Thứ Ba, 23 tháng 8, 2016
Đọc lại: Du hành cùng Herodotus
Một nhà nào đó khác đã nói, nếu một cuốn sách không xứng đáng để đọc lại, thì mắc mới gì phải cầm nó lên và đọc lần đầu tiên.
Tôi, một mặt "quán triệt" những lời thông thái trên; mặt khác do tính ham của lạ nên hay đọc tứ tung, tuy vậy hằng năm đều dành thời gian để đọc lại một số cuốn mà tôi thấy đáng để đọc lại. Hiện, tôi đang đọc lại cuốn Du hành cùng Herodotus của nhà báo Ba Lan Ryszard Kapuściński, qua bản dịch từ tiếng Ba Lan của Nguyễn Thái Linh.
Hồi đọc lần đầu năm 2009, tôi có nói đâu đó rằng nếu bạn chỉ đọc một cuốn du ký duy nhất thì nên đọc cuốn này. Giờ đọc lại, tôi thấy gọi cuốn này là du ký e có phần lầm lạc. Tôi không có vấn đề với thể loại du ký, nhưng có vẻ những cuốn xuất sắc nhất trong thể loại này đều đứng trên, vượt ra ngoài thể loại. Ngoài ra, du ký nhất là ở Việt Nam gần đây hầu như ai cũng viết được. Đi một tí, ngó nghiêng một tí, wiki một tí, thêm vài chuyện nhăng nhít ngồ ngộ, là lạ thế đã thành sách du ký rồi. Vì vậy, tôi không muốn gọi Du hành cùng Herodotus là du ký nữa.
Vậy nên gọi nó là gì? Tôi thấy nó là một bài review sách khổng lồ, chứa đựng một khối tò mò khổng lồ. Vâng, đúng là trong cuốn sách này, RK sẽ dẫn ta đến Ấn Độ, Trung Hoa, Ai Cập, Congo và rất nhiều địa danh khác .v.v.. Nhưng phần quan trọng nhất của cuốn sách là những trang review cuốn Sử ký của Herodotus, giúp ta gián tiếp đọc cuốn sách ắt là kỳ thú này.
Cách làm của RK là nhẩn nha lật một trang Sử ký, chép lại cho chúng ta vài đoạn, và rồi đặt ra vô số câu hỏi, hệt như một cậu bé có óc tò mò vô hạn. Chẳng hạn như, RK thuật lại chuyện Herodotus kể về người Babylon chống lại người Ba Tư, để làm việc đó, người Babylon đồng ý với nhau là bóp ngạt các thành viên nữ trong gia đình, trừ mẹ và một người mà họ phải chọn, để tiết kiệm thực phẩm trong công cuộc chống người Ba Tư. Họ bàn bạc với nhau như thế nào? có ai bất đồng không? có ai phát điên không? làm thế nào họ chọn bóp ngạt vợ hay con gái, bà hay em gái? rồi họ xử lý xác như thế nào, những vài chục ngàn xác người cùng một lúc? bóp ngạt xong rồi, họ cảm thấy như thế nào? RK sẽ đặt ra những câu hỏi như thế, xuyên suốt cuốn sách. Du hành cùng Herodotus do đó là tập hợp của cả hàng trăm câu hỏi, những câu hỏi nối tiếp nhau không có câu trả lời?
Tôi nhặt được rất nhiều thứ trong lần đọc lại này. Có quá nhiều thứ hay ho, quá nhiều thứ gợi suy nghĩ. Tôi thậm chí nghĩ nếu các tổng thống Mỹ đã đọc cuốn này thì họ sẽ không làm tan hoang Iraq hay Syrie, bởi giá trị của một nhà độc tài mà cuốn sách có nhắc tới, trong khi trích dẫn Herodotus.
Sách in năm 2009, không biết ngoài tiệm có còn không. Nếu ai chưa có nên tìm mà đọc; nếu có mà chưa đọc thì đọc đi, không phải hối tiếc đâu.
