Hiển thị các bài đăng có nhãn vargas llosa. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn vargas llosa. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 11 tháng 3, 2025

The Real Life of Alejandro Mayta - Vargas Llosa

Mới đọc xong cuốn này tối qua. Lâu rồi mới đọc xong một cuốn tiểu thuyết bằng tiếng Anh. Dẫu đã từng dịch dăm ba cuốn sách, thì đọc bằng tiếng Việt, nhất là tiểu thuyết, vẫn nhanh hơn tiếng Anh nhiều. Do vậy, tôi chỉ đọc tiểu thuyết bằng tiếng Anh khi không có bản tiếng Việt, hoặc bản tiếng Việt quá kém.
Cuốn tiểu thuyết này viết về một "nhà cách mạng" Peru. Chữ "nhà" có lẽ hơi to, nên cho vào ngoặc kép. Anh ta làm cách mạng trong khoảng những năm sáu mươi của Peru, với rất nhiều nhiệt tình, ngây thơ và nông nổi. Anh ta còn là người đồng tính, và bị chính các đồng chí của mình đấu tố, khai trừ ra khỏi đảng. Cái đảng ấy có bảy đảng viên cả thảy. Tất nhiên cuộc cách mạng của anh ta không đi tới đâu. Anh ta đi tù, lần đầu vì làm cách mạng không thành, những lần sau cũng vì cách mạng không thành, nhưng lại bị nhìn nhầm là trộm cướp. Cuối cùng, ra tù, anh ta bán cà rem.
Câu chuyện diễn ra ở xứ Peru xa xôi, lạ hoắc. Trong quá trình đọc, tôi tra Google mấy lần để xem Peru bây giờ ra sao, giàu hay nghèo, độc tài hay dân chủ, có những thắng cảnh nào. Nghệ thuật kể chuyện của Vargas Llosa hơi khó nắm bắt, nhưng khi quen phong cách của ông, thì phải nhận là trình ông cao. Tôi thích cuốn sách. Tuy nhiên, chỉ độ vài tháng nữa thôi, là tôi sẽ quên sạch những gì đã đọc, có lẽ chỉ nhớ mang máng mình từng đọc cuốn này rồi và mình đã có những giây phút hào hứng.

Dì Hulia và nhà văn quèn - Vargas Llosa

Cuốn sách này được dịch và in ở Việt Nam năm 1986, 9 năm sau bản gốc, nghĩa là khá sớm. Nhưng không hiểu sao nó không có được danh tiếng như Trăm năm cô đơn. Có lẽ vì không như tác giả Trăm năm cô đơn, cái mác nhà văn Nobel đến với Vargas Llosa khá muộn.
Cuốn sách gồm hai mưoi chương. Những chương số lẻ là chuyện tình giữa cậu sinh viên luật 18 tuổi ôm mộng trở thành nhà văn và người dì họ 32 tuổi, đã một đời chồng. Ở những chương số chẵn, thoạt đầu ta đọc được những truyện ngắn ly kỳ có kết thúc lửng lơ. Sau rồi ta sẽ biết những truyện ngắn ấy là tác phẩm của một nhà văn quèn, chuyên viết kịch truyền thanh. Dần về sau, nhân vật của các truyện ngắn lẫn lộn vào nhau, thay thế hoàn cảnh nghề nghiệp của nhau, thậm chí tên của nhân vật này bị gán cho nhân vật kia, ấy là khi nhà văn quèn bắt đầu bị tâm thần và nhầm nhọt các nhân vật trong các vở kịch truyền thanh của mình với nhau.
Vargas Llosa kể chuyện lôi cuốn và hài hước. Chẳng hạn trong một chương khi cậu sinh viên đang thất vọng vì tình, thì cậu được nhà văn khuyên hãy uống thuốc nhuận tràng, bởi lẽ “trong đa số trường hợp cái gọi là nỗi buồn trong tâm can chỉ là hậu quả của việc khó tiêu hoá món đồ quá khô, món cá thiu hoặc chứng táo bón. Một liều thuốc nhuận tràng mạnh mẽ thanh toán được những nỗi rồ dại của tình yêu.” Quả nhiên là một lý do rất tốt để trữ sẵn Antibio Pro bên người.
Sách dịch vòng qua bản tiếng Nga, so với bản tiếng Anh dịch từ tiếng Tây Ban Nha thấy sai sót không đáng kể. Tiếng Việt rất nhuần nhuyễn. Cuốn này quả là một kiệt tác bị bỏ quên (ở Việt Nam). Những năm gần đây, Vargas Llosa được dịch thêm hai cuốn nữa nhưng hình như ít người đọc.

