Hiển thị các bài đăng có nhãn sàigòn. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn sàigòn. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 5 tháng 11, 2010

Cà phê ngon - Ngày đẹp trời


Chú ý, có dấu gạch ngang ở giữa.  Đó là một dấu gạch ngang vô vọng nhằm nối kết hai sự việc không liên quan gì nhau mấy thuộc về hai thời điểm khác nhau: cà phê của thời điểm này, gần 12 giờ đêm một ngày thứ năm, hay chính xác hơn là đêm thứ năm, còn ngày đẹp trời, thuộc về hôm qua, một ngày thứ tư, một ngày Sài Gòn trời không thể đẹp hơn, đẹp đến nỗi dù biết rằng nơi nào đang mưa lũ vẫn không thể không xuýt xoa mà không áy náy, đẹp đến nỗi chỉ muốn nằm lăn ra vỉa hè đường Đồng Khởi cho nắng ruộm vàng thân, đẹp đến nỗi trưa sẵn sàng không ăn cuốc bộ một vòng quanh quận 1, đẹp đến nỗi thấy mình bất lực vì không thể níu giữ lại được những giờ phút ấy, chỉ còn biết âm thầm hít thở, âm thầm ngắm nhìn, âm thầm vui sướng, âm thầm tan ra hòa lẫn với phố phường xe cộ.  Giờ phút ấy Sài Gòn không mùa thu chẳng phải mùa đông - gọi đúng tên phải là mùa lâng lâng - và khi đi trên phố phải kìm nén mình hết cỡ, giẫm chân mạnh hết cỡ bằng không rất dễ bay tuốt lên trời như bong bóng.

[Xong phần đẹp trời, chuyển sang phần cà phê.]

Lâu rồi tôi không uống cà phê về đêm.  Lý do là tôi sống làm việc theo lời khuyên của các bác sĩ nên hạn chế uống cà phê buổi tối nhằm giữ gìn cho làn da trắng như tuyết và mái tóc đen nhưng khung cửa gỗ mun [của tôi, của tôi!].  Như có lần đã nói, đêm - nếu cần chống chọi với kẻ thù mang tên buồn ngủ, tôi thường uống trà đặc.  Nhưng đêm nay chả hiểu vì sao lại thèm cà phê, thế là tự tay nấu nước và pha một phin cà phê bột Highlands nén chặt vừa phải, nước thật sôi, xong pha một ít sữa đặc.  Uống xong ly cà phê thấy lòng phơi phới, nhìn ra bóng đêm mà tưởng là nắng mới, suýt nữa hét lên, may kịp kiềm lại chứ không thì con sẽ khóc toáng và hàng xóm gõ cửa nhà. 

[Đoạn kế tiếp không phải trời đẹp cũng chẳng phải về cà phê - họa may thì về cái gạch ngang.]

Cảm giác hoàn thành tốt một việc cũng tuyệt như cảm giác hưởng thụ một ngày đẹp trời hoặc uống một ly cà phê ngon.  Phải cố lắm mới không hét và phải ghìm mình hết cỡ mới không bay lên.
  

Thứ Sáu, 24 tháng 9, 2010

Có một tình yêu Sài Gòn


Đọc Thị Dân  - Tản văn của Quốc Bảo - Nhã Nam và Nhà xuất bản Hội Nhà văn

“Phải bứt ra khỏi thành phố này, thế nào tôi cũng khóc.  Đứa bé khi buộc phải ra khỏi tử cung mẹ đã khóc, hệt như vậy.”

Thành phố nào mà được yêu đến vậy? Xin thưa ngay, đó chính là Sài Gòn, hay Saigon, theo cách viết dính liền và không bỏ dấu của Quốc Bảo trong suốt 159 trang khổ 20 x 21 cm của tập tản văn mang tên Thị Dân mà tác giả tự nhận là “cuốn sách ai cũng viết được, ai cũng có thể là tác giả, nếu hắn ta yêu Saigon đủ nghĩa một tình yêu”.  Dĩ nhiên, đó là chỉ là một cách nói khiêm tốn,  vì không phải ai yêu cũng nói được nên lời, chưa kể lời yêu đó phải đủ chân thành  và duyên dáng, để người khác đọc vào biết đấy là người đang yêu.  Sài Gòn tám triệu dân thì có không kém tám triệu người yêu, chưa kể những người yêu phương xa, mà Quốc Bảo từ đầu đến cuối sách một mực khẳng định tôi yêu Sài Gòn “của tôi” thế cũng có phần ích kỷ.  Nhưng đấy là cái ích kỷ đáng yêu  - đáng yêu như chính Sài Gòn qua cảm nhận trong văn Quốc Bảo.