Thứ Tư, 14 tháng 12, 2011
Có bạn
Thứ Năm, 26 tháng 8, 2010
A tale of two cities
Thứ Ba, 22 tháng 6, 2010
Vừa đi đường, vừa kể chuyện (VII)
***
Tôi còn có thể viết gì nữa về Chicago, thành phố nằm bên bờ hồ Michigan lộng gió, lần này tôi đến mùa hè nên may không bị gió thổi rụng tai như lần trước khi mùa đông tuyết chưa tan hẳn làm nhoe nhoét những lối đi? Thành phố Chicago rộng bao nhiêu mét vuông? Có bao nhiêu dân? Có bao nhiêu công viên? Bao nhiêu thùng rác? Bao nhiêu người nghiện hút? Đội hockey ở đây tên gì? Nhà Obama ở đâu? Và Hemingway? Cả anh chàng Lee – thần tượng âm nhạc mới nữa? Tôi đã đến, đã đi rong dưới những tán cây, đã cắm đầu vào những tiệm sách cũ, đã nghe hụt jazz, đã xem đọc thơ và nói chuyện về thơ, đã thấy những ngôi nhà gạch đỏ trăm năm, đã mê những công viên chạy dài ven hồ, đã đi ngang những khu nhà người Mễ và da đen để biết Chicago không chỉ có nhà cao tầng và sự tráng lệ. Vẫn còn bao điều tôi chưa thấy và tôi chưa biết. Nhưng tôi biết, ở Chicago, tôi có những người bạn.
***
Bốn ngày ở Silicon Valley là bốn ngày đi tôi đi tu. Có câu: Thứ nhất là tu tại gia/ Thứ nhì tu chợ thứ ba tu chùa. Tôi tu theo kiểu trên cả hạng nhất (hạng đặc biệt?): tu tại khách sạn. Các buổi họp diễn ra từ sáng đến chiều ngay tại khách sạn, ăn trưa ăn tối cũng cùng một nơi. Những buổi ăn là cơ hội để networking – tức là giao lưu với đồng nghiệp các nước, nên ăn cũng là làm việc. Chỉ có hai lần được đi ăn bên ngoài: một lần BBQ toàn công ty bên một bờ hồ, và lần thứ hai, đêm cuối của hội nghị, sếp dẫn đi ăn một nhà hàng Ý nơi những người chạy bàn mặc sơ mi dài tay trắng toát đeo cà vạt đen, có anh lại còn đeo kính, trông giống giáo sư hơn bồi bàn – họ ăn nói cũng lưu loát và duyên dáng hơn khá nhiều giáo sư.
Bốn ngày liên tục ăn toàn đồ Tây - mặc dù thật ra không quá tệ và tôi cũng đã không phàn nàn nhiều như các đồng nghiệp Trung Quốc – khiến tô phở mà hai vợ chồng chị P mời tôi ở Portland ngon hơn rất nhiều. Hai vợ chồng chị ra sân bay Portland đón tôi, chở đi ăn phở, rồi chở thẳng ra thác Multnomah cho tôi leo núi và ngắm cảnh– không quên chuẩn bị sẵn cho tôi một đôi giày thể thao. Tôi phăm phăm leo thẳng lên đỉnh ngọn thác cao thứ hai nước Mỹ và là điểm thu hút du khách số một của bang Oregon để thỏa những ngày cùn chân trong khách sạn và ra sức hít thở không khí mát dịu trong lành của vùng núi bù lại mấy hôm toàn hít mùi máy lạnh.
Oregon là xứ mưa. Chị P nói mùa thu mưa có thể rỉ rả cả tháng. Nếu Nguyễn Bính đến đây hẳn ông sẽ viết: Giời mưa Portland sao buồn thế/ Cứ kéo dài ra đến mấy tuần. Mấy ngày trước trời vẫn rất âm u. May cho tôi, hôm đến, nắng hửng, trời trong, gió nhẹ, những bông cỏ la đà trong không trung, thời tiết lý tưởng cho một ngày leo núi.