Thứ Sáu, 27 tháng 4, 2012

Giấu giấu giếm giếm


Bạn thân mến

Đâu đó Ernest Hemingway có nói rằng ở thời điểm khởi sự nghiệp viết của mình đột nhiên ông nhận ra nên loại bỏ sự kiện trung tâm ra khỏi truyện mình đang viết (sự kiện nhân vật chính treo cổ). Rồi ông giải thích rằng từ quyết định này ông khám phá ra một kỹ thuật kể chuyện mà về sau ông thường xuyên ứng dụng trong các truyện ngắn và tiểu thuyết của mình.  Thực tế, không hề phóng đại khi nói rằng những truyện hay nhất của Hemingway chứa đầy những sự im lặng đầy ý nghĩa; người dẫn chuyện giấu đi các mẩu thông tin, nhưng đồng thời lại trao cho các dữ liệu vắng mặt ấy một hiện diện hùng hồn và dai dẳng trong trí tưởng tượng của người đọc, sắp đặt thế nào để người đọc lấp đầy các khoảng trống bằng các giả thuyết và ức đoán của riêng mình. Tôi gọi kỹ thuật này là “sự kiện ẩn” và muốn nhanh chóng nói rõ rằng mặc dù Hemingway  đặt dấu ấn cá nhân của mình lên kỹ thuật này cũng như sử dụng nó thường xuyên, không hẳn ông là người sáng tạo ra nó, vì đây là một quy trình cũ xưa như chính bản thân tiểu thuyết.

Nhưng sự thật là ít có tác giả hiện đại nào sử dụng kỹ thuật này với cùng mức độ táo bạo như tác giả Ông già và biển cả. Bạn còn nhớ truyện “Những tên giết người” (The Killers), một truyện ngắn tuyệt hảo và có lẽ truyện nổi tiếng nhất của Hemingway? Ở trung tâm câu chuyện là một dấu chấm hỏi to tướng:  Tại sao hai gã ngoài vòng pháp luật mang súng săn cưa nòng ghé vào cái quán ăn nhỏ tên Henry ở chốn đồng không mông quạnh muốn giết tay Thụy Điển Ole Andreson? Và tại sao, khi cậu thiếu niên Nick Adams cảnh báo hắn rằng có hai tên sát thủ đang lùng, tay Andreson bí ẩn này không chịu trốn đi hoặc báo cảnh sát, mà lại bình thản đón nhận số phận của mình? Chúng ta không bao giờ biết chắc. Nếu muốn có câu trả lời cho hai câu hỏi then chốt kia, chúng ta phải tự giải lấy dựa vào vài sự kiện ít ỏi mà người dẫn chuyện khách quan và biết tuốt (omniscent:)) cung cấp: trước khi chuyển tới vùng này, dường như Andreson từng là võ sĩ đấm bốc ở Chicago, ở đó gã từng làm cái gì đó (cái gì đó trật chìa, gã nói) định đoạt số phận gã.

Sự kiện ẩn, hay trần thuật theo lối đục bỏ,  không thể vu vơ hoặc tùy tiện.  Điều thiết yếu là sự im lặng của người dẫn chuyện phải có ý nghĩa, có một ảnh hưởng rõ ràng lên phần hiển lộ của câu chuyện, phải khiến người ta cảm nhận được sự thiếu vắng của nó, và phải khêu gợi lòng hiếu kỳ, sự trông đợi và tưởng tượng nơi người đọc. Hemingway là một bậc thầy vĩ đại về kỹ thuật, như thể hiện rõ trong truyện “Những tên giết người”, một hình mẫu của lối trần thuật kiệm lời.  Văn bản của truyện ấy như chóp một tảng băng, một mỏm nhỏ có thể nhìn thấy được, mà dưới ánh chớp lóe thì gợi ra một thoáng vẻ ngoài của cái khối chi tiết cồng kềnh đỡ bên dưới, và rồi bị giật phắt ngay khỏi tầm nhìn của người đọc. Kể chuyện bằng cách giữ im lặng, thông qua những ẩn ý biến thủ thuật ấy thành một lời hứa hẹn và buộc người đọc chủ động tham dự việc xây dựng câu chuyện bằng những ức đoán và giả định: đây là một trong những phương thức phổ biến nhất mà những người dẫn chuyện thành công trong việc mang lại vẻ sống động cho các câu chuyện của mình, qua đó đem sức thuyết phục đến cho những câu chuyện ấy.