Sài Gòn trong mắt anh là một thành phố “không hề đẹp”.  Đọc câu đấy xong đừng vội lo Quốc Bảo chê nhan sắc người yêu mình.  Vì liền kề đấy, anh bảo nó “cũng không hề xấu”, và quan trọng hơn, đồng thời tinh tế hơn, anh nhận ra: “Nó ở đó, để người ta sống”.  Anh nhìn thấy vẻ đẹp của Sài Gòn trong sức sống của nó, trong sự thay đổi nhanh đến chóng mặt của nó (dầu những thay đổi đôi khi kệch cỡm), và cả trong sự chắp vá xộc xệch như bản hòa âm “đầy tiết tấu phá bĩnh”.   Anh tỉ mẩn so sánh vị cà phê của từng thành phố để rồi rủ rê ta ngồi cùng anh nơi quán cóc Sài Gòn đợi bình minh lên để hiểu hơn về thành phố.  Rồi anh lại nhẩn nha bình luận về chất giọng Sài Gòn.

Thị Dân chia làm bốn phần: Tôi - những mẩu chuyện mang dáng dấp tự truyện; Bạn - viết về những người bạn của tác giả; Saigon; và Ảnh - những bức ảnh do chính Quốc Bảo chụp bằng điện thoại.  Bố cục là thế, nhưng thật ra không chỉ ở phần ba Sài Gòn mới là chủ đề.  Cho dù Quốc Bảo kể chuyện mình hay chuyện bạn, vẫn luôn man mác một tình yêu với thành phố.  Hơn một nửa số ảnh ở phần cuối cũng là những góc nhìn về Sài Gòn.

Cũng như lời nhiều ca khúc của Quốc Bảo, ngôn ngữ trong Thị Dân là một thứ ngôn ngữ được chăm chút đến độ mỹ miều - thậm chí đôi lúc quá mỹ miều.  Nhưng dĩ nhiên ta biết phải yêu lắm thì mới dày công chăm đến thế.

Quốc Bảo còn những bài viết khác hay hơn về Sài Gòn.  Tiếc rằng, những bài đó không có mặt trong Thị Dân - anh mới để trên blog cá nhân hoặc đăng rải rác trên các tạp chí.  Vì thế, ta có quyền hy vọng sẽ còn được đọc về Sài Gòn trong một quyển sách khác nữa của Quốc Bảo.  Trong khi chờ đợi, chẳng có lý do gì mà ta không tự thưởng cho ta ly cà phê đá trên một vỉa hè Sài Gòn, nhấm nháp vị đắng tan trong miệng cùng Thị Dân trên tay - cuốn sách do chính tác giả thiết kế mỹ thuật cầm rất vừa tay và cũng rất xinh xắn.







Đây là bn full.  Còn bn trên Tui Tr thì tri li như con gà b vt lông, mà toàn ch lông đp í.:)


Thứ Năm, 26 tháng 8, 2010

A tale of two cities

Anh đã rửa xe cho em chưa?


(Chuyện kể dưới đây hoàn toàn hư cấu. Nếu có trùng hợp chỉ là ngẫu nhiên.)

Vợ đi xa. Niêu tôm chưa kịp vọc thì điện thoại đã reo. Lẩm bẩm trong mồm, sao không đăng ký luôn cái dịch vụ xác định vị trí của Vinaphone cho tiện. Nhấc điện thoại, miệng cười tươi như hoa, cho dù đầu bên kia không thấy mình. Hóa ra vợ chỉ kể chuyện đi thang máy. Vợ bảo, thang máy từ tầng 3 đi xuống, mở ở tầng 1. Thấy đầy người, em đứng chờ mọi người ra rồi mình mới vào. Đang xớ rớ chưa thấy ai ra thì bên trong có người quát, vào thì vào, không vào thì thôi, đứng đấy làm gì. Vẫn không ai ra nên em vào, mặt đỏ lựng. Em bấm tầng 3, rồi ra ở tầng 3. Mọi người đi tiếp lên tầng 5. À, anh đi rửa xe cho em nhé.