Rất nhiều người leo núi ngày hôm ấy. Trên đường lên đỉnh, tôi thấy nhiều gia đình cùng đi. Em nào bé quá thì được bố cõng trên vai. Nhiều bé tầm ba bốn tuổi cũng hăng hái leo. Tôi nghe một cậu bé đang hổn hển mặc cả với bố: Con muốn quay lại. Ông bố bảo: Nào, con có muốn nhìn thấy đỉnh thác không? Gắng lên. Thế rồi cả nhà lại tiếp bước. Cũng có những ông bà cụ ngoài tám mươi, da nhăn nheo, tóc bạc trắng nhưng bước chân hãy còn khá vững. Chị P bảo dân Mỹ rất thích những họat động ngoài trời. Nước thác Multnomah trong veo và lạnh cóng, tôi thò tay vào thấy chẳng khác nước để tủ lạnh, ấy là do tuyết trên đỉnh núi tan ra và chảy xuống.
***
Rời thác Multnomah, chúng tôi đi thẳng đến đập thủy điện Bonneville, để xem cá hồi ngược dòng Columbia, nhảy lên những bậc thang (fish ladder)để vào trong hồ. Bất giác tôi nhớ chuyện cá chép vượt vũ môn.
Tôi chép lại đây một chút về vòng đời của cá hồi (thật ra còn một số cá khác cùng họ, nhưng tôi không phải chuyên gia về cá, và để đỡ phức tạp tôi gọi chung là cá hồi), vì tôi nghĩ cũng như tôi phần đông mọi người ở Việt Nam chỉ nhìn thấy cá hồi khi đã lên đĩa chứ ít biết về cuộc đời đầy mạo hiểm và thú vị của loài cá này:
Cá hồi thuộc họ cá anadromous. Anadromous là một từ gốc Hy Lạp có nghĩa “ngược dòng sông”, ám chỉ hành trình từ sông ra biển và từ biển về lại sông của cá hồi. Khi cá hồi con nở ra và lớn lên, chúng hoàn toàn không còn cha mẹ để “dạy dỗ” chúng. Tuy nhiên, theo bản năng, chúng sẽ xuôi dòng bơi ra biển. Cá hồi xuất phát từ sông Columbia bơi về hướng Bắc lên tận Alaska hoặc biển Bering. Chúng chỉ bơi trong đêm và gần bờ để tránh bị các loài cá khác ăn thịt. (Bây giờ tôi mới hiểu tại sao Raymond Carver có một tập thơ tên At Night the Salmon Moves – Cá Hồi Bơi Trong Đêm). Sau hai đến bốn năm sống ở đại dương, cá hồi trưởng thành tìm đường về nguồn cội. Người ta cho rằng sở dĩ chúng có thể tìm về được nơi chúng nở ra là nhờ vào mùi nước: chúng ghi nhớ mùi nước trên đường ra biển và lần theo mùi để trở về.
Khi trở về, cá hồi trưởng thành bơi ngược dòng chảy. Nếu gặp trở ngại, chúng sẽ rất kiên tâm vượt qua, thà chết chứ không từ bỏ nỗ lực. Cũng trong hành trình này, chúng bắt đầu nhịn ăn, và sử dụng năng lượng tích lũy để sản sinh ra trứng và tinh trùng. Những con đực bắt đầu đổi màu để thu hút cá cái.
Vì bơi ngược dòng, nên cá hồi sử dụng quá nhiều năng lượng đến nỗi thịt da chúng bắt đầu tan rã, và cá cái sẽ chết đi sau khi đẻ trứng tại nơi chúng từng nở ra. Tài liệu không nói rõ nhưng tôi đoán cá đực cũng chết sau khi thụ tinh cho trứng. Cá hồi con mồ côi từ khi sinh, lại tìm đường ra biển và tái lập hành trình của cha mẹ chúng.
