt đầu thế này: Tôi muốn tìm một nơi yên tĩnh để chết, và người ta khuyên tôi nên đến Brooklyn. Trong một truyện khác, một nhân vật lang thang trong New York hàng ngày, và một nhân vật khác bám theo, vẽ sơ đồ đường đi của người kia, để rồi nhận ra rằng có thể ghép sơ đồ hành trình của người kia thành chữ TOWER OF BABEL. Sự bất lực trong giao tiếp cũng là một chủ đề thường thấy trong truyện Auster.


* FAHASA dạo này bán nhiều sách nhập. Tôi lượn qua lượn lại nhiều lần đến nỗi tôi nghĩ thuộc hết các đầu sách ở đó, nhưng thỉnh thoảng mới dám mua một cuốn. Sách đắt, nên cuốn nào thích lắm mới mua, mà phải chắc mình đọc xong cuốn này mới mua cuốn khác. Không như sách tiếng Việt, lúc nào cũng có dăm bảy cuốn chưa đọc ở nhà. Tuần này tôi mới mua Oracle Night, cũng của Paul Auster. Bạn ơi, hay là bạn gửi cho tôi một cuốn của Paul Auster vậy, cuốn mới nhất đấy?:)


* Lục lại đĩa Giáng sinh cũ ra nghe. Tôi có một đĩa nhạc Giáng sinh mà tôi nghĩ là hàng hiếm, vì tôi mua cách đây hơn 10 năm rồi. Đó là một đĩa hiếm hoi mà Thanh Lam, Hồng Nhung, và Mỹ Linh hát chung. Thanh Lam là giọng hát cực đoan. Cô có khả năng làm cho một bài hát trở nên cực kỳ dở hoặc cực kỳ hay, chứ không bao giờ làng nhàng ở giữa. Trong đĩa này, cô hát Bài thánh ca buồn tuyệt hảo. Đoạn đầu hát hoàn toàn không nhạc đệm, chỉ có giọng hát cô vang vang như tiếng chuông đêm Noel. Tôi từng nghe cô hát live bài này trong một phòng trà Giáng sinh năm 99, khi đó cả phòng trà đông nghẹt lặng người khi giọng cô vút lên Bài thánh ca đó còn nhớ không em. Hồi đó, tôi còn hay đi phòng trà, và biết hầu hết các quán cà phê có nét của Sài Gòn.


* Giáng sinh em chúm chím nụ môi hồng - là câu thơ viết giùm một thằng bạn năm đầu đại học, lúc đấy đang lao đao với mối tình đầu. Bây giờ nó đã có vài chục mối tình, không biết nó còn nhớ cái ngày nhờ mình làm thơ tặng bạn gái nó?



Thứ Sáu, 13 tháng 11, 2009

The Bourne Identity

Cách đây vài tuần, tôi đi sao y chục bản Chứng minh nhân dân, thế quái nào mà đã hết veo. Tuần này phải chuẩn bị đi sao y thêm vài bản Chứng minh nhân dân nữa. Nghĩ cũng lạ, đằng nào thì tôi cũng là nhân dân – không là nhân dân thì còn là ai được nữa, vậy mà ở nơi nào ở chỗ nào cũng có ai đó cần phải biết rằng tôi có phải là nhân dân hay không. Đâm ra tôi hoài nghi, nếu chẳng may mất Chứng minh nhân dân thì cái thằng tôi còn tồn tại hay không. Đây là câu hỏi dành cho chàng Hăm-nét.

Trong một chừng mực nào đó có thể nói cụm từ “chứng minh nhân dân” thay cho “thẻ căn cước” là một ví dụ mẫu mực của tiếng Việt cũ nhường chỗ cho tiếng Việt mới (chào cụ Kundera), hay nói cách khác đấy cũng là một thành quả của “cách mạng”. Với tôi thì về mặt ngôn ngữ “thẻ căn cước” vẫn luôn có ý nghĩa hơn “chứng minh nhân dân” nhiều lần. Căn cước có ý nghĩa xác định ai là ai về phương diện pháp luật, còn chứng minh nhân dân nghe hơi buồn cười: sao tôi phải chứng minh tôi là nhân dân? Nói vậy thôi, cũng như “sống chỉ còn như một thói quen”, từ dùng nghe riết quen tai, chỉ có ai không phải là nhân dân mới không biết chứng minh nhân dân chính là chứng minh nhân thân:) Căn cước hay chứng minh nhân dân, đằng nào thì khi có tấm thẻ nho nhỏ đó trong tay, người ta bị ràng buộc bởi pháp luật của đất nước cấp cho họ tấm thẻ đó.

Trong thế giới ảo (được dùng với nghĩa thế giới mạng), nickname trong một chừng mực nào đó là căn cước. Tất nhiên không ai cấm bạn dùng nhiều nickname khác nhau, vì vậy, mới có cái qualification “chừng mực nào đó”. Nhưng khi sử dụng một nickname nhất định trong một cộng đồng mạng nhất định, vẫn trong một chừng mực nào đó, người ta bị ràng buộc bởi những quy tắc ứng xử của cộng đồng mạng đó. Nói cách khác, khi phát ngôn dưới một nickname quen thuộc, người ta có khuynh hướng phát ngôn có trách nhiệm đối với nickname đó. Còn ở trong cõi ẩn hình, người ta sẽ cho phép mình phát ngôn tự do hơn, vì chẳng ai chịu trách nhiệm hay cảm thấy mình phải chịu trách nhiệm về phát ngôn của một nick nặc danh cả. Khi rũ bỏ được cái trách nhiệm vô hình đó, người ta chợt thấy mình tự do, không ngần ngại gì mà không tuôn ra những lời man rợ. Nhưng không là ai cả, người ta cũng đáng thương hơn.

Sự nhập nhoạng của căn cước là một chủ đề trở đi trở lại trong bộ ba tiểu thuyết ngắn của Paul Auster về New York (The New York Trilogy: gồm City of Glass, Ghosts, và The Locked Room). Trong ba tiểu thuyết này, có lúc nhân vật này đóng vai nhân vật kia, nhân vật trở thành tác giả, tác giả trở thành nhân vật, kẻ theo dõi trở thành người bị theo dõi rồi cả hai nhập thành một, có người thì đột nhiên biến mất không để lại mảy may dấu vết. Gấp sách lại, hoặc không gấp sách lại, một câu hỏi lúc nào cũng lơ lửng: rốt cuộc thì ai là ai? Nhưng có lẽ câu hỏi đó không quan trọng bằng cảm giác mà bộ ba tiểu thuyết này tạo ra: nhu cầu về tìm kiếm sự thật.

Mà thôi, mọi sự thật chỉ là tương đối. Tôi quan tâm đến điều đó làm gì khi tôi còn phải bận đi sao y chứng minh nhân dân? Ít ra tôi không phải băn khoăn như chàng Bourne trong loạt phim cùng tên, người đã chạy khắp châu Âu sang đến Ấn Độ, trèo lên mái nhà, bắn súng hai tay, cưỡi mô tô, nhảy xuống nước, rồi leo lên bờ trong hành trình đi xác định mình.