Hiển thị các bài đăng có nhãn non-fiction. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn non-fiction. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 23 tháng 8, 2016

Đọc lại: Du hành cùng Herodotus

Chỉ có đọc lại mới đáng kể - một nhà nào đó đã nói về việc đọc sách, chính xác lại là "đọc lại sách", như thế.

Một nhà nào đó khác đã nói, nếu một cuốn sách không xứng đáng để đọc lại, thì mắc mới gì phải cầm nó lên và đọc lần đầu tiên.

Tôi, một mặt "quán triệt"  những lời thông thái trên; mặt khác do tính ham của lạ nên hay đọc tứ tung, tuy vậy hằng năm đều dành thời gian để đọc lại một số cuốn mà tôi thấy đáng để đọc lại. Hiện, tôi đang đọc lại cuốn Du hành cùng Herodotus của nhà báo Ba Lan Ryszard Kapuściński, qua bản dịch từ tiếng Ba Lan của Nguyễn Thái Linh

Hồi đọc lần đầu năm 2009, tôi có nói đâu đó rằng nếu bạn chỉ đọc một cuốn du ký duy nhất thì nên đọc cuốn này. Giờ đọc lại, tôi thấy gọi cuốn này là du ký e có phần lầm lạc. Tôi không có vấn đề với thể loại du ký, nhưng có vẻ những cuốn xuất sắc nhất trong thể loại này đều đứng trên, vượt ra ngoài thể loại. Ngoài ra, du ký nhất là ở Việt Nam gần đây hầu như ai cũng viết được. Đi một tí, ngó nghiêng một tí, wiki một tí, thêm vài chuyện nhăng nhít ngồ ngộ, là lạ thế đã thành sách du ký rồi. Vì vậy, tôi không muốn gọi Du hành cùng Herodotus là du ký nữa.

Vậy nên gọi nó là gì? Tôi thấy nó là một bài review sách khổng lồ, chứa đựng một khối tò mò khổng lồ. Vâng, đúng là trong cuốn sách này, RK sẽ dẫn ta đến Ấn Độ, Trung Hoa, Ai Cập, Congo và rất nhiều địa danh khác .v.v.. Nhưng phần quan trọng nhất của cuốn sách là những trang review cuốn Sử ký của Herodotus, giúp ta gián tiếp đọc cuốn sách ắt là kỳ thú này. 

Cách làm của RK là nhẩn nha lật một trang Sử ký, chép lại cho chúng ta vài đoạn, và rồi đặt ra vô số câu hỏi, hệt như một cậu bé có óc tò mò vô hạn. Chẳng hạn như, RK thuật lại chuyện Herodotus kể về người Babylon chống lại người Ba Tư, để làm việc đó, người Babylon đồng ý với nhau là bóp ngạt các thành viên nữ trong gia đình, trừ mẹ và một người mà họ phải chọn, để tiết kiệm thực phẩm trong công cuộc chống người Ba Tư. Họ bàn bạc với nhau như thế nào? có ai bất đồng không? có ai phát điên không? làm thế nào họ chọn bóp ngạt vợ hay con gái, bà hay em gái? rồi họ xử lý xác như thế nào, những vài chục ngàn xác người cùng một lúc? bóp ngạt xong rồi, họ cảm thấy như thế nào? RK sẽ đặt ra những câu hỏi như thế, xuyên suốt cuốn sách. Du hành cùng Herodotus do đó là tập hợp của cả hàng trăm câu hỏi, những câu hỏi nối tiếp nhau không có câu trả lời?

Tôi nhặt được rất nhiều thứ trong lần đọc lại này. Có quá nhiều thứ hay ho, quá nhiều thứ gợi suy nghĩ. Tôi thậm chí nghĩ nếu các tổng thống Mỹ đã đọc cuốn này thì họ sẽ không làm tan hoang Iraq hay Syrie, bởi giá trị của một nhà độc tài mà cuốn sách có nhắc tới, trong khi trích dẫn Herodotus.

Sách in năm 2009, không biết ngoài tiệm có còn không. Nếu ai chưa có nên tìm mà đọc; nếu có mà chưa đọc thì đọc đi, không phải hối tiếc đâu.

Thứ Tư, 14 tháng 12, 2011

Có bạn

(Những chuyện kể dưới đây có thể hoàn toàn là hư cấu. Mà cũng có thể không.)

Tôi có một thằng bạn.  Tên nó là Lộc. (Đây là lần đầu tiên tôi tương tên người thật lên blog, vì không thể kể câu chuyện này mà không nhắc đến tên nó, mà viết tắt thì sợ tạo nhiều liên tưởng không tốt. Vả lại, đằng nào nó cũng không đọc blog này.)

Sáng, tôi rút điện thoại ra tính gọi nó. Cũng lâu tôi không gọi nó, chắc hai ba tuần gì rồi.  Trong danh bạ điện thoại có ba tên: Lộc, Lộc Chó, Lộc Con Lừa. Thằng này thỉnh thoảng lại đổi số, đó là lý do tại sao điện thoại tôi có đến ba số của nó. Tôi nhìn ba số, không nhớ ra nó đang xài số nào, đành lần lượt gọi cả ba. Một số không bắt máy, hai số ò í e. Chừng phút sau, điện thoại tôi bắt đầu hát, “One day you'll look to see I've gone. For tomorrow may rain”.  Người gọi là Lộc Chó. Tôi nhấc điện thoại, hoan hỉ, a, như vậy mày là chó, không phải là lừa. Nó nói, thằng chó.

Trưa, tôi đi ăn với nó. Hai thằng chửi nhau như chó.

***

Tôi có một thằng bạn, kém tôi vài tuổi. Tên nó là D., mà cũng có thể là K. D.K là Đếch Kare.

Đêm ở Hà Nội, nó chở tôi sang căn gác trọ của nó, quảng cáo Bảo Ninh từng ngồi đây viết Nỗi buồn chiến tranh. Căn gác nhìn xuống đường. Đường rộng và nhiều cây. Đêm, ít người qua lại.

Căn gác của nó có nhiều vỏ chai. Lúc tôi đến còn có một cô bé tôi gặp hai lần mà chả nhớ tên, và một cậu người Anh mới sang Việt Nam chín tháng nhưng đã nói tiếng Việt tương đối khá. Nó tắt đèn, bật nhạc. Chúng tôi ngồi bên khung cửa sổ, uống rượu và nhìn xuống đường. Con đường rộng, nhiều cây, ít người qua. Mùa đông luồn qua song cửa. Tôi nhìn cái giường đơn, nghĩ, không biết nó đã ngủ với bao nhiêu em ở đây?

Nó giơ ra hai cuốn sách, một to một nhỏ, nói, em tặng anh một cuốn, anh lấy cuốn nào. Tôi lấy cuốn to, tất nhiên. Nó ký tặng, bảo, anh chả bao giờ tặng em cuốn nào. Rồi nói, mai sáng em chở anh đi uống cà phê, hay anh muốn tối mai sau cái độ của anh đi nhậu tiếp? Tôi bảo, anh chả có nhu cầu gặp mày hai ngày liên tiếp.