Gác điện thoại, tôi đi rửa xe luôn kẻo quên. Ghé chỗ quen, thấy bốn năm người chờ mà chỉ có một thợ. Cậu thợ rửa xe nói giọng miền Trung cười nói, chiều chủ nhật, mấy đứa kia đi chơi hết rồi anh, anh chờ khoảng nửa tiếng. Ngại chờ, tôi đành chạy qua chỗ khác. Thấy một nhà có trưng bảng rửa xe bọt tuyết, tôi ghé vào. Một thanh niên mặc áo thun đen, quần kaki ngang gối, đang rửa một chiếc xe khác trước sân, khẽ gật đầu chào tôi, bảo anh để xe đấy cho em. Một cô gái, nước da bánh mật, tóc cột bằng một sợi dây thun, mặc một bộ đồ thun kiểu ở nhà - tôi đoán là vợ anh rửa xe - từ trong nhà đi ra mời tôi ngồi. Có một người đàn ông và một cậu bé khác - hẳn là hai bố con - cũng đang ngồi chờ. Thấy tôi, người đàn ông nhấc chiếc mũ bảo hiểm đang để trên ghế lên. Tôi kéo chiếc ghế đó ra ngồi cách một tí. Người đàn ông để tờ báo đang cầm trên tay xuống bàn, hơi chếch về phía tôi ngồi. Tôi cười, gật đầu, rồi rút cuốn sách cầm theo ra đọc. Được vài trang, tôi ngẩng lên, nhìn anh thợ rửa xe đang xịt nước. Bọt xà bông trôi xuống, dạt vào một góc sân. Anh đẩy xe ra phía trước, dựng ở đó. Cô gái cầm một mớ khăn khô ra lau. Còn anh đẩy xe của tôi vào bệ rửa.

Trời nhá nhem tối. Xe tôi đã được rửa xong. Tôi trả tiền, cảm ơn cô gái. Cô nói, cảm ơn anh. Tôi phóng xe về. Ngang ngã tư, thấy ô tô xếp một hàng dài, nhưng phía làn xe máy vẫn có thể đi thoải mái.


Vừa về tới nhà, điện thoại lại reo. Vợ bảo, em mới đi mua ô mai về để làm quà. Tôi bảo, anh không ăn ô mai. Vợ nói tiếp, em bảo cô bé bán hàng cho ô mai vào năm túi để tiện chia cho mọi người. Cô bé bán hàng bảo, yêu cầu gì mà yêu cầu lắm thế. Tôi bảo, kệ nó, chắc nó sẽ bị đuổi. Vợ bảo, em thấy bà chủ cửa hàng đứng ngay đấy, mà chẳng nói gì. À, anh đã rửa xe cho em chưa?



Thứ Tư, 14 tháng 7, 2010

Đô-mi-nô

Hôm nay, sau mấy ngày bận như chó cún, tôi có chút thời gian thảnh thơi. Ngồi gặm bánh mì trên một vỉa hè Sài Gòn, dưới một tán cây xanh ngút mắt và bên cạnh một đống rác, tôi tự hứa sẽ kể bạn nghe hai câu chuyện nhỏ. Hai câu chuyện này không liên quan đến bánh mì, không liên quan đến tán cây xanh cũng không liên quan đến rác. Nó liên quan đến đô-mi-nô. Nói xong chữ đô-mi-nô, tôi chợt nhận ra tôi không thể không kể thêm một câu chuyện nữa, về trò chơi của tôi hồi nhỏ. Như vậy tổng cộng tôi có ba câu chuyện về đô-mi-nô cho ngày hôm nay.

Chuyện thứ nhất:

Hồi tôi còn nhỏ, chừng bốn tuổi, tôi có một hộp cờ đô-mi-nô. Tôi chơi cờ đô-mi-nô mỗi tối, trước khi đi ngủ. Bạn chơi cùng tôi là má tôi. Đều đặn, tối nào chúng tôi cũng chơi như thế.

Một tối, đột nhiên má tôi không chơi đô-mi-nô với tôi. Hình như, má có chuyện gì đó buồn. (Sau này lớn lên, tôi biết đó là chuyện gì. Nhưng nó quá riêng tư, cho phép tôi không kể.) Và từ đó trở đi, má tôi cũng không bao chơi đô-mi-nô với tôi nữa. Những quân cờ đô-mi-nô nằm chỏng chơ trong hộp. Cái hộp, đến lượt nó, nằm chỏng chơ trong xó nhà. Tôi nhanh chóng quên những quân cờ đô-mi-nô, nhưng tôi nhớ mãi cái buổi tối mà tôi không được chơi đô-mi-nô nữa. Hình như đó là điểm xa nhất mà trí nhớ tôi có thể vươn về. Nói cách khác, trên đường biên của trí nhớ tôi, có những quân cờ đô-mi-nô nằm sõng soài.

Chuyện thứ hai:

Khi bạn nghe xong chuyện thứ hai này, thể nào bạn cũng nói: chuyện của mình cũng y như vậy.