Khi xây đập thủy điện trên dòng Columbia, chính phủ Mỹ đã đầu tư hơn một tỷ đô phối hợp cùng các nhà khoa học và cư dân ven sông nghiên cứu tập quán của cá hồi. Nhờ đó, họ tạo ra những bậc thang (fish ladder) mô phỏng tự nhiên cho cá hồi vượt thang vào trong hồ , nếu không, cá hồi sẽ bỏ hàng tuần để cố gắng vượt qua đập, cố gắng đến chết mới thôi. Cá cái vào trong hồ rồi sẽ được bắt lên, mổ ruột, lấy trứng thụ tinh với tinh trùng cá đực. Người ta sẽ ươm trứng cho đến khi chúng nở rồi thả cá con về với tự nhiên.
Đây là đọan video ngắn tôi quay cảnh xem cá hồi vượt fish ladder.
***
Thứ Bảy, 19 tháng 6, 2010
Vừa đi đường, vừa kể chuyện (VI)
Thứ Ba, 15 tháng 6, 2010
Vừa đi đường, vừa kể chuyện (III)
***
Nhiều lúc tôi nghĩ, số phận của thơ thật hẩm hiu, nhất là khi so với văn xuôi. Khi đọc một tản văn, một truyện ngắn, hay một tiểu thuyết, người ta có thể nói văn hay văn dở, nhưng tuyệt nhiên không ai bảo đấy không phải là văn, mà là thơ! Ngược lại, khi đọc một bài thơ, thậm chí chưa đọc xong một bài thơ, bất kỳ ai cũng có thể hùng hồn tuyên bố đấy không phải là thơ, mà là văn xuôi. Thấy chưa, người ta còn không buồn gọi đấy là thơ dở. Người ta từ chối gọi sản phẩm của nhà thơ là thơ, mặc dù khi bị hỏi ngược lại thế nào mới là thơ, thường sẽ không có câu trả lời rành mạch.
Thơ phải có vần ư? Một vạn lần không phải thế, mặc dù thơ từng có vần và không ai cấm các nhà thơ tiếp tục làm thơ có vần. Nhưng nếu chỉ vần mà thành thơ thì đây hẳn là tuyệt cú: “Trên đường Nguyễn Thị Minh Khai/ Thế nào cũng có một vài ô tô.”
Có người nhao nhao: Thơ phải có hình ảnh, phải có nhạc điệu. Nhưng than ôi, có thể dẫn ra vô vàn ví dụ tản văn, truyện ngắn hay tiểu thuyết đầy ắp hình ảnh và nhạc điệu mà chẳng ai nhầm với thơ cả.
Thế thì thơ phải hàm súc! Nghe có vẻ thuyết phục, nhưng rất khó coi những bài thơ của nhà thơ rất được nhiều người, đặc biệt thanh niên miền Bắc, yêu mến - Lưu Quang Vũ - là những bài thơ hàm súc. Ngược lại, Lưu Quang Vũ luôn nhiều lời, quá nhiều lời là đằng khác. Khi làm thơ, Lưu Quang Vũ nói nhiều như một… nhà viết kịch! Đấy là chúng ta còn chưa nói đến thơ văn xuôi hay tân hình thức.
Vậy thì thế nào là thơ? Sao phải nhọc công đi tìm định nghĩa mà không chịu tin nhà thơ lấy một lần: Thơ là cái nó là khi nhà thơ gọi nó là thơ. Tước mất quyền của nhà thơ gọi tác phẩm của họ là thơ, chẳng khác gì tước quyền đặt tên con của những ông bố bà mẹ. Tương tự như những đứa trẻ, bài thơ ra đời khi nhà thơ đẻ ra nó. Giây phút nào nhà thơ hoàn tất bài thơ chúng ta có thơ. Nhà thơ phải có toàn quyền đối với tác phẩm của mình mà quyền lớn nhất và cần được tôn trọng nhất là quyền khai sinh.