Bạn còn nhớ mẩu thông tin bị giấu đi trong Mặt trời vẫn mọc, theo tôi là tiểu thuyết xuất sắc nhất của Hemingway?  Đúng rồi, cái vụ bất lực của người dẫn chuyện Jake Barnes đó. Chuyện đó không bao giờ được công khai nói tới nhưng dần trở nên rõ ràng - tôi muốn nói là độc giả, vì bức bối với cái mình đọc, gán điều ấy cho nhân vật - thông qua một sự im lặng đích đáng, một khoảng cách vật lý kỳ lạ, mối quan hệ trong sáng của Jake với cô nàng Brett xinh đẹp, mà rõ là anh yêu cô ta và cô ta cũng rõ là có yêu anh, hoặc có thể đã yêu anh, nếu không phải vì một trở ngại hay chướng vật nào đó mà chúng ta không bao giờ được thông báo chính xác.  Sự bất lực của Jake là một im lặng ngầm ẩn, một thiếu vắng  trở nên nổi bật khi người đọc để ý thấy và rồi ngạc nhiên vì cái vẻ bất thường và đầy mâu thuẫn trong cách ứng xử của Jake Barnes với Brett, mãi cho đến khi cách duy nhất để giải thích chuyện đó là nhận ra (hay bịa ra?) sự bất lực của anh. Mặc dù không được nói ra, hay có lẽ chính xác vì không được nói ra, mà mẩu thông tin ẩn đó tưới tắm cho câu chuyện trong Mặt trời vẫn mọc  bằng một thứ ánh sáng rất riêng.

Dịch một phần chương The Hidden Fact trong cuốn Letters to a Young Novelist của Mario Vargas Llosa. 



Thứ Ba, 2 tháng 8, 2011

Châm ngôn (từ những thứ đang có trên bàn)

Vì cái tật đọc một lúc năm, bảy cuốn nên sẽ có châm ngôn từ năm, bảy cuốn.

Trước hết, xem thử cái giọng chua ngoa của bạn Giò Trắng có thể từ đâu ra:

"Thưa quý vị, cố nhiên là tôi pha trò, và tôi cũng biết rằng những câu pha trò của tôi là vô duyên, tuy nhiên cũng không hẳn là pha trò cả đâu. Có thể tôi vừa pha trò vừa nghiến răng lại cũng nên."  Câu này trích trong Bút ký dưới hầm của Dostoyevsky!

Sau khi nói xấu Giò Trắng, ta hãy nói xấu phụ nữ, nhưng kỳ thực là để quy chiếu về những đám đông xuất hiện gần đây:

"Tính giản đơn và phóng đại những tình cảm của đám đông đã khiến nó không biết đến nghi ngờ và lưỡng lự. Giống như phụ nữ, những tình cảm lập tức đi tới cực đoan."  Câu này dĩ nhiên của chuyên gia đám đông Gustave le Bon (Tâm lý học đám đông).

Kế tiếp, không phải châm ngôn mà là sự phân biệt giữa hai từ "đĩnh đạc" và "đĩnh đạt".
  • Đĩnh đạc: - Đĩnh: thẳng; đạc: đo. Đĩnh đạc là đo thẳng, nghĩa bóng là nghiêm nghị, đứng đắn.
  • Đĩnh đạt: - Đĩnh: thẳng; đạt: thấu. Đĩnh đạt là thấu tới, ngay thẳng, thẳng thắn.
Sự phân biệt này là của tác giả Long Điền Nguyễn Văn Minh trong cuốn Việt ngữ tinh nghĩa từ điển.

Ai không ưa Sartre (như tôi chẳng hạn:), hẳn khoái trá khi đọc câu này của Vargas Llosa viết về các tác phẩm của Sartre: "They have aged terribly."  Cũng trong bài này, Vargas Llosa còn viết: "There is no great art without a certain measure of unreason, because great art always expresses the whole of human experience, in which tuition, obsession, madness and fantasy play their part as well as ideas.  In Sartre's work, man seems to be made of ideas alone."  Câu này trong tập Making Waves.


Câu kế tiếp sẽ là một châm ngôn thực sự: "In omnibus requiem quaesivi, et nusquam inventi nisi in angulo cum libro." - "Tôi đã tìm kiếm sự an ngơi trong tất cả, nhưng tôi chỉ có thể tìm thấy nó trong góc đọc sách mà thôi".  Câu này trích trong cuốn Tên của đóa hồng của Umberto Eco, nhưng không phải là câu của Eco. Eco chỉ dẫn lại một người khác.