Tôi có thói quen, mỗi lần vào cây xăng, hay dừng xe đâu đó khác, xong việc thì cứ trèo lên xe rồi chạy đi mà quên đá chống nghiêng. Cái chống nghiêng đó, nếu cứ để vậy mà chạy, có khi té gãy cổ. Rất may, tôi luôn không chạy quá xa trước khi có người nhắc: chống kìa! Có lần, cái chống nghiêng xe tôi bị hư, trễ xuống lơ lửng một bên. Trên quãng đường từ công ty về nhà, không dưới mười người chạy theo tôi, nhắc gạt chống.

Ai cũng nhắc tôi như thế, nên khi ra đường, thấy ai quên đá chống, tôi cũng kè xe theo nhắc: chống kìa.

Tôi nghiệm thấy ở Sài Gòn mọi người ai cũng nhắc nhau về cái chống xe. Người này nhắc người kia, người kia lại nhắc người kia nữa.

Chuyện thứ ba:

Nhưng cũng ở Sài Gòn, hầu như không ai nhường đường cho người đi bộ. Lần duy nhất, khi tôi băng qua một con đường Sài Gòn, được một bác taxi dừng lại, mỉm cười và vẫy tay ra hiệu cho tôi đi đã cách đây năm năm. Tôi nhớ rõ đó là lúc tôi băng qua đường Hai Bà Trưng, từ phía Sai Gon Square cũ, bây giờ là Kumho Plaza, sang phía Bưu điện Sài Gòn; còn bác taxi kia là một bác taxi Mai Linh. Lần đó, tôi rất vui sướng vì có cảm giác mình đang ở Mỹ hay ở Úc! Còn vô số lần băng qua đường khác, tôi, và chắc chắn bạn cũng thế, phải chiến đấu với muôn vàn xe cộ. Băng qua đường ở Sài Gòn, cũng như Việt Nam nói chung, là cả một nghệ thuật.

Tại sao ở Sài Gòn hầu như không ai nhường đường cho ai nói chung và nhường đường cho người đi bộ nói riêng?

Khởi thủy có thể như thế này: bạn băng qua đường, xe cộ cứ rùng rùng lướt qua mặt bạn, bạn suýt bị tông. Đến lượt bạn chạy xe, bạn thấy có người băng qua đường, bạn tự nhủ: Mẹ kiếp, hôm nọ có đứa nào nhường đường cho mình đâu!

Thứ Tư, 19 tháng 5, 2010

Nắng đầy tiếng chim


Trên thành phố mang tên Bác những ngày này, nắng vẫn có rất nhiều, thậm chí quá nhiều, khiến chỉ cần dăm phút ngoài nắng là đủ để người ta mồ hôi nhễ nhại. Ngược lại, tiếng chim đã trở nên hàng xa xỉ, vì muốn có chim thì phải có cây, không có cây chim biết đậu cành nào và chuyền cành nào, không có cây chim phơi ngoài nắng thì món chim đang phơi sẽ rất nhanh chóng trở thành chim khô queo. Lẽ ra, tiếng chim mới nên là thứ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt thay cho máy lạnh, là thứ đã trở nên quá phổ biến. Vậy là bây giờ quà sinh nhật chỉ còn một nửa: nắng đầy.

***

Từ những ngày đầu tháng 4 đã thấy khu Eden bắt đầu bị đập, chuẩn bị cho một đại dự án khác của Vincom. Cứ ngỡ chỉ trong vài ngày khu này sẽ biến thành một đại công trường. Ai ngờ, cách đây ba hôm vẫn còn thấy rào của công trình chưa thể quây kín. Bên phía Đồng Khởi, một số cửa hàng vẫn còn mở cửa. Trên những tầng cao, nhiều nhà dân hình như chưa dọn đi. Cờ đỏ sao vàng phất phới trên nhiều ban công, nhiều khung cửa sổ. Có hai băng rôn đỏ, chữ to, có thể đọc rõ từ xa: Người dân khu Eden sống làm việc theo gương Bác Hồ vĩ đại.

***

Người Sài Gòn khi rỗi rãi hay đố nhau những câu như tòa nhà nào cao nhất Sài Gòn, chùa nào xưa nhất Sài Gòn, con gái quận nào đẹp nhất Sài Gòn. Trong danh sách những câu hỏi kiểu trà dư tửu hậu như vậy bây giờ có thể thêm: Tòa nhà nào có mặt tiền oách nhất Sài Gòn? Ắt hẳn tòa nhà đó phải là tòa nhà Vincom, vừa mới khai trương dịp 30/4 vừa rồi. Tòa nhà này có nguyên cái công viên Chi Lăng làm mặt tiền cho nó. Công viên Chi Lăng ngày chưa có Vincom, tuy bé, nhưng vẫn là công viên. Nó từng có một số cây cao cao, sống lâu năm, tục gọi là cổ thụ. Khi Vincom còn đang xây dựng dở, người ta cứ ngỡ công viên bị mất đi, vì hàng rào vây kín và cây chẳng thấy đâu. Vincom khai trương, nhờ vào tấm biển to đùng chình ình ngay chính giữa với bốn chữ vàng chói lọi “CÔNG VIÊN CHI LĂNG” người ta mới biết là, à, thì ra công viên Chi Lăng vẫn còn đây. Công viên hẳn hoi, có biển đề rõ ràng, có khi là cái biển to và đẹp nhất nước, chứ không phải đấy là mặt tiền của Vincom.