***
Tôi trao đổi một phần những suy nghĩ trên với một nhà thơ. Nhà thơ này biết uống cà phê (và nhiều thứ khác). Bằng vào số vết trầy trên đuôi xe, có thể đoán nhà thơ có khá nhiều người hâm mộ.
****
Nhà thơ dẫn tôi vào một quán cà phê trước cổng có treo hình con heo toòng teng. Nói ngắn gọn, đấy là quán cà phê con heo. Nói đầy đủ, quán cà phê có tên Con Heo Tiểu Tư Sản (Bourgeoisie Pig). Thực đơn ở đây chỉ có sandwich và salad, ừm, thật ra còn có cả soup. Tuy nhiên, các loại sandwich được gắn những cái tên hết sức mỹ miều sặc mùi tiểu tư sản, chẳng hạn Mặt Trời Vẫn Mọc, Gatsby Vĩ Đại hay Bắt Trẻ Đồng Xanh. Vừa được nhà văn không biết uống cà phê tuyên truyền cách đó không lâu The Sun Also Rises là cuốn hay nhất của Hemingway, nên tôi gọi ngay một cái sandwich Mặt Trời Vẫn Mọc, vừa gặm vừa loay hoay xem mặt trời mọc hướng nào. Nhà thơ gọi một món không tiểu tư sản lắm là salad Ceasar. Ceasar, Ceasar, salad toàn thịt gà, vừa khô vừa cứng. Bữa trưa lúc 4 giờ chiều làm dịu cơn đói của giai cấp tiểu tư sản, sau một ngày vất vã đi lùng sách cũ.
Có một tiệm sách cũ tên là Open Books. Tiệm này nằm ở một vùng nào đó của Chicago. Xuất phát từ đại lộ Michigan chúng tôi cuốc bộ về hướng Nam độ hai chục block nhà thì rẽ sang hướng Tây cuốc chừng mười block rồi đi mười hai block về hướng Bắc rồi thêm chin block rưỡi về hướng Đông thì tới. Đại khái với sự trợ giúp của mobile internet và sau khi hỏi đường chừng hai chục người chúng tôi tới đích.
Open Books là tiệm sách cũ phi lợi nhuận. Nguồn sách ở đây hoàn toàn do mọi người hiến tặng. Nhân viên làm việc không lương. Toàn bộ lợi nhuận của tiệm sách được dành vào việc gây quỹ cho trẻ em nghèo (chú ý: mục đích thiện nguyện có thể khác, nhưng khi bước chân vào tiệm sách tôi chỉ nhìn sách chứ không để ý những thông tin khác nên những gì tôi viết ở đây có thể hoàn toàn sai.)
Cũng như mọi tiệm sách cũ và mới khác ở Chicago, sách ở đây được sắp xếp theo từng thể loại, và trong từng thể loại, theo thứ tự tên tác giả. Riêng phần tiểu thuyết chiếm năm dãy kệ, có mặt hầu hết các tác giả tên tuổi từ Auster, Bolano, Calvino ở đầu bảng chữ cái đến Roth, Updike, Vonnegut phần cuối bảng. Giá trung bình một cuốn khoảng 5-6 đô. Nếu may mắn, bạn có thể tìm thấy những cuốn rất ra trò, dày, bìa cứng, và khá mới trong đống sách đổ lộn xộn trong hai thùng các-tông to với giá chỉ một đô một cuốn. Rabbit at rest của John Updike nằm trong số này.