Kết thúc bằng một khổ thơ Tô Thùy Yên vậy:


Ta ngồi bên đống lửa man rợ
Hong tóc râu, chờ chín miếng mồi
Nghe cây dừa ngất gió trùng điệp
Suốt kiếp đau dài nỗi tả tơi.
(Trường Sa hành)

Thứ Tư, 16 tháng 2, 2011

Bí mật dưới giàn mướp

Tôi đã từng mơ viết một cuốn tiểu thuyết như thế này:

Một người đàn ông giàu có, đẹp trai, thành đạt, gia đình hạnh phúc, rơi từ tầng 33 của một tòa nhà trong thành phố xuống đất.  Trong thời gian rơi đó, khoảng vài giây, người đàn ông hồi tưởng lại những sự kiện diễn ra trong đời mình, tất cả những dích dắc khúc mắc, tình yêu, thù hận, tiền bạc, quyền lực, những góc khuất tâm hồn, quan điểm chính trị .v.v., dần dần sẽ được hé lộ, và đến khoảnh khắc cuối cùng, khi anh ta chạm đất, thì người đọc cũng tự trả lời được cái chết của anh ta là án mạng hay tự tử.  Toàn bộ những hồi tưởng trong khi đang rơi đó, diễn ra trong vài giây, sẽ được thuật lại trong khoảng 500 trang. 

Đấy, nhưng tôi mới phát hiện ra, cái ý tưởng trên hơi bị trùng lắp. 

Trong truyện ngắn “An Occurrence at Owl Creek Bridge” của Ambrose Bierce, nhân vật chính bị treo lủng lẳng trên thành cầu do tội phá hoại đường ray. Khi dây thừng bắt đầu siết quanh cổ, anh ta nhớ về vợ con mình. Dây thừng đứt, anh rơi xuống sông, thoát khỏi đạn bắn đuổi, lặn lội rừng suối tìm về nhà gặp vợ.  Khi anh chạy lại định ôm vợ, thì anh thấy đau quanh cổ.  Đó chính là khi dây thừng bị siết lại.  Hóa ra là dây thừng chưa bao giờ bị đứt, và anh đã tưởng tượng ra toàn bộ câu chuyện trốn thoát.  Chỉ mỗi tội truyện này ngắn lắm, đăng Tuổi trẻ Cuối tuần được, chứ không đến 500 trang.

Trong một truyện ngắn khác, “The Secret Miracle” của Borges, nhà viết kịch Hladik bị kết án tử hình.  Đêm trước ngày thi hành án, ông cầu chuyện Chúa ban cho ông một năm để hoàn thành vở kịch của mình.  Ngày hôm sau, khi bị dẫn ra đứng trước đội súng và viên chỉ huy đã ra lệnh bắn,  chợt thế giới trở nên bất động. Hladik, tuy bất động nhưng hoàn toàn tỉnh táo, nhận ra rằng Chúa đã nghe lời nguyện cầu của ông.  Ông có một năm để hoàn thành vở kịch của mình, và một năm đó là khoảng thời gian chủ quan của ông, bắt đầu từ khi lệnh bắn được phát ra cho đến khi viên đạn hoàn thành sứ mệnh của nó.  Với mọi người khác, thời gian vẫn trôi bình thường, nên chẳng ai nhận ra điều gì khác lạ.

Tôi biết đến hai truyện ngắn này khi đọc Letters to a Young Novelist (Thư gửi một tiểu thuyết gia trẻ tuổi) của Vargas Llosa, một cuốn sách về kinh nghiệm viết tiểu thuyết mà tôi nghĩ là cực kỳ hữu ích đối với các nhà văn nói riêng và những ai quan tâm đến nghệ thuật tiểu thuyết nói chung.  Tôi sẽ còn nhắc đến cuốn này trong các post tới, và hy vọng sẽ trích dịch được một ít.

Trong thời gian chờ đợi, tôi đi viết cuốn tiểu thuyết 500 trang của tôi đây! :) :) :)

Update: Link truyện Phép lạ bí ẩn của Borges, bản dịch của Mr. Tin Văn.

Thứ Tư, 9 tháng 2, 2011

Thời gian của đọc

Trước Tết khoảng mười ngày, tôi đột nhiên thấy người ớn lạnh, uể oải, cứ tưởng là mình có bầu tới nơi rồi. (Con gái Alpha thỉnh thoảng sờ bụng ba, hỏi, ba sắp có em bé hả?).  Hai ba hôm liền như thế, cộng thêm một vài triệu chứng khác, đi khám, thì may không phải bầu, mà là bệnh.  Bệnh  không nặng lắm, nhưng khó chịu, và buộc phải ở nhà một tuần.  Nghe bác sĩ báo tin xong, tôi vừa bực mình, vì những ngày đó mà buộc phải ở nhà chẳng khác bị chặt chân, nhưng cũng vừa hơi thinh thích vì sẽ có nguyên một tuần để đọc sách!  Trong tuần đó, trừ những lúc sốt, chóng mặt, hay đau đầu quá sức, thì tôi đọc liên tục được bốn cuốn:  Những ngã tư và những cột đèn của Trần Dần, Henderson - Ông hoàng mưa của Saul Bellow và hai cuốn của Vargas Llosa là In Praise of the Stepmother (tạm dịch Ngợi ca kế mẫu), và Death in the Andes (tạm dịch Cái chết trên dãy Andes).