***

Chiều đi làm về, ngang công viên 23/9, nơi còn một số cây và có thể còn một số chim, thấy một sân khấu đã được dựng lên. Liếc nhanh, thấy có một số cánh sen hồng hồng, hình như là chương trình ca nhạc đời đời ơn Bác. Đoán thế nào cũng có tiết mục đồng ca.

Thứ Tư, 24 tháng 3, 2010

Đi về chân núi xanh


Sài Gòn có một quán cà phê tôi hay ngồi khi một mình khi cùng vài người bạn. Quán ở góc Đồng Khởi và Lê Lợi, có những khung cửa sổ thật to. Ngồi ở đó, tôi có thể nhìn sang Nhà hát Thành phố, xa hơn một tí là khách sạn Caravelle, còn ngay bên kia đường là khách sạn Continental. Nhà hát Thành phố đã ở đó từ đầu thế kỷ 20, khách sạn Continental cùng tuổi nhà thờ Đức Bà, còn Givral quán cà phê nơi tôi ngồi và khách sạn Caravelle trên dưới 60 năm tuổi. Tôi thích ngồi ở đó ngắm xe cộ chầm chậm qua lại trên hai con đường Đồng Khởi và Lê Lợi, ngắm những du khách nước ngoài cuốc bộ traên vỉa hè hay dừng chân mua tờ tạp chí, trái dừa tươi, chụp vài kiểu ảnh hay đẩy cửa bước vào trong quán. Tôi ngồi ở đó ngắm Sài Gòn. Những khi đó tôi biết tôi đang ngồi trong lòng Sài Gòn.

Mỗi khi tôi có bạn bè đến Sài Gòn, tôi thường mời họ ra Givral. Trong câu chuyện thể nào tôi cũng nhắc trước 75 đây là quán cánh ký giả hay ngồi, trong số đó có Phạm Xuân Ẩn, ông ấy là một điệp viên hoàn hảo, bạn có biết không? Trước 75, tôi không ngồi ở đó – tôi còn ngồi ở một nơi không thấy gì ngoài bóng tối, nhưng tôi đã nghe ba tôi kể lại, và tôi đã đọc trong sách báo. Những mẩu chuyện, những giai thoại về Sài Gòn tôi nghe từ ba tôi, từ những thế hệ trước tôi kể lại cho bạn tôi ở đây, trong quán này. Những quán cà phê như Givral không đơn thuần là quán cà phê, mà là chứng nhân lịch sử và bản thân nó cũng là lịch sử. Nó lưu giữ trong nó một phần hồn của Sài Gòn, một thành phố tuy vẫn còn xô bồ nhưng hãy còn nhiều nét duyên và nhất mực hiếu khách.

Quán không nhiều bàn ghế, và có lẽ vì thế cũng không bao giờ quá đông. Thường khi nào tôi cũng có thể kiếm được chỗ ngồi bên cửa sổ. Cho dù không ngồi được bên cửa sổ thì những khung cửa sổ thật to cũng cho phép tôi vừa trò chuyện vừa ngó nghiêng ra đường. Nếu là ăn trưa, tôi thường gọi món cà chẽm xốt bơ chanh. Cá chẽm ở đây có thể không phải là món cá tươi nhất trần gian nhưng nước xốt được làm thật là tinh tế. Ăn kèm bao giờ cũng là một ít rau củ được hấp vừa chín tới, cùng với một ổ bánh mì nhỏ và giòn. Có thể thấy dấu vết ẩm thực kiểu Pháp trong những món ăn ở đây.

Phần lớn khách ngồi trong quán là những người không còn trẻ. Có lẽ, đối với các bạn trẻ, Gloria Jeans hay Coffee Bean là những chỗ ngồi ưa chuộng hơn. Có một bạn được tôi dẫn tới đây còn chê quán cũ kỹ, xập xệ, cho dù quán này cũng như hầu hết các quán cà phê Sài Gòn bây giờ đều có wifi.