Hôm trước đó, tôi còn có dịp (hai dịp) vào lục lọi tiệm sách cũ Powell’s ngay gần khuôn viên trường đại học Chicago. Nói là sách cũ – thường do sinh viên trường bán lại – nhưng nhiều cuốn còn gần như mới nguyên. Có cả những cuốn tinh tươm hẳn là sách tồn kho của các nhà xuất bản bán với giá chỉ một phần tư giá gốc, điển hình là tập Other Colors của Orhan Pamuk, bìa cứng, mới cứng, giá 6.95 đô, trong khi giá gốc là 28 đô. Diện tích của tiệm Powell’s không quá lớn, nhưng sách chất trùng trùng điệp điệp, từ sàn đến trần nhà. Theo ước lượng của tôi, chỉ riêng phần sách lịch sử Trung Quốc đã chừng trăm cuốn, tổng số đầu sách lịch sử các nước trừ Mỹ khoảng ba, bốn nghìn. Tôi áng chừng gom tất cả đầu sách của tất cả các nhà sách của Fahasa và Phương Nam ở Sài Gòn lại cũng không bằng số đầu sách của tiệm sách cũ Powell’s này, chưa nói tới sự phong phú về thể loại.
Với ba lần ghé thăm hai tiệm sách cũ, tôi đã có dịp gần như hoàn thiện bộ sưu tập Paul Auster của mình, bổ sung kha khá vào hai bộ Hemingway và Roth, và hẳn là đang bắt đầu hai bộ Coetzee và Pamuk. Ngoài ra, tôi còn tóm được những cuốn tôi đang tìm kiếm lâu nay như Franny and Zooey của Salinger hay Ho Chi Minh – The Missing Years của Sophie Quinn-Judge. Nhà thơ biết uống cà phê còn nhiệt tình giới thiệu, tặng và chuyển giao cho tôi khá nhiều cuốn của các tác giả các nước nhỏ như Pakistan, Hong Kong, Nigeria, Haiti, kèm theo lời trách cứ Giò Trắng sao trên blog chỉ giới thiệu các nhà văn nước lớn.
Trong mọi tình yêu luôn có mầm mống khổ đau, không loại trừ tình yêu sách. Hành lý từ Việt Nam sang của tôi chỉ có 15kg. Khi bay từ Chicago sang San Jose, vali của tôi cân nặng 70 pounds (khoảng 32kg). Southwest cho phép hành khách gửi hai kiện hành lý, mỗi kiện 50 pounds (23kg). Tôi chỉ có một vali, nhưng Southwest không cho tôi nhét cả vào một vali, mà phải lấy bớt sách ra, cho đến khi vali nặng đúng 50 pounds mới thôi. Số sách dôi ra tôi phải xách tay. Thế là với đôi vai gầy guộc nhỏ và đôi cánh tay khẳng khiu, tôi mòn mõi lê bước từ quầy check in qua cổng kiểm tra an ninh đến cổng ra máy bay dưới sức nặng của…sách.
Chủ Nhật, 13 tháng 6, 2010
Vừa đi đường, vừa kể chuyện (II)
Thứ Bảy, 12 tháng 6, 2010
Vừa đi đường, vừa kể chuyện (I)
5.23 sáng 10/6/2010
Tom Hanks là diễn viên yêu thích của vợ tôi. Hình như tất cả phụ nữ Việt Nam chân chính và có xem phim Mỹ đều thích Tom Hanks. Họ nói anh ấy tuy không đẹp trai lắm, nhưng đóng hay và đặc biệt, không lăng nhăng. Hậu quả của việc vợ tôi, một trong số những phụ nữ Việt Nam chân chính, yêu thích Tom Hanks là thỉnh thoảng tôi xem phim có anh. Vì đang ngồi ở sân bay nên tôi nhớ đến phim The Terminal.
Trong The Terminal, Tom Hanks đóng vai một hành khách có quốc tịch một quốc gia X. Khi Tom Hanks vừa đến Mỹ, thì ở quê nhà của anh xảy ra đảo chính, chính phủ cũ bị lật đổ, chính phủ mới lên thay. Chính phủ này không được sự công nhận của quốc tế (i.e. Mỹ), nên hộ chiếu anh cầm không được công nhận. Thế là anh không được vào Mỹ, mà cũng không ra được Mỹ. Ngày này qua ngày khác anh sống tại sân bay, ăn uống, yêu đương, làm việc kiếm tiền ở đấy. Kết thúc phim thế nào tôi không nhớ. Đối với một trí nhớ suy tàn như trí nhớ của tôi nhớ đến đây đã khá lắm rồi. Đại khái anh ta sống ở sân bay khá lâu, lâu lắm, không chết, đến cuối phim vẫn không chết.