Chúng tôi uống đến mười hai giờ đêm, tiếng Anh xen lẫn tiếng Việt. Dần về khuya, đường vắng hơn, trong phòng cũng lạnh hơn. Tôi nghĩ thầm, bỏ cha, sao mình thích mùa đông Hà Nội.

***

Tôi có một anh bạn, hơn tôi nhiều tuổi. Các bạn kém tôi chỉ vài tuổi gọi anh là bác. Tôi gọi anh là anh, liều quen miệng rồi. Anh có rất nhiều sách nhưng chưa cho tôi cuốn nào.

Lần đầu gặp anh ở Sài Gòn, anh bảo, mai mốt ra Hà Nội nhớ gọi anh.

Tối ở Hà Nội, tôi ngồi với anh và một số bạn khác ở một quán trên Nghi Tàm. Trời lạnh, uống tí rượu là ấm. Anh nói, sáng mai anh chở mày đi ăn phở Hà Nội.

Sáng, tôi dậy sớm, đánh răng, đọc tin nhắn của anh. Anh xin lỗi vì phải đi sớm nên không ăn sáng được. Tôi xuống nhà hàng của khách sạn, ăn sáng. Cái khách sạn này, lần trước tôi cũng ở đây, đã chẳng bảo với tôi rằng bữa sáng bao gồm trong giá phòng. Ăn xong, tôi về phòng, đánh răng, vào Facebook treo status, Răng đánh hai lần, thịt xương nát tan.

Trưa, có tin nhắn của anh trên Facebook. Anh bảo chiều qua anh ở Hải Phòng, về Hà Nội để gặp tôi, định sáng ăn sáng cùng tôi rồi mới quay lại Hải Phòng, nhưng có việc nên phải đi sớm hơn. Anh xin lỗi lần nữa. Tôi trả lời, không sao anh ơi, lần sau em ăn phở bù. Cả sách nữa nhé.

***

Khi có thể chửi nhau là chó, người ta là bạn.

Khi có thể nói năng phũ phàng với nhau, người ta là bạn.

Khi có thể bỏ công việc gặp nhau uống rượu một bữa, người ta là bạn.

Tôi có bạn.

Thứ Năm, 26 tháng 8, 2010

A tale of two cities

Anh đã rửa xe cho em chưa?


(Chuyện kể dưới đây hoàn toàn hư cấu. Nếu có trùng hợp chỉ là ngẫu nhiên.)

Vợ đi xa. Niêu tôm chưa kịp vọc thì điện thoại đã reo. Lẩm bẩm trong mồm, sao không đăng ký luôn cái dịch vụ xác định vị trí của Vinaphone cho tiện. Nhấc điện thoại, miệng cười tươi như hoa, cho dù đầu bên kia không thấy mình. Hóa ra vợ chỉ kể chuyện đi thang máy. Vợ bảo, thang máy từ tầng 3 đi xuống, mở ở tầng 1. Thấy đầy người, em đứng chờ mọi người ra rồi mình mới vào. Đang xớ rớ chưa thấy ai ra thì bên trong có người quát, vào thì vào, không vào thì thôi, đứng đấy làm gì. Vẫn không ai ra nên em vào, mặt đỏ lựng. Em bấm tầng 3, rồi ra ở tầng 3. Mọi người đi tiếp lên tầng 5. À, anh đi rửa xe cho em nhé.


Gác điện thoại, tôi đi rửa xe luôn kẻo quên. Ghé chỗ quen, thấy bốn năm người chờ mà chỉ có một thợ. Cậu thợ rửa xe nói giọng miền Trung cười nói, chiều chủ nhật, mấy đứa kia đi chơi hết rồi anh, anh chờ khoảng nửa tiếng. Ngại chờ, tôi đành chạy qua chỗ khác. Thấy một nhà có trưng bảng rửa xe bọt tuyết, tôi ghé vào. Một thanh niên mặc áo thun đen, quần kaki ngang gối, đang rửa một chiếc xe khác trước sân, khẽ gật đầu chào tôi, bảo anh để xe đấy cho em. Một cô gái, nước da bánh mật, tóc cột bằng một sợi dây thun, mặc một bộ đồ thun kiểu ở nhà - tôi đoán là vợ anh rửa xe - từ trong nhà đi ra mời tôi ngồi. Có một người đàn ông và một cậu bé khác - hẳn là hai bố con - cũng đang ngồi chờ. Thấy tôi, người đàn ông nhấc chiếc mũ bảo hiểm đang để trên ghế lên. Tôi kéo chiếc ghế đó ra ngồi cách một tí. Người đàn ông để tờ báo đang cầm trên tay xuống bàn, hơi chếch về phía tôi ngồi. Tôi cười, gật đầu, rồi rút cuốn sách cầm theo ra đọc. Được vài trang, tôi ngẩng lên, nhìn anh thợ rửa xe đang xịt nước. Bọt xà bông trôi xuống, dạt vào một góc sân. Anh đẩy xe ra phía trước, dựng ở đó. Cô gái cầm một mớ khăn khô ra lau. Còn anh đẩy xe của tôi vào bệ rửa.

Trời nhá nhem tối. Xe tôi đã được rửa xong. Tôi trả tiền, cảm ơn cô gái. Cô nói, cảm ơn anh. Tôi phóng xe về. Ngang ngã tư, thấy ô tô xếp một hàng dài, nhưng phía làn xe máy vẫn có thể đi thoải mái.


Vừa về tới nhà, điện thoại lại reo. Vợ bảo, em mới đi mua ô mai về để làm quà. Tôi bảo, anh không ăn ô mai. Vợ nói tiếp, em bảo cô bé bán hàng cho ô mai vào năm túi để tiện chia cho mọi người. Cô bé bán hàng bảo, yêu cầu gì mà yêu cầu lắm thế. Tôi bảo, kệ nó, chắc nó sẽ bị đuổi. Vợ bảo, em thấy bà chủ cửa hàng đứng ngay đấy, mà chẳng nói gì. À, anh đã rửa xe cho em chưa?



Thứ Ba, 22 tháng 6, 2010

Vừa đi đường, vừa kể chuyện (VII)




***

Tôi còn có thể viết gì nữa về Chicago, thành phố nằm bên bờ hồ Michigan lộng gió, lần này tôi đến mùa hè nên may không bị gió thổi rụng tai như lần trước khi mùa đông tuyết chưa tan hẳn làm nhoe nhoét những lối đi? Thành phố Chicago rộng bao nhiêu mét vuông? Có bao nhiêu dân? Có bao nhiêu công viên? Bao nhiêu thùng rác? Bao nhiêu người nghiện hút? Đội hockey ở đây tên gì? Nhà Obama ở đâu? Và Hemingway? Cả anh chàng Lee – thần tượng âm nhạc mới nữa? Tôi đã đến, đã đi rong dưới những tán cây, đã cắm đầu vào những tiệm sách cũ, đã nghe hụt jazz, đã xem đọc thơ và nói chuyện về thơ, đã thấy những ngôi nhà gạch đỏ trăm năm, đã mê những công viên chạy dài ven hồ, đã đi ngang những khu nhà người Mễ và da đen để biết Chicago không chỉ có nhà cao tầng và sự tráng lệ. Vẫn còn bao điều tôi chưa thấy và tôi chưa biết. Nhưng tôi biết, ở Chicago, tôi có những người bạn.

***

Bốn ngày ở Silicon Valley là bốn ngày đi tôi đi tu. Có câu: Thứ nhất là tu tại gia/ Thứ nhì tu chợ thứ ba tu chùa. Tôi tu theo kiểu trên cả hạng nhất (hạng đặc biệt?): tu tại khách sạn. Các buổi họp diễn ra từ sáng đến chiều ngay tại khách sạn, ăn trưa ăn tối cũng cùng một nơi. Những buổi ăn là cơ hội để networking – tức là giao lưu với đồng nghiệp các nước, nên ăn cũng là làm việc. Chỉ có hai lần được đi ăn bên ngoài: một lần BBQ toàn công ty bên một bờ hồ, và lần thứ hai, đêm cuối của hội nghị, sếp dẫn đi ăn một nhà hàng Ý nơi những người chạy bàn mặc sơ mi dài tay trắng toát đeo cà vạt đen, có anh lại còn đeo kính, trông giống giáo sư hơn bồi bàn – họ ăn nói cũng lưu loát và duyên dáng hơn khá nhiều giáo sư.

Bốn ngày liên tục ăn toàn đồ Tây - mặc dù thật ra không quá tệ và tôi cũng đã không phàn nàn nhiều như các đồng nghiệp Trung Quốc – khiến tô phở mà hai vợ chồng chị P mời tôi ở Portland ngon hơn rất nhiều. Hai vợ chồng chị ra sân bay Portland đón tôi, chở đi ăn phở, rồi chở thẳng ra thác Multnomah cho tôi leo núi và ngắm cảnh– không quên chuẩn bị sẵn cho tôi một đôi giày thể thao. Tôi phăm phăm leo thẳng lên đỉnh ngọn thác cao thứ hai nước Mỹ và là điểm thu hút du khách số một của bang Oregon để thỏa những ngày cùn chân trong khách sạn và ra sức hít thở không khí mát dịu trong lành của vùng núi bù lại mấy hôm toàn hít mùi máy lạnh.




Thác Mulnomah nhìn từ dưới

Oregon là xứ mưa. Chị P nói mùa thu mưa có thể rỉ rả cả tháng. Nếu Nguyễn Bính đến đây hẳn ông sẽ viết: Giời mưa Portland sao buồn thế/ Cứ kéo dài ra đến mấy tuần. Mấy ngày trước trời vẫn rất âm u. May cho tôi, hôm đến, nắng hửng, trời trong, gió nhẹ, những bông cỏ la đà trong không trung, thời tiết lý tưởng cho một ngày leo núi.



Rất nhiều người leo núi ngày hôm ấy. Trên đường lên đỉnh, tôi thấy nhiều gia đình cùng đi. Em nào bé quá thì được bố cõng trên vai. Nhiều bé tầm ba bốn tuổi cũng hăng hái leo. Tôi nghe một cậu bé đang hổn hển mặc cả với bố: Con muốn quay lại. Ông bố bảo: Nào, con có muốn nhìn thấy đỉnh thác không? Gắng lên. Thế rồi cả nhà lại tiếp bước. Cũng có những ông bà cụ ngoài tám mươi, da nhăn nheo, tóc bạc trắng nhưng bước chân hãy còn khá vững. Chị P bảo dân Mỹ rất thích những họat động ngoài trời. Nước thác Multnomah trong veo và lạnh cóng, tôi thò tay vào thấy chẳng khác nước để tủ lạnh, ấy là do tuyết trên đỉnh núi tan ra và chảy xuống.


***

Rời thác Multnomah, chúng tôi đi thẳng đến đập thủy điện Bonneville, để xem cá hồi ngược dòng Columbia, nhảy lên những bậc thang (fish ladder)để vào trong hồ. Bất giác tôi nhớ chuyện cá chép vượt vũ môn.

Tôi chép lại đây một chút về vòng đời của cá hồi (thật ra còn một số cá khác cùng họ, nhưng tôi không phải chuyên gia về cá, và để đỡ phức tạp tôi gọi chung là cá hồi), vì tôi nghĩ cũng như tôi phần đông mọi người ở Việt Nam chỉ nhìn thấy cá hồi khi đã lên đĩa chứ ít biết về cuộc đời đầy mạo hiểm và thú vị của loài cá này:

Cá hồi thuộc họ cá anadromous. Anadromous là một từ gốc Hy Lạp có nghĩa “ngược dòng sông”, ám chỉ hành trình từ sông ra biển và từ biển về lại sông của cá hồi. Khi cá hồi con nở ra và lớn lên, chúng hoàn toàn không còn cha mẹ để “dạy dỗ” chúng. Tuy nhiên, theo bản năng, chúng sẽ xuôi dòng bơi ra biển. Cá hồi xuất phát từ sông Columbia bơi về hướng Bắc lên tận Alaska hoặc biển Bering. Chúng chỉ bơi trong đêm và gần bờ để tránh bị các loài cá khác ăn thịt. (Bây giờ tôi mới hiểu tại sao Raymond Carver có một tập thơ tên At Night the Salmon Moves – Cá Hồi Bơi Trong Đêm). Sau hai đến bốn năm sống ở đại dương, cá hồi trưởng thành tìm đường về nguồn cội. Người ta cho rằng sở dĩ chúng có thể tìm về được nơi chúng nở ra là nhờ vào mùi nước: chúng ghi nhớ mùi nước trên đường ra biển và lần theo mùi để trở về.

Khi trở về, cá hồi trưởng thành bơi ngược dòng chảy. Nếu gặp trở ngại, chúng sẽ rất kiên tâm vượt qua, thà chết chứ không từ bỏ nỗ lực. Cũng trong hành trình này, chúng bắt đầu nhịn ăn, và sử dụng năng lượng tích lũy để sản sinh ra trứng và tinh trùng. Những con đực bắt đầu đổi màu để thu hút cá cái.

Vì bơi ngược dòng, nên cá hồi sử dụng quá nhiều năng lượng đến nỗi thịt da chúng bắt đầu tan rã, và cá cái sẽ chết đi sau khi đẻ trứng tại nơi chúng từng nở ra. Tài liệu không nói rõ nhưng tôi đoán cá đực cũng chết sau khi thụ tinh cho trứng. Cá hồi con mồ côi từ khi sinh, lại tìm đường ra biển và tái lập hành trình của cha mẹ chúng.


Đập thủy điện Bonneville

Khi xây đập thủy điện trên dòng Columbia, chính phủ Mỹ đã đầu tư hơn một tỷ đô phối hợp cùng các nhà khoa học và cư dân ven sông nghiên cứu tập quán của cá hồi. Nhờ đó, họ tạo ra những bậc thang (fish ladder) mô phỏng tự nhiên cho cá hồi vượt thang vào trong hồ , nếu không, cá hồi sẽ bỏ hàng tuần để cố gắng vượt qua đập, cố gắng đến chết mới thôi. Cá cái vào trong hồ rồi sẽ được bắt lên, mổ ruột, lấy trứng thụ tinh với tinh trùng cá đực. Người ta sẽ ươm trứng cho đến khi chúng nở rồi thả cá con về với tự nhiên.

Đây là đọan video ngắn tôi quay cảnh xem cá hồi vượt fish ladder.






***

Thứ Bảy, 19 tháng 6, 2010

Vừa đi đường, vừa kể chuyện (VI)

***
Buổi tối cuối cùng ở Chicago, nhà văn không biết uống cà phê và nhà thơ biết uống cà phê đồng lòng dẫn tôi đến một quán có tên Green Mill, âm mưu nghe jazz, nhưng như sẽ kể sau, đó sẽ là một âm mưu bất thành. Sau khi kiểm tra giấy tờ tùy thân chứng minh chúng tôi đều trên 18 tuổi, anh gác cửa cho chúng tôi vào. Nhà thơ và tôi gọi bia, còn nhà văn nằn nì một cốc sữa tươi mà không được bèn uống nước cam.

Quán này, nghe đâu dưới thời cấm bán rượu, là nơi bán rượu lậu và hang ổ gangster. Người ta còn bảo cột kèo bàn ghế trong đây hãy còn vết đạn bắn. Tuy nhiên, quán đông người, đèn thì nhập nhoạng nên tôi không có điều kiện kiểm tra thực chứng lời đồn đại này.

Jazz chỉ được chơi từ 11 giờ đêm trở đi. (Điều này chứng tỏ không có quy định yêu cầu các quán bar phải đóng cửa lúc 12 giờ, vì không ai chơi jazz một tiếng rồi đuổi khách về cả.) Chúng tôi đến sớm, tầm 8 giờ tối. Đêm nay, trước phần chơi nhạc sẽ là phần biểu diễn của một nhóm nhảy thiết hài, sau đó, tiết mục đọc thơ của một nhà thơ trẻ và một cuộc thi đọc thơ trong số khách ở quán.

Xưa nay, tôi chỉ được xem thiết hài trên tivi. Đây là lần đầu tôi xem trực tiếp. Cảm giác rất khác, rất đã, cứ như đi mưa mà không phải mặc áo mưa vậy. Đứng cách các nghệ sĩ chỉ vài bước chân, tôi có thể nhìn thấy từng nét mặt của họ, từng uốn éo hình thể, từng cú nhắm mắt, từng giọt mồ hôi rịn ra. Họ chỉ biểu diễn hai bài. Bài đầu, bốn nghệ sĩ mỗi người trình diễn một kỹ thuật khác nhau, người nhảy trên đầu ngón chân, người tung người lên không. Âm thanh phát ra từ gầm giày họ lúc rào rạt, lúc khoan thai, lúc trong như tiếng hạc bay qua, lúc đục như tiếng suối mới sa nửa vời. Bài thứ hai, sáu nữ nghệ sĩ nhảy trên nền nhạc Queen – vâng, Queen, ban nhạc yêu thích nhất của tôi mới chết chứ - bài Somebody to love. Trong khúc dạo đầu, điệu nhảy họ dịu dàng mơn trớn. Rồi nhạc nhanh dần lên, tiếng chân cũng thúc giục nôn nao, người xem bắt đầu lắc lư trong ngất ngây; một vài khoảng lặng lim dim rã rời, rồi lại bùng lên hối hả đẩy người xem lên đỉnh thống khoái. Và khi cả nhạc và âm thanh thiết hài đột ngột ngừng lại, tất cả người xem đều chính thức ngã lăn ra, bất tỉnh.

Tôi định viết thêm rằng xe cứu hỏa hụ còi từng đợt, cảnh sát rầm rập chạy vào khênh những người bất tỉnh ra xe, nhưng nghĩ bịa thế cũng đủ rồi. Dĩ nhiên, không ai bất tỉnh, không ai ngã lăn ra, nhưng khi viết những dòng này, trong đầu tôi vẫn còn âm vang tiếng thiết hài rạo rực hôm ấy.

Sau thiết hài là đọc thơ. Một nhà thơ Mỹ trẻ tuổi, quần jean áo sơ mi bỏ ngoài, một tay cầm chai bia, một tay cầm xấp giấy lên sân khấu. Anh gác chai bia xuống, gãi đầu gãi tai, rồi tự giới thiệu và đọc thơ. Anh đọc một số bài mới làm và một số bài trong tập thơ đã in của anh, có bài thuộc lòng, có bài nhìn giấy; khoảng giữa các bài, anh làm một ngụm bia và gãi đầu. Có một bài tên là Skin (Da), có những câu tôi nhớ lõm bõm thế này: Da/ bao bọc cơ thể ta/ Da/ trải ra ta sẽ có một tấm bản đồ/ Da/ mẹ ta cho ta/ nhưng khi ta lớn lên tế bào chết đi và sinh mới nên nó trỏ thành của riêng ta/ Da/ khi làm tình ta không nhớ là có nó. Một bài khác, dài, và khá ấn tượng anh bày tỏ sự bực tức khi các cô gái nói “Em yêu anh” dễ dàng như nói Hello hay How are you. Một bài có tên là The sex that could have been, và một bài khác, nói về sex giữa cây cối. Tôi có tập thơ của anh (cảm ơn nhà tài trợ!) nên để hôm nào tôi thử dịch một hai bài cho các bạn tham khảo.

Sau phần đọc thơ của nhà thơ này là phần đọc thơ của các khách ở quán. Có sáu người tham gia cuộc thi. Vòng một, mỗi người đọc một bài thơ của mình, được một ban giám khảo chấm điểm trực tiếp như cách ở ta chấm điểm Tiếng hát truyền hình, điểm được ghi vào khăn ăn và giơ lên, hai người điểm cao nhất vào vòng hai. Vòng hai, mỗi người đọc một bài nữa, và phần thưởng cho người chiến thắng là 10 đô. Những người lên đọc thơ đều tự tin, thoải mái, vung tay múa chân, gào thét thật là diễn cảm. Một số bài tôi hiểu, một số bài không. Bài đọat giải nhất thì tôi chả hiểu gì. Dù sao, với tôi, đó là một kinh nghiệm thú vị.
***

Thứ Ba, 15 tháng 6, 2010

Vừa đi đường, vừa kể chuyện (III)

***

Nhiều lúc tôi nghĩ, số phận của thơ thật hẩm hiu, nhất là khi so với văn xuôi. Khi đọc một tản văn, một truyện ngắn, hay một tiểu thuyết, người ta có thể nói văn hay văn dở, nhưng tuyệt nhiên không ai bảo đấy không phải là văn, mà là thơ! Ngược lại, khi đọc một bài thơ, thậm chí chưa đọc xong một bài thơ, bất kỳ ai cũng có thể hùng hồn tuyên bố đấy không phải là thơ, mà là văn xuôi. Thấy chưa, người ta còn không buồn gọi đấy là thơ dở. Người ta từ chối gọi sản phẩm của nhà thơ là thơ, mặc dù khi bị hỏi ngược lại thế nào mới là thơ, thường sẽ không có câu trả lời rành mạch.

Thơ phải có vần ư? Một vạn lần không phải thế, mặc dù thơ từng có vần và không ai cấm các nhà thơ tiếp tục làm thơ có vần. Nhưng nếu chỉ vần mà thành thơ thì đây hẳn là tuyệt cú: “Trên đường Nguyễn Thị Minh Khai/ Thế nào cũng có một vài ô tô.”

Có người nhao nhao: Thơ phải có hình ảnh, phải có nhạc điệu. Nhưng than ôi, có thể dẫn ra vô vàn ví dụ tản văn, truyện ngắn hay tiểu thuyết đầy ắp hình ảnh và nhạc điệu mà chẳng ai nhầm với thơ cả.

Thế thì thơ phải hàm súc! Nghe có vẻ thuyết phục, nhưng rất khó coi những bài thơ của nhà thơ rất được nhiều người, đặc biệt thanh niên miền Bắc, yêu mến - Lưu Quang Vũ - là những bài thơ hàm súc. Ngược lại, Lưu Quang Vũ luôn nhiều lời, quá nhiều lời là đằng khác. Khi làm thơ, Lưu Quang Vũ nói nhiều như một… nhà viết kịch! Đấy là chúng ta còn chưa nói đến thơ văn xuôi hay tân hình thức.

Vậy thì thế nào là thơ? Sao phải nhọc công đi tìm định nghĩa mà không chịu tin nhà thơ lấy một lần: Thơ là cái nó là khi nhà thơ gọi nó là thơ. Tước mất quyền của nhà thơ gọi tác phẩm của họ là thơ, chẳng khác gì tước quyền đặt tên con của những ông bố bà mẹ. Tương tự như những đứa trẻ, bài thơ ra đời khi nhà thơ đẻ ra nó. Giây phút nào nhà thơ hoàn tất bài thơ chúng ta có thơ. Nhà thơ phải có toàn quyền đối với tác phẩm của mình mà quyền lớn nhất và cần được tôn trọng nhất là quyền khai sinh.

***

Tôi trao đổi một phần những suy nghĩ trên với một nhà thơ. Nhà thơ này biết uống cà phê (và nhiều thứ khác). Bằng vào số vết trầy trên đuôi xe, có thể đoán nhà thơ có khá nhiều người hâm mộ.

****

Nhà thơ dẫn tôi vào một quán cà phê trước cổng có treo hình con heo toòng teng. Nói ngắn gọn, đấy là quán cà phê con heo. Nói đầy đủ, quán cà phê có tên Con Heo Tiểu Tư Sản (Bourgeoisie Pig). Thực đơn ở đây chỉ có sandwich và salad, ừm, thật ra còn có cả soup. Tuy nhiên, các loại sandwich được gắn những cái tên hết sức mỹ miều sặc mùi tiểu tư sản, chẳng hạn Mặt Trời Vẫn Mọc, Gatsby Vĩ Đại hay Bắt Trẻ Đồng Xanh. Vừa được nhà văn không biết uống cà phê tuyên truyền cách đó không lâu The Sun Also Rises là cuốn hay nhất của Hemingway, nên tôi gọi ngay một cái sandwich Mặt Trời Vẫn Mọc, vừa gặm vừa loay hoay xem mặt trời mọc hướng nào. Nhà thơ gọi một món không tiểu tư sản lắm là salad Ceasar. Ceasar, Ceasar, salad toàn thịt gà, vừa khô vừa cứng. Bữa trưa lúc 4 giờ chiều làm dịu cơn đói của giai cấp tiểu tư sản, sau một ngày vất vã đi lùng sách cũ.

Có một tiệm sách cũ tên là Open Books. Tiệm này nằm ở một vùng nào đó của Chicago. Xuất phát từ đại lộ Michigan chúng tôi cuốc bộ về hướng Nam độ hai chục block nhà thì rẽ sang hướng Tây cuốc chừng mười block rồi đi mười hai block về hướng Bắc rồi thêm chin block rưỡi về hướng Đông thì tới. Đại khái với sự trợ giúp của mobile internet và sau khi hỏi đường chừng hai chục người chúng tôi tới đích.

Open Books là tiệm sách cũ phi lợi nhuận. Nguồn sách ở đây hoàn toàn do mọi người hiến tặng. Nhân viên làm việc không lương. Toàn bộ lợi nhuận của tiệm sách được dành vào việc gây quỹ cho trẻ em nghèo (chú ý: mục đích thiện nguyện có thể khác, nhưng khi bước chân vào tiệm sách tôi chỉ nhìn sách chứ không để ý những thông tin khác nên những gì tôi viết ở đây có thể hoàn toàn sai.)

Cũng như mọi tiệm sách cũ và mới khác ở Chicago, sách ở đây được sắp xếp theo từng thể loại, và trong từng thể loại, theo thứ tự tên tác giả. Riêng phần tiểu thuyết chiếm năm dãy kệ, có mặt hầu hết các tác giả tên tuổi từ Auster, Bolano, Calvino ở đầu bảng chữ cái đến Roth, Updike, Vonnegut phần cuối bảng. Giá trung bình một cuốn khoảng 5-6 đô. Nếu may mắn, bạn có thể tìm thấy những cuốn rất ra trò, dày, bìa cứng, và khá mới trong đống sách đổ lộn xộn trong hai thùng các-tông to với giá chỉ một đô một cuốn. Rabbit at rest của John Updike nằm trong số này.

Hôm trước đó, tôi còn có dịp (hai dịp) vào lục lọi tiệm sách cũ Powell’s ngay gần khuôn viên trường đại học Chicago. Nói là sách cũ – thường do sinh viên trường bán lại – nhưng nhiều cuốn còn gần như mới nguyên. Có cả những cuốn tinh tươm hẳn là sách tồn kho của các nhà xuất bản bán với giá chỉ một phần tư giá gốc, điển hình là tập Other Colors của Orhan Pamuk, bìa cứng, mới cứng, giá 6.95 đô, trong khi giá gốc là 28 đô. Diện tích của tiệm Powell’s không quá lớn, nhưng sách chất trùng trùng điệp điệp, từ sàn đến trần nhà. Theo ước lượng của tôi, chỉ riêng phần sách lịch sử Trung Quốc đã chừng trăm cuốn, tổng số đầu sách lịch sử các nước trừ Mỹ khoảng ba, bốn nghìn. Tôi áng chừng gom tất cả đầu sách của tất cả các nhà sách của Fahasa và Phương Nam ở Sài Gòn lại cũng không bằng số đầu sách của tiệm sách cũ Powell’s này, chưa nói tới sự phong phú về thể loại.

Với ba lần ghé thăm hai tiệm sách cũ, tôi đã có dịp gần như hoàn thiện bộ sưu tập Paul Auster của mình, bổ sung kha khá vào hai bộ Hemingway và Roth, và hẳn là đang bắt đầu hai bộ Coetzee và Pamuk. Ngoài ra, tôi còn tóm được những cuốn tôi đang tìm kiếm lâu nay như Franny and Zooey của Salinger hay Ho Chi Minh – The Missing Years của Sophie Quinn-Judge. Nhà thơ biết uống cà phê còn nhiệt tình giới thiệu, tặng và chuyển giao cho tôi khá nhiều cuốn của các tác giả các nước nhỏ như Pakistan, Hong Kong, Nigeria, Haiti, kèm theo lời trách cứ Giò Trắng sao trên blog chỉ giới thiệu các nhà văn nước lớn.

Trong mọi tình yêu luôn có mầm mống khổ đau, không loại trừ tình yêu sách. Hành lý từ Việt Nam sang của tôi chỉ có 15kg. Khi bay từ Chicago sang San Jose, vali của tôi cân nặng 70 pounds (khoảng 32kg). Southwest cho phép hành khách gửi hai kiện hành lý, mỗi kiện 50 pounds (23kg). Tôi chỉ có một vali, nhưng Southwest không cho tôi nhét cả vào một vali, mà phải lấy bớt sách ra, cho đến khi vali nặng đúng 50 pounds mới thôi. Số sách dôi ra tôi phải xách tay. Thế là với đôi vai gầy guộc nhỏ và đôi cánh tay khẳng khiu, tôi mòn mõi lê bước từ quầy check in qua cổng kiểm tra an ninh đến cổng ra máy bay dưới sức nặng của…sách.

Chủ Nhật, 13 tháng 6, 2010

Vừa đi đường, vừa kể chuyện (II)

***
Philip Roth là một trong những nhà văn đương đại hàng đầu Mỹ. Ông từng đọat giải Pulitzer với cuốn American Pastoral, nhiều giải thưởng văn học khác của Mỹ, và hình như ngấp nghé Nobel. Everyman là tiểu thuyết tương đối mới của ông, viết 2006.

Tôi có cảm giác đây không phải là cuốn xuất sắc của ông, mặc dầu vậy, vẫn nhận thấy cách viết của ông đáng nể. Ông thường viết những câu ngắn, cô đọng, chính xác. Trong một lần trả lời phỏng vấn, ông nói hình như ông đánh mất tinh thần hài hước. Hẳn đó chỉ là một cách nói, vì trong cuốn này, tuy hài hước không phải tinh thần chính, nhưng vẫn thấy đây đó Philip Roth đang nhếch mép.

Everyman mở đầu bằng đám tang của một người mà ta sẽ nhanh chóng nhận ra đó là nhân vật chính – một người đàn ông thành đạt trong nghề quảng cáo, có ba đời vợ, có hai con trai ghét ông như đào đất đổ đi - ghét đến nỗi khi ném nắm đất xuống huyệt mộ ông và chúc ông yên nghỉ cũng không thể hiện chút tình cảm nào trong giọng nói, một đứa con gái yêu ông và ông yêu hơn mọi thứ trên đời, và một số người tình. Everyman kết thúc bằng đoạn đối thoại giữa ông này và người đào huyệt trong nghĩa trang - người từng đào huyệt cho cha mẹ ông, và có thể sắp đào huyệt cho chính ông – và là một con người làm việc cần mẫn, chính xác, luôn đào những huyệt mộ “sâu sáu foot và đáy thật phẳng đến nỗi người ta có thể kê giường lên” một cách chuyên nghiệp và đầy tinh thần trách nhiệm, hệt như cách Roth viết một câu văn vậy.

Tôi đọc hết cuốn này khi bay từ Sài Gòn sang Tokyo. Hết truyện, tôi chợt nhận ra hình như Roth không đặt cho nhân vật chính của mình một cái tên, trong khi tất cả nhân vật phụ bao gồm ba bà vợ, hai anh con trai, một cô con gái, một ông anh ruột và một cô y tá kiêm tình nhân, tất cả đều có tên. Tôi chưa nhớ ra một cuốn tiểu thuyết nào khác trong đó nhân vật chính không có tên. Có lẽ đó là lý do tại sao Roth gọi tiểu thuyết này là: Everyman. Người đàn ông này có thể là bất kỳ người đàn ông nào khác: ích kỷ, nhiều đam mê, lắm lỗi lầm nhưng cũng thật sự chân thành. 

Văn của Roth chân phương, giản dị. Câu chuyện không nhiều tình tiết, không màu mè. It doesn’t really have a plot, although there is a plot against America! Tôi nghĩ tôi sẽ có thể tiếp tục đọc Roth.

***
Không có gì nhiều để nói về sân bay Narita, Tokyo, nơi tôi trải qua ba tiếng đồng hồ quá cảnh, một tiếng rưỡi trong đó dành cho việc làm các thể loại thủ tục giấy tờ và an ninh buồn chán.

Không nhộn nhịp như khu vực quá cảnh của sân bay Singapore hay Hong Kong, hoặc cũng có thể vì người ta đẩy tôi đến chỉ một góc nhỏ, phần của sân bay Narita tôi nhìn thấy khá lặng lẽ. Phải nỗ lực khá nhiều tôi mới tìm được một quầy nho nhỏ bán đồ lưu niệm, nước giải khát và thức ăn nhẹ. Tôi gọi một món ăn có hình chụp giống một tô mì gói, tên là miso ramen. Hóa ra đó là một tô bao gồm mì, măng, bắp hạt, một loại rau không rõ tên có vị là lạ, và một loại thịt không xác định. Hy vọng không phải thịt người. Không có bàn để ngồi ăn, chỉ có một quầy dài đủ cho bốn người gác khay đồ ăn lên và đứng đối diện nhau ăn cùng một lúc. Món mì ăn tạm được, hơi dư muối, chắc vì cả nước Nhật bao quanh bởi đại dương. Ngoài tôi mì này, tôi còn mua một cái bánh ngọt nhỏ. Có khá nhiều loại bánh ngọt ở đây và phải rất kiềm chế mới không mua hơn một cái. Các loại bánh của Nhật, ngon hay không chưa biết, nhưng đều được đóng trong bao bì xinh xắn, trông hết sức ngon mắt.

***
Từ Tokyo sang Chicago, tôi bay American Airlines. Cũng là hàng không Mỹ, nhưng American Airlines tốt hơn nhiều so với United Airlines, tuy nhiên tuổi tác và nhan sắc các tiếp viên hai hãng này thì tương đương: đại khái không dùng để ngắm, trừ khi bạn nhớ mẹ. United Airlines là cơn ác mộng cho những chuyến bay đường dài: ghế ngồi bé tẹo, không có chương trình giải trí cá nhân, và thức ăn thì ôi thôi tệ. Làm sao họ có thể nghĩ ra được việc cho hành khách trên chuyến bay xuyên đại dương ăn tối bằng một cái bánh quy và một ly mì bé bằng một phần ba ly mì ta vẫn thường thấy trên kệ các siêu thị? Bữa tối của American Airlines thịnh soạn hơn nhiều. Thường khi bay đường dài, tôi vẫn cố chén sạch những gì người ta dọn ra, phòng khi bao tử cồn cào bất chợt. Vậy mà, lần này, tôi chừa lại những nửa cái bánh mì tròn cộng với 1/3 miếng phô-mai hiệu Kiri! Riêng về món cà phê thì tôi vẫn nghĩ đã đến lúc cần truy tố các hãng hàng không – không chừa hãng nào – về tội dám gọi cái món nước nhờ nhờ nhạt nhẽo mà họ vẫn thường cho khách uống trên máy bay bằng hai từ cao quý: cà phê.

Nhân nói đến cà phê, tôi biết có một nhà văn nọ không uống cà phê. Thậm chí, nhà văn nọ không uống cả trà, không uống bia, không uống rượu, đến cả heroin cũng không dùng. Thế làm quái nào viết văn được, tôi bảo. Thay vì trả lời, nhà văn đi…đánh răng!

***
So với việc làm thủ tục nhập cảnh ở sân bay Los Angeles hay San Francisco, nơi luôn có những dòng người xếp hàng dài ngoằn ngoèo tưởng chừng bất tận, thì làm thủ tục nhập cảnh tại sân bay O’Hare là một niềm vui – tất nhiên chỉ trong trường hợp mỗi ngày bạn cần chọn một và chỉ một niềm vui. Chỉ mất ba mươi phút, tôi đã xong thủ tục nhập cảnh, hải quan và lấy được hành lý. Nhưng mất một tiếng, tôi mới được đón. Mất hai tiếng nữa, tôi mới về được nhà của một bác (bác này tuy cho ở nhờ nhưng keo kiệt không cung cấp internet!:)). Trốn Sài Gòn sang tận Chicago mà vẫn không tránh khỏi kiếp kẹt xe. Điểm khác biệt so với kẹt xe ở Sài Gòn là ở đây xe nào vẫn giữ làn xe đấy, nên đường vốn có ba làn xe, khi kẹt xe vẫn chỉ có ba làn, không thành năm hay sáu làn hỗn hợp như ở Sài Gòn.

Chicago mùa hè, cây lá xanh mướt, không khí trong lành. Nhìn những công viên trải dài trong nắng, người ta chỉ muốn xỏ giày và ra đường chạy bộ. Rải rác đây đó là những khu trò chơi trẻ con với cầu tuột, xích đu, vòng thang xoáy leo trèo đầy ắp tiếng cười con trẻ. Nhớ hai bạn Alpha và Pi ở nhà. Đi chỉ mới ngày, mẹ hai bạn đã nhắn tin bảo con gái nói: “Con đã bắt đầu nhớ ba rồi đấy!”

Thứ Bảy, 12 tháng 6, 2010

Vừa đi đường, vừa kể chuyện (I)

5.23 sáng 10/6/2010

Tom Hanks là diễn viên yêu thích của vợ tôi. Hình như tất cả phụ nữ Việt Nam chân chính và có xem phim Mỹ đều thích Tom Hanks. Họ nói anh ấy tuy không đẹp trai lắm, nhưng đóng hay và đặc biệt, không lăng nhăng. Hậu quả của việc vợ tôi, một trong số những phụ nữ Việt Nam chân chính, yêu thích Tom Hanks là thỉnh thoảng tôi xem phim có anh. Vì đang ngồi ở sân bay nên tôi nhớ đến phim The Terminal.

Trong The Terminal, Tom Hanks đóng vai một hành khách có quốc tịch một quốc gia X. Khi Tom Hanks vừa đến Mỹ, thì ở quê nhà của anh xảy ra đảo chính, chính phủ cũ bị lật đổ, chính phủ mới lên thay. Chính phủ này không được sự công nhận của quốc tế (i.e. Mỹ), nên hộ chiếu anh cầm không được công nhận. Thế là anh không được vào Mỹ, mà cũng không ra được Mỹ. Ngày này qua ngày khác anh sống tại sân bay, ăn uống, yêu đương, làm việc kiếm tiền ở đấy. Kết thúc phim thế nào tôi không nhớ. Đối với một trí nhớ suy tàn như trí nhớ của tôi nhớ đến đây đã khá lắm rồi. Đại khái anh ta sống ở sân bay khá lâu, lâu lắm, không chết, đến cuối phim vẫn không chết.

Nhưng tôi cá rằng nếu anh ta mắc kẹt ở một sân bay giống cái sân bay mà tôi đang ngồi chờ giờ khởi hành, chắc anh ta sẽ không tồn tại được ba ngày, không, ý tôi nói ba giờ. Anh ta sẽ chán đến chết, chết trước khi thưởng thức những rắc rối và sinh động của một cuộc đời không tổ quốc.

***

Tôi đến sân bay sớm. Hiển nhiên là vì tôi phải bay sớm. 3 giờ sáng, tôi đã phải dậy, sau chỉ 3 tiếng ngủ, vì tối hôm trước phải sửa soạn hành lý và soạn nốt cái hợp đồng dang dở. Phải gửi hợp đồng cho khách trước khi đi, nếu không sếp có thể gõ đầu tôi. Hôn từ biệt hai con chó con đang ngủ say và người phụ nữ Việt Nam chân chính yêu thích Tom Hanks, tôi kéo vali xuống nhà gọi taxi. Đường vắng, chốc lát tôi đã đến sân bay.

Làm thủ tục xong, vẫn còn gần tiếng mới tới giờ bay. Tôi leo lên tầng lầu, định vào một trong những quán cà phê trên đó để uống một chút gì và vào internet. Thế nhưng, tất cả quán hãy còn đóng cửa im ỉm. Lúc đó khoảng 4 giờ rưỡi sáng.

Gần cổng lên máy bay, tôi tìm thấy một quán mở cửa. Lúc tôi phát hiện ra quán, chị bán hàng – khoảng ngoài năm mươi tuổi, mặc đồng phục SASCO – đang đôi co với hai cô khách nước ngoài. Hai cô khách kia có vẻ muốn mua mấy chai nước suối, đang xòe ra mấy tờ tiền Việt Nam. Tôi nghe lóm nội dung là bọn tao còn ngần này tiền Việt Nam. Chị bạn hàng thì cứ lắp đi lặp lại nhõn “one more, one more” – ý là chưa đủ tiền. Hai cô khách bỏ đi. Chị bán hàng cất lại 4 chai nước suối vào tủ.

Tôi gọi một tách cà phê sữa nóng, chị bảo 3 đô. Tôi đưa chị 60.000 đồng, chị cất tất vào ngăn kéo và đưa tôi tách cà phê. Và chỉ thế. Cứ như cà phê vỉa hè, dù giá gấp 10. Không biết làm thế nào để SASCO biết được chị đã bán cho tôi một tách cà phê và đã thu 60.000 đồng

Không có tín hiệu wifi chùa, tôi giở sách ra đọc. Everyman của Philip Roth. Đây là cuốn đầu tiên của Roth tôi đọc. Nhưng, thật khó tập trung khi thỉnh thoảng thông báo của sân bay lại vang lên, ong óng vào tai. Dù sao cũng nghe được một thông tin mới là không được mang cà phê trong hành lý xách tay vì lý do an ninh. Chắc người ta sợ bom làm bằng bột cà phê. Cũng may, nếu cái vali cỡ nhỏ của tôi không bị chuột gặm thì tôi đã dùng nó cho hành lý xách tay và sẽ nhét cà phê trong đó. Chẳng những bị chuột gặm, nó còn gãy càng, thế là tôi chỉ mang một cái ba lô nho nhỏ theo người, còn cà phê và sách cho những người ở bển tôi cho vào hành lý kỷ gửi cả.

Không internet, đọc sách không xong, không muốn dùng iPod, tôi gõ những dòng này giết thời giờ.

Thứ Năm, 3 tháng 6, 2010

Mưa đầu mùa


Tôi vác ba lô ra khỏi văn phòng khi chiều đã muộn. Vừa đi vừa cắm mặt xuống đất nên khỏi cửa tôi mới nhận thấy: trời đang mưa. Đã từ lâu rồi, rất nhiều ngày rồi, tôi mới lại gặp mưa khi đi làm về. Mưa, thường tôi không khoái lắm, tôi vốn không ưa những thứ ướt át, từ vật cho đến người. Chẳng hạn, tuy mê văn, nhưng tôi chúa ghét người học văn, đặc biệt con gái học văn – những người mà tôi hay gọi đùa là lãng mạn nửa mùa, sến một mùa, lơ mơ lãng đãng như những người chết trôi [không] đẹp nhất trần gian. Dĩ nhiên, cũng có ngoại lệ:). À, mà thôi, tôi đang nói về mưa.

Người xưa có câu gì mà như nắng hạn gặp mưa rào thật đúng. Hai ba tháng qua trời nắng rát mặt nóng chảy mỡ, nay có mưa, dịu mát, thật là khoái.

Ngờ đâu, vui chẳng tày gang. Chưa kịp tận hưởng cảm giác mát mẻ cơn mưa mang lại, tôi đã sa vào một đám kẹt xe ê chề. Xe tải, xe con, nối đuôi nhau dằng dặc, tràn hết các làn đường, đầu chiếc này cách đít chiếc kia vài xăng-ti-mét. Tôi rút điện thoại ra nhắn tin cho người thân, nhắn đã rồi vào internet, chán chê mà xe chẳng nhúc nhích được mấy. Cái quãng đường hơn chục cây số trên con đường được gọi là xa lộ huyết mạch đấy, rốt cuộc lấy mất của tôi hơn hai tiếng đồng hồ.

Kẹt xe tệ hại như hôm nay là ngoại lệ. Khi không ngoại lệ thì kẹt đỡ tệ hại hơn tí. Nghĩa là thay vì hai tiếng cho 10 cây số, thì “chỉ” một tiếng hay bốn mươi lăm phút thôi. Các ngã tư, ngã ba trên con đường này, xe lưu thông nhiều, lại không có cầu vượt hay hầm chui, nên chỉ cần một sự cố nho nhỏ là ùn tắc, kẹt cứng. Mà sự cố ngày nào cũng xảy ra, không ngoại lệ mới chết chứ.

Ngồi trên xe, chân mỏi nhừ vì đạp thắng, mông ê ẩm vì ngồi một chỗ quá lâu, và bụng đói meo (may còn chưa đau bụng hay mắc tè), chẳng còn trò gì khác để tiêu khiển ngoài việc … chửi thề. Những lúc bực mình vớ va vớ vẩn tôi hay chửi thề bằng tiếng Anh, có khi bằng tiếng Lào hay tiếng Ý (nhưng tuyệt nhiên không xài tiếng Đan Mạch), còn những lúc bi đát như thế này, tôi chửi bằng tiếng Việt hẳn hòi, cho có tinh thần yêu nước. Phải yêu nước lắm mới chửi thề bằng tiếng mẹ đẻ được, Kundera bảo thế:).

Trong cơn yêu nước, tôi chợt nhớ ra dự toán cho dự án đường sắt cao tốc Bắc Nam lên đến hơn 50 tỷ đô. Nếu như chỉ lấy một phần rất nhỏ số tiền ấy đầu tư xây mấy cầu vượt hầm chui trên con đường tôi đi làm về thì có phải đỡ khổ cho tôi không. Và nếu dành một phần (phần bao nhiêu tôi không biết, nhưng chắc không cần toàn bộ) số tiền ấy để xây dựng một hệ thống đường bộ cao tốc cho tử tế thì người dân có phải được nhờ nhiều hơn không. Lúc đấy, bất kỳ người dân nào của thành phố mang tên Bác, sau 20 giờ ngồi trên một chiếc xe buýt Bắc Nam chạy suốt, cũng có thể ra thăm lăng Bác và thấy trong sương hàng tre bát ngát (nhân tiện ăn bún ốc Hồ Tây hay kem Tràng Tiền).

Còn đường sắt, chỉ mong cái con tàu Việt Nam đi suốt bốn mùa vui đấy sạch sẽ hơn một tí, không còn rải phân từ Bắc chí Nam suốt bốn mùa vui đã tốt lắm rồi. Chứ nhỡ cao tốc mà mỗi khi vào ga lại yêu cầu quý khách không sử dụng phòng vệ sinh thì kẹt lắm.

Ai dà, mưa đã tạnh và tôi đã về nhà. Một kỷ lục mới được thiết lập: 2 giờ 45 phút đi từ công ty về nhà, phá rất sâu kỷ lục trước đây 2 giờ 5 phút.

------------

Trong khi đang pageview đang xuống, nhờ có nữ sĩ TTT để link mà fan của cô lũ lượt kéo sang. Xin đa tạ:)