Tôi chia sẻ nhận xét của bạn Nhã Thuyên về Những ngã tư và những cột đèn: cuốn tiểu thuyết này là một bài thơ dài.  Tôi thậm chí còn muốn thêm: một bài thơ bậc thang dài.  Tôi có ấn tượng đó vì cách ngắt nhịp trong văn Trần Dần: ông sử dụng dấu phẩy dày đặc để ngắt những câu dài thành ba, bốn, năm đoạn. Về mặt ngữ pháp, có thể những dấu phẩy đó không thực sự cần thiết; tuy nhiên, về mặt ngữ điệu, nó cho ta cảm giác khi đọc những bài thơ bậc thang, nơi một câu thơ luôn được ngắt ra thành ba bốn bậc.   Với tôi, điều thú vị nhất khi đọc tiểu thuyết của Trần Dần là lại được nhìn thấy một Trần Dần - nhà thơ.

Về cuốn Ông hoàng mưa, sau chừng 100 trang đầu, tôi tự hỏi mình có nên đọc tiếp.  Nhưng cũng vào lúc tôi đang băn khoăn thì nhân vật chính, Henderson - một triệu phú người Mỹ, đột nhiên quyết định đi sang châu Phi.  Những chuyến đi châu Phi luôn hứa hẹn những điều kỳ thú, nhất là khi Henderson quyết định tránh xa những dấu vết văn minh để đi off the beaten track vào những nơi xa xôi, hẻo lánh, lạ lùng nhất.  Trước chuyến đi châu Phi, thành tích đáng kể nhất của Henderson là bắn hụt một con mèo (tất nhiên phải trừ quả huân chương trong chiến tranh thế giới thứ hai).  Chuyến đi châu Phi của Henderson đầy ắp những sự kiện đáng ghen tỵ cho bất cứ tiểu thuyết phiêu lưu nào: làm nổ tung một bồn nước đầy ếch nhái bằng một quả bom làm từ đèn pin và dây giày, ngủ cùng với xác chết, đột nhiên bị lột quần áo và tung hô hay gầm gào cùng với sư tử.  Thế nhưng, lẽ dĩ nhiên Ông hoàng mưa không chỉ là một tiểu thuyết phiêu lưu. Cái tiếng nói trong đầu Henderson thôi thúc ông rời khỏi cuộc sống vô vị dấn thân vào cuộc phiêu lưu để tìm hiểu bản thân mình muốn gì hẳn là tiếng nói mà đôi khi mỗi chúng ta cũng nghe thấy nhưng thường bị lờ đi. Và những đoạn đối thoại giữa Henderson và vị vua sư tử minh triết Dahfu thực sự là thức ăn thượng hạng cho tâm hồn, tha hồ cho ta vừa ăn vừa chiêm nghiệm cuộc sống.
 
In Praise of the Stepmother là một cuốn tiểu thuyết tương đối mỏng, chưa tới hai trăm trang, chưa kể bản tôi có là bản bìa cứng, chữ to, lại là tiểu thuyết erotic nên có thể đọc rất nhanh mà không cần đứng dậy đi uống sữa. Đây là cuốn đầu tiên của Vargas Llosa mà tôi đọc.  Trước đó nhà có sẵn cuốn The Bad Girl  - một phiên bản của bà Bovary (Vargas Llosa rất hâm mộ Flaubert)  nhưng mãi mà tôi vẫn để đấy, chưa sờ tới, vì không khoái gái hư lắm.:)  In Praise of the Stepmother là tên bài luận văn mà cậu con trai riêng của chồng tuổi vị teen (chắc dưới 13 tuổi) Fonchito viết để thuật lại những gì diễn ra giữa cậu và bà mẹ kế Lucrecia.  Chỉ đến trang cuối tiểu thuyết, ta mới có thể biết những âm mưu đen tối nhất có thể khoác bộ mặt thánh thiện nhất.  Điều này khẳng định rằng một sự thật rằng, làm gì có chuyện mẹ kế mà được ngợi ca!  Điểm đáng chú ý của cuốn này là xen giữa những chương sách thuật lại câu chuyện giữa Lucrecia, ông chồng Don Rigoberto và cậu con trai riêng Fonchito, là những chương tả lại những bức tranh thời phục hưng có đề tài liên quan đến câu chuyện.  Những bức tranh đó được in lại trong sách. 
  
Tôi chỉ hơi thích In Praise of the Stepmother, nhưng tôi hoàn toàn bị chinh phục bởi Death in the Andes.  Tôi biết đến cuốn này từ bài luận văn của Pamuk về Vargas Llosa mà tôi có đăng một phần bản dịch trên blog này.  Pamuk nhận xét Death in the Andes là một tiểu thuyết tiêu biểu của Vargas Llosa. 

Trích Pamuk: “Tiểu thuyết này lấy bối cảnh những thị trấn nhỏ nằm rải rác và bị lãng quên trong dãy Andes xa xôi - trong những thung lũng đìu hiu, những mỏ khoáng sản, những con đường núi, và một cánh đồng chẳng có gì ngoài sự hoang vắng - và theo chân một cuộc điều tra chuỗi những vụ mất tích  nhiều khả năng là giết người.  Cả điều tra viên, hạ sĩ Lituma, và đối tác của anh trong lực lượng dân vệ, Thomas Correno sẽ quen thuộc với độc giả những tiểu thuyết khác của Vargas Llosa.  Trong khi hai người lang thang trong núi thẩm vấn những đối tượng tình  nghi, họ kể cho nhau nghe những chuyện tình trong quá khứ, luôn phải trông chừng mai phục của Con Đường Sáng - nhóm du kích theo chủ nghĩa Mao.  Những người họ gặp dọc đường và những chuyện họ kể trộn lẫn với lịch sử cá nhân họ tạo nên một hoạt cảnh rộng lớn của Peru đương đại với tất cả khổ đau của nó.”

Cách kể chuyện của Vargas Llosa trong Death in the Andes thú vị nhưng cực kỳ phức tạp.  Chuyện kể quá khứ và hiện tại đan xen với nhau không phải theo từng chương hay từng đoạn mà từng câu. Nhưng cũng nhờ đó, nó tạo hiệu ứng như khi xem một cuốn phim mà những xen quá khứ liên tục được chèn vào xen hiện tại.  Khi xem phim, ta phân biệt được quá khứ - hiện tại nhờ vào bối cảnh, trang phục, ánh sáng .v.v, còn khi đọc cuốn này đôi khi ta chỉ phân biệt được quá khứ và hiện tại nhờ vào cách sử dụng đại từ nhân xưng.

Bây giờ thì chờ có Trò chuyện trong quán La Catedral để đọc. Ghét thế, Sài Gòn luôn có sách mới muộn hơn Hà Nội.  Sáng lên mạng đã thấy hoa hậu khoe toáng đang đọc rồi.  Kinh thật!

Thứ Bảy, 30 tháng 10, 2010

Tiễn biệt tháng Mười, lương khô cho một ngày mưa lạnh, hay Orhan Pamuk nói về Mario Vargas Llosa (nhưng đúng ra là "Mario Vargas Llosa và văn chương Thế giới Thứ ba")



+ Hôm nay Sài Gòn lạnh như mùa đông, nằm trên sofa đọc Tuyết của Pamuk mà cứ nghèn nghẹn.  Thò tay định kéo chăn lên cho đỡ lạnh chân phát hiện ra chả có cái chăn nào, lại giật đứt ngay một sợi lông chân mình, tiếc ơi là tiếc:)


+ Như đã hứa hẹn, sẽ tiễn biệt tháng 10 bằng một bài nữa  trong tập Other Colors của Orhan Pamuk, rồi xin chừa:). Hy vọng bài này đủ dài để làm lương khô cho một ngày mưa lười ra đường, hoặc nơi nào không mưa xem như lương khô cho kỳ nghỉ cuối tuần.


+ Tên entry dài thế kia để chứng minh rằng tôi cũng có thể rất... dài khi muốn:))


----------------------------





Mario Vargas Llosa và văn chương Thế giới Thứ ba

Có không cái gọi là văn chương Thế giới Thứ ba? Liệu có thể xác định đâu là những phẩm chất căn bản của văn chương của những quốc gia cấu thành cái mà ta gọi là Thế giới Thứ ba - mà không sa vào chỗ dung tục hoặc chủ nghĩa địa phương hẹp hòi?  Khi được diễn đạt một cách tinh tế nhất - ví dụ như trong lý luận của Edward Said - khái niệm văn chương Thế giới Thứ ba là nhằm làm nổi bật sự phong phú và trình độ của dòng văn chương bên lề và quan hệ giữa chúng với chủ nghĩa dân tộc và căn tính phi phương Tây.  Nhưng khi một người như Fredric Jameson khẳng định rằng “Văn chuơng Thế giới Thứ ba mang tính cách là những dụ ngôn dân tộc” thì ông chỉ đơn giản bày tỏ sự thờ ơ lịch thiệp với sự giàu có và phức tạp của văn chương từ thế giới bên lề.  Borges viết các tiểu luận và truyện ngắn của ông vào những năm 1930 tại Argentina - nhưng vị trí của ông ngay giữa lòng văn chương thế giới là không thể tranh cãi.

Dù vậy, rõ ràng là có một loại tiểu thuyết trần thuật đặc thù đối với các nước thuộc Thế giới Thứ ba.  Tính độc đáo của nó không liên quan nhiều đến nơi chốn của nhà văn mà liên quan hơn đến thực tế là nhà văn nhận thức rằng anh ta đang viết từ cách xa các trung tâm văn chương thế giới và anh ta cảm nhận được khoảng cách này trong chính bản thân.  Nếu có gì đó tách biệt văn chương Thế giới Thứ ba, thì đó không phải là nghèo khổ, bạo lực, chính trị, hay bất ổn xã hội của quốc gia từ đó văn chương xuất phát mà chính là nhận thức của nhà văn rằng tác phẩm của mình theo một cách nào đó xa cách những trung tâm nơi lịch sử của môn nghệ thuật này - tức nghệ thuật tiểu thuyết - được mô tả, và anh ta phản ánh khoảng cách này trong tác phẩm của mình.  Điều cốt lõi ở đây là cảm quan bị lưu đày khỏi những trung tâm văn chương thế giới của các nhà văn thuộc Thế giới Thứ ba.   Một nhà văn thuộc Thế giới Thứ ba có thể lựa chọn rời quê hương và tái định cư ở một trong những trung tâm văn hóa của châu Âu - như Vargas Llosa đã làm. Nhưng cảm quan về bản thân thì không thể thay đổi, vì “sự lưu đày” của một nhà văn Thế giới Thứ ba không hẳn là vấn đề địa lý mà là trạng thái tinh thần, một cảm quan về sự bị loại trừ, về việc là người nước ngoài vĩnh cửu.

Cùng lúc đó, cảm quan là người ngoài cuộc này giải phóng anh ta khỏi những âu lo về tính độc đáo.  Anh ta không bị ám ảnh về việc chạy đua với những bậc cha chú hoặc người đi trước để tìm ra giọng của riêng mình.  Vì anh ta khai phá những địa hạt mới, đề cập những chủ đề  chưa từng được bàn thảo trong nền văn hóa của anh ta, và thường hướng tới lớp người đọc rõ rệt và đang trỗi dậy, chưa từng thấy trước đây trong quốc gia của anh ta - điều này khiến văn của anh ta có tính chân thực và độc đáo riêng biệt.

Trong bài điểm sách thời trẻ cuốn Những hình ảnh đẹp của Simone de Beauvoir, Vargas Llosa đề xuất những nguyên tắc định hướng cho một sự nghiệp như thế có thể là gì.   Ông ca ngợi de Beauvoir không chỉ vì đã viết một cuốn tiểu thuyết chói sáng mà còn vì khước từ những mục đích của trào lưu tiểu thuyết mới đang là thời thượng khi đó (thập niên 1960).  Theo Vargas Llosa, thành tựu lớn nhất của Simone de Beauvoir là việc đã lấy hình thức tiểu thuyết và kỹ thuật viết của các nhà văn như Alain Robbe-Grillet, Nathalie Sarraute, Michel Butor và Samuel Beckett và sử dụng vào những mục tiêu hoàn toàn khác.

Trong một tiểu luận khác về Sartre, Vargas Llosa khai triển ý tưởng của ông về việc “sử dụng” kỹ thuật và hình thức của các nhà văn khác.  Những năm sau này, Vargas Llosa phàn nàn rằng tiểu thuyết của Sartre vắng bóng sự hóm hỉnh và bí ẩn, rằng tiểu luận của ông được viết rõ ràng nhưng rối rắm về chính trị, và rằng nghệ thuật của ông lạc hậu và sáo mòn; ông sẽ bày tỏ niềm thất vọng rằng trong thời kỳ Mác-xít của chính ông ông đã bị ảnh hưởng sâu sắc thậm chí bị hủy hoại bởi Sartre.  Vargas Llosa ghi  nhận ngày giải ảo tưởng Jean-Paul Sartre là ngày ông đọc một bài báo trên tờ Le Monde trong năm 1964.  Trong bài báo tai tiếng này (gây phản kháng thậm chí ở Thổ Nhĩ Kỳ), Sartre đặt văn chương cạnh một đứa trẻ da đen đang chết đói ở một quốc gia thuộc Thế giới Thứ ba như Biafra, tuyên bố rằng chừng nào những đau khổ như thế còn diễn ra thì việc những nước nghèo mơ tưởng đến văn chương là điều “xa xỉ”.  Ông thậm chí còn đi xa hơn khi cho rằng các nhà văn thuộc Thế giới Thứ ba sẽ không bao giờ thưởng thức được cái gọi là tính xa xỉ của văn chương với một lương tâm trong sạch, và kết luận rằng văn chương là việc của các nước giàu.  Vargas Llosa thừa nhận vài khía cạnh nhất định trong tư tưởng của Sartre, cái logic cẩn thận của ông và việc ông khẳng định rằng văn chương quá quan trọng nên không thể là trò chơi đã chứng tỏ là “có thể dùng được” - chính nhờ Sartre mà Vargas Llosa tìm được đường đi qua khỏi những mê cung văn chương và chính trị - do vậy rốt cuộc, Sartre là một người dẫn đường “hữu ích”.

Để mãi mãi nhận thức được khoảng cách từ mình đến trung tâm, để bàn luận cơ chế của cảm hứng và cả những cách mà khám phá của các nhà văn khác có thể trở nên hữu ích, người ta phải sở hữu một sự ngây thơ sinh động (và theo Vargas Llosa thì trong Sartre chẳng có gì ngây thơ khờ khạo cả).  Sự ngây thơ sinh động của riêng Vargas Llosa được phản ánh không chỉ trong tiểu thuyết mà còn cả trong phê bình, tiểu luận và các tác phẩm khác của ông.

Cho dù ông viết về  sự dính líu của con trai ông với những người theo phong trào Rastafarni, hoặc trình bày hoạt cảnh chính trị về những người thuộc phong trào Mác-xít Sandinista ở Nicaragua, hay mô tả Cúp thế giới 1992, chưa bao giờ ông thôi lôi cuốn, chưa bao giờ ông rời bỏ chính mình; ông đặc biệt hay khi viết về Camus, người mà ông nhớ khi còn trẻ đã đọc một cách không hệ thống - vì ảnh hưởng của Sartre lên ông thời đó thật to lớn.  Nhiều năm sau này, sau khi sống sót qua một trận tấn công khủng bố ở Lima, ông đọc Kẻ nổi loạn, luận văn dài của Camus về lịch sử và bạo lực, và quyết định ưa thích Camus hơn Sartre.   Tuy vậy, ông vẫn ca ngợi cách tiểu luận của Sartre đi thẳng vào trọng tâm vấn đề, và cũng có thể nói như vậy về các tiểu luận của Vargas Llosa.

Sartre là một nhân vật phức tạp, có lẽ thậm chí là nhân vật có ảnh hưởng hàng đầu, đối với Vargas Llosa.   John Dos Passos, người chịu nhiều ảnh hưởng của Sartre, cũng quan trọng đối với Vargas Llosa; ông ca ngợi John Dos Passos vì đã từ chối sự đa cảm dễ dãi và vì đã thử nghiệm các hình thức trần thuật mới.  Như Sartre, Vargas Llosa sử dụng ghép mảnh, tương phản, lồng ghép, cắt dán, và các kỹ thuật trần thuật tương tự để tổ chức tiểu thuyết của mình.

 Trong một tiểu luận khác, Llosa ca ngợi Doris Lessing vì là thể loại nhà văn “dấn thân” theo nghĩa của Sartre.  Với ông một tiểu thuyết “dấn thân” là tiểu thuyết đắm chìm trong những tranh cãi, huyền thoại, và bạo lực của thời đại, mà những tiểu thuyết thiên tả thời kỳ đầu của Vargas Llosa là ví dụ tốt cho thể loại này.  Nhưng cái tả khuynh mà chúng ta thấy trong những tiểu thuyết thời kỳ đầu này là một thứ tả khuynh giàu tưởng tượng và vui thú.  Trong số các nhà văn mà Vargas Llosa bàn đến trong các tiểu luận của mình - trong đó có Joyce, Hemingway và Bataille - người mà ông chịu ơn nhiều nhất là Faulkner.  Cái mà Vargas Llosa ca ngợi trong Nơi ẩn náu - sự tương phản giữa các phân cảnh và sự nhảy vọt về thời gian - thậm chí thể hiện rõ ràng hơn trong chính các tiểu thuyết của chính Vargas Llosa.  Ông sử dụng thành thạo kỹ thuật này - sự giao cắt quyết liệt giữa các giọng điệu, câu chuyện và đối thoại - trong Cái chết trong dãy Andes.

[còn nữa, nhưng thôi post một nửa thôi, nửa kia xin giữ lại làm tin, hehe]



(Dịch từ bài Mario Vargas Llosa and Third World Literature trong tập Other Colors của Orhan Pamuk)