Trưa hôm qua tôi lại ngồi ở Givral và có thể đó là lần cuối cùng tôi còn được ngồi ở quán. Chỉ bốn ngày nữa, quán sẽ đóng cửa. Toàn bộ khu tứ giác Eden cũ sẽ được đập đi nhường chỗ cho dự án trung tâm thương mại Eden hình như cũng do tập đoàn Vincom – đơn vị đang xây một trung tâm thương mại khác ở vườn hoa Chi Lăng - đầu tư. Trong khoảng hai, ba năm tới, Givral, nhà sách Xuân Thu, những cửa hàng bán đồ thủ công mỹ nghệ và gallery tranh trong khu này sẽ trở thành một công trường xây dựng khổng lồ.

Sau ba năm, nơi từng là Givral hẳn sẽ là một quán cà phê khác. Có thể đó sẽ là Highlands, Gloria Jeans, Coffee Bean hay Starbucks. Ngồi ở đấy nhìn ra, vẫn còn có thể thấy Nhà hát Thành phố và Caravelle, nếu may mắn thì vẫn còn Continental, nhưng một chút hồn Sài Gòn đã không còn nữa.

Cập nhật 25/3: Bài trên có sai một chi tiết nhỏ. Tôi ngồi quán này ngày 24/3, cậu phục vụ bảo quán sẽ đóng cửa ngày 28/4. Do đầu óc lẩm cẩm lại bị emotional quá nên tôi tính ra quán còn sống 4 ngày. Đúng ra là 1 tháng 4 ngày. Vậy các bạn ở Mỹ hay Hà Nội vẫn có thể đủ thời gian để ngồi Givral lần cuối!

Cập nhật 30/3: Như vậy tôi không nhầm. Theo tin ở đây thì toàn khu Eden phải di dời trước ngày 2/4. Bạn GM quả thật lẩm cẩm!

Thứ Năm, 10 tháng 12, 2009

Tinh thần đã mất

Có những buổi trưa như trưa nay tôi ra khỏi văn phòng sớm hơn thường lệ để đi ăn trưa mà không rủ đồng nghiệp nào theo cùng và cũng không hẹn hò với ai cả. Tôi chỉ muốn đi ăn nhanh và về lại văn phòng sớm để kịp cuộc họp trên điện thoại kế tiếp vào giữa trưa giờ Việt Nam. Tôi đi bộ và không chủ định sẽ ghé quán nào. Sài Gòn vẫn đang thay đổi từng ngày. Quanh khu trung tâm, chỉ vài hôm không để ý đã thấy mọc lên một quán cà phê hay quán ăn mới. 

Tôi đi ngược về hướng Nguyễn Du, ngang qua hàng miến chửi một thời (hay vẫn còn?) nổi tiếng. Buổi trưa, không nghe tiếng bà chủ véo von. Mấy cái xô không chỏng chơ trước hàng. Một vệt nước chảy dài từ ngạch cửa về phía mép đường, còn thấy rõ vài cọng rau và miến vụn. Không rõ trưa họ không bán hay là họ không còn khách. 

Chỉ thêm vài bước nữa, một quán ăn bên tay phải thu hút sự chú ý của tôi. Quán trông không khác mấy những quán cà phê kiêm phục vụ cơm trưa văn phòng thường thấy ở thành phố này; tuy nhiên, tôi đã kịp nhìn thấy dòng chữ Đặc sản bánh căn Phan Rang dưới mấy chữ Kul Deli màu tím uốn éo. 

Bánh căn là thứ bánh có nguồn gốc Phan Rang, nhưng hết sức gắn bó với những người dân Đơn Dương như tôi. Đơn Dương cách Phan Rang chưa tới 80 cây số. Nhiều người Đơn Dương có bà con họ hàng ở Phan Rang. Cũng có người Phan Rang lên Đơn Dương rồi mê con trai, con gái hay cái tiết trời quanh năm lành lạnh vùng này rồi ở lại luôn (má tôi là một trong số đó!). Đơn Dương và Phan Rang do đó thật là gần gũi, và chuyện món ăn của người Phan Rang trở thành món ăn “quốc hồn quốc túy” của người Đơn Dương kể cũng không lạ.

Bánh căn làm từ bột gạo. Gạo thường được ngâm từ đêm hôm trước rồi xay ra bằng cối đá thành bột bánh căn, nghe đâu muốn bánh ngon thì nên trộn vào gạo một ít cơm nguội. Gọi là bột nhưng nó là đã được hòa với rất nhiều nước, nên nó là một chứ chất lỏng màu trắng và hơi sệt. Mới nhìn, xô bột bánh căn trông giống như xô vôi quét tường. Nhìn kỹ, nó vẫn giống vôi quét tường, chỉ khác vôi không ăn được, còn bột bánh căn thì ăn được. Sau khi nướng chín, dĩ nhiên. 