Nhưng tôi cá rằng nếu anh ta mắc kẹt ở một sân bay giống cái sân bay mà tôi đang ngồi chờ giờ khởi hành, chắc anh ta sẽ không tồn tại được ba ngày, không, ý tôi nói ba giờ. Anh ta sẽ chán đến chết, chết trước khi thưởng thức những rắc rối và sinh động của một cuộc đời không tổ quốc.
***
Tôi đến sân bay sớm. Hiển nhiên là vì tôi phải bay sớm. 3 giờ sáng, tôi đã phải dậy, sau chỉ 3 tiếng ngủ, vì tối hôm trước phải sửa soạn hành lý và soạn nốt cái hợp đồng dang dở. Phải gửi hợp đồng cho khách trước khi đi, nếu không sếp có thể gõ đầu tôi. Hôn từ biệt hai con chó con đang ngủ say và người phụ nữ Việt Nam chân chính yêu thích Tom Hanks, tôi kéo vali xuống nhà gọi taxi. Đường vắng, chốc lát tôi đã đến sân bay.
Làm thủ tục xong, vẫn còn gần tiếng mới tới giờ bay. Tôi leo lên tầng lầu, định vào một trong những quán cà phê trên đó để uống một chút gì và vào internet. Thế nhưng, tất cả quán hãy còn đóng cửa im ỉm. Lúc đó khoảng 4 giờ rưỡi sáng.
Gần cổng lên máy bay, tôi tìm thấy một quán mở cửa. Lúc tôi phát hiện ra quán, chị bán hàng – khoảng ngoài năm mươi tuổi, mặc đồng phục SASCO – đang đôi co với hai cô khách nước ngoài. Hai cô khách kia có vẻ muốn mua mấy chai nước suối, đang xòe ra mấy tờ tiền Việt Nam. Tôi nghe lóm nội dung là bọn tao còn ngần này tiền Việt Nam. Chị bạn hàng thì cứ lắp đi lặp lại nhõn “one more, one more” – ý là chưa đủ tiền. Hai cô khách bỏ đi. Chị bán hàng cất lại 4 chai nước suối vào tủ.
Tôi gọi một tách cà phê sữa nóng, chị bảo 3 đô. Tôi đưa chị 60.000 đồng, chị cất tất vào ngăn kéo và đưa tôi tách cà phê. Và chỉ thế. Cứ như cà phê vỉa hè, dù giá gấp 10. Không biết làm thế nào để SASCO biết được chị đã bán cho tôi một tách cà phê và đã thu 60.000 đồng
Không có tín hiệu wifi chùa, tôi giở sách ra đọc. Everyman của Philip Roth. Đây là cuốn đầu tiên của Roth tôi đọc. Nhưng, thật khó tập trung khi thỉnh thoảng thông báo của sân bay lại vang lên, ong óng vào tai. Dù sao cũng nghe được một thông tin mới là không được mang cà phê trong hành lý xách tay vì lý do an ninh. Chắc người ta sợ bom làm bằng bột cà phê. Cũng may, nếu cái vali cỡ nhỏ của tôi không bị chuột gặm thì tôi đã dùng nó cho hành lý xách tay và sẽ nhét cà phê trong đó. Chẳng những bị chuột gặm, nó còn gãy càng, thế là tôi chỉ mang một cái ba lô nho nhỏ theo người, còn cà phê và sách cho những người ở bển tôi cho vào hành lý kỷ gửi cả.
Không internet, đọc sách không xong, không muốn dùng iPod, tôi gõ những dòng này giết thời giờ.