Muốn đổ bánh căn phải có lò bánh căn. Lò được làm bằng đất nung. Mỗi lò có khoảng tám đến mười hai lỗ tròn cỡ miệng chén, đi kèm tương ứng số khuôn và nắp khuôn, tất cả đều làm bằng đất. Ngày trước, Đơn Dương hầu như nhà nào cũng có lò bánh căn trong nhà. Thỉnh thoảng có khách, tụ tập bạn bè, hoặc đơn giản chỉ là đổi món, lò bánh căn sẽ được lôi ra, than sẽ được quạt lên cho hồng và bánh căn sẽ bắt đầu được đổ. Món bột bánh căn trắng như vôi kia sẽ được rót vào từng khuôn, đậy nắp lại khoảng một hai phút thì rám vàng bên dưới. Khi đó, bánh sẽ được cạy ra, quết một chút mỡ hành hay mỡ hẹ, rồi ụp lại với một bánh khác thành từng cặp. Bánh căn bao giờ cũng ăn theo cặp. Cặp bánh căn sẽ được thả vào chén mắm nước hoặc mắm nêm pha loãng, dầm với một trái ớt chín đỏ vỏ mỏng. Dân Phan Rang còn ăn bánh căn với nước cá kho.

Ăn bánh căn không thể ăn nhanh vì muốn ăn nhanh cũng không có mà ăn. Thường mọi người sẽ ngồi quanh lò, ăn cặp bánh của mình xong thì có quyền đưa đũa lên miệng mút nước mắm mà chờ đến lượt bánh tiếp theo. Càng đông người ăn thì chờ càng lâu. Chờ càng lâu thì ăn càng ngon, càng nôn đến lượt mình để được cắn miếng bánh nóng giòn trong miệng, lẩn quất mùi thơm của khuôn đất nung, vị béo nhẹ nhàng của mỡ hành và mùi cay thơm của giống ớt đặc biệt ở Đơn Dương. 

Bánh căn đặc biệt ngon khi ăn vào những buổi chiều trời bắt đầu tối, sương bắt đầu xuống và cái lạnh cao nguyên bắt đầu len lỏi vào thịt da, vừa ăn vừa xuýt xoa bên bếp than hồng. Bánh căn cũng đặc biệt ngon khi ăn vào khuya, khi hầu hết mọi người đã đi ngủ, các ngôi nhà đã đóng kín cửa, chỉ có chị hàng bánh căn cần mẫn ngồi đổ bánh bên ngọn đèn dầu phục vụ những kẻ thèm ăn khuya. Bánh căn, suy cho cùng chỉ là bột gạo nướng ăn với nước mắm, sang cả hơn thì kèm xíu mại hay trứng, vậy mà dân Đơn Dương xa quê ai cũng nhớ. Cho đến thời củi quế gạo châu như bây giờ, đãi người yêu ăn một chầu bánh căn no căng bụng ở Đơn Dương vẫn không quá hai chục ngàn. 

Thế cho nên, hôm nay, khi nhìn thấy quán Kul Deli treo bảng bánh căn đặc sản Phan Rang, tôi rẽ vào ngay tắp lự. Cô bé phục vụ nhanh nhảu chìa menu cơm văn phòng cho tôi. Tôi khẽ khàng: Này em, hình như có bánh căn? Cô bé bảo dạ có, bánh căn bán từng phần 5 cái. Tôi hỏi 5 cái hay 5 cặp. Cô bé khẳng định 5 cái. Tôi thắc mắc ăn mấy dĩa mới đủ. Cô bé bảo một dĩa là đủ rồi anh. Ừ thì một dĩa, cho anh một dĩa. Vài phút sau, trước mặt tôi có hai chén, một chén nước mắm pha và một chén kia hình như là một loại tương đậu, một rổ rau gồm nhiều xà-lách, rau đắng, rau quế và có trời mới biết là rau gì nữa, và một dĩa gồm 5 cái bánh căn. 5 cái bánh được xếp vòng tròn trên dĩa, giữa mỗi cái thấy cộm lên hai khoanh mực ống và một con tôm. Điểm xuyết cho vòng tròn 5 bánh là một nhúm dưa leo và xoài sống xắt sợi. A ha, bánh căn là đây!

Tôi nhìn dĩa bánh căn và nghĩ về sự chuyển dịch của các vùng miền. Tôi nhìn dĩa bánh căn và nghĩ về đô thị hóa. Tôi nhớ trong Chiếc Lexus và cây Olive, tác giả Thomas Friedman kể chuyện khi đến một quốc gia lạ, gọi một món ăn tưởng quen, thì sẽ có được một thứ đáng kinh ngạc. Để có được trải nghiệm đó, cần gì phải đi từ nước nọ sang nước kia. Ngay ở Việt Nam thôi, người Sài Gòn ra Huế kêu bún bò thì phàn nàn bún bò Huế sao mà lạ lẫm, còn những người Hà Nội chân chính thì nhất quyết không nhận phở Sài Gòn làm anh em với phở kinh thành. Một món ăn đi từ vùng này sang vùng nọ trong cùng một nước đã trải qua bao nhiêu thay đổi, có khi chỉ để vừa lòng thực khách địa phương. Món bánh căn dân dã quê tôi, để trèo lên bàn một quán ăn ở trung tâm Sài Gòn, đã phải cõng thêm những tôm, những mực và bao nhiêu loại rau xa lạ. 

Nói cho công bằng, món bánh căn ở Kul Deli không dở. Nó chỉ không đúng so với kinh nghiệm của tôi. Có thể với nhiều người khác nó sẽ ngon hoặc rất ngon, hoặc ít ra cũng mang đến cho thị dân Sài Gòn một chút hương xa. Còn với tôi, dĩa bánh căn này trông cũng giông giống bánh căn, chỉ hiềm nỗi cái tinh thần đã mất. 

---------
Hình ảnh và bài viết về bánh căn bên nhà Chị Ba Đậu, một người đồng hương và bạn từ thuở thiếu thời của tôi.

Thứ Tư, 31 tháng 10, 2007

Mùa thu đi lạc xuống phương Nam

Nghĩ ra cái title rõ hay, mà bây giờ bảo ngồi viết những cái như thế này thì chịu. Cho dẫu trời Sài Gòn đẹp, nắng Sài Gòn vàng, cây Sài Gòn xanh, người Sài Gòn lâng lâng. Là một bài viết cũ, rất cũ, ngày xưa viết theo đơn đặt hàng....

Lạ lắm, Sài Gòn...

(Nguyên văn phải có thêm câu: "Viết cho người em gái phương xa". Em gái phương xa bây giờ đã có một anh chồng to đùng rùi, hì hì.)

Mới đó mà đã mười năm kể từ ngày anh đặt chân đến thành phố này. Mười năm anh sống với thành phố luôn ồn ào nhộn nhịp diệu kỳ này. Mười năm mở cửa ra đường thấy toàn xe. Mười năm xuôi ngược cùng dòng sống luôn tuôn trào của thành phố. Thành phố đã cưu mang anh, đã dạy anh lớn lên và cũng không ngần ngại quất vào anh những nhát roi đau rát. Thành phố đã dang tay đón anh, một cách phóng khoáng và hào hiệp như đón bao người con từ mọi miền đất nước.

Phóng khoáng và hào hiệp có lẽ là đặc tính lớn nhất của thành phố phương Nam đầy nắng này. Có bao người đã đến và ở lại đây. Ba trăm năm trước chúa Nguyễn đã đến đây, những người nông dân phương Bắc đã đến đây. Cái ngang tàng của sông nước, cái hồn hậu của rừng, cái trù phú của thiên nhiên nói chung đã biến những người nông dân ăn chắc mặc bền phương Bắc thành những người miền Nam chất phác và phóng khoáng.

Thành phố bây giờ ngày càng đông đúc nhưng vẫn đủ chỗ cho tất cả mọi người. Người ta vẫn tiếp tục đổ về. Sinh viên ra trường ở lại. Bé Ba, Bé Bảy, thằng Tý thằng Tèo cũng vào đây đánh giày, bán mì gõ, hàng rong, thợ may hoặc giúp việc. Đông đúc kéo theo phức tạp. Tệ nạn cũng lắm. Lừa lọc và phản trắc cũng nhiều. Nhưng vẫn còn đó tính hào hiệp và lòng nhân ái. Năm nào, ở nơi nào bị bão, lụt thì cũng chính thành phố này đi đầu về đóng góp cứu trợ. Sự no đủ và dồi dào tiện nghi không làm thui chột lòng nhân.

Anh đã nói với em về sự phóng khoáng và hào hiệp. Anh còn muốn nói với em về một nét đặc trưng nữa của thành phố này. Đó là tính đa dạng. Về văn hoá, con người và cảnh quan.

Sàì Gòn không bé bé xinh xinh như Hà Nội. Sài Gòn không thâm trầm rêu phong như Huế. Sài Gòn không phải là Hà Nội, không phải Huế, nhưng có Hà Nội, có Huế và những miền quê khác trong lòng Sài Gòn.

Một sớm tháng chạp, mùa thu đi lạc xuống phương Nam, em sẽ thấy lấp lánh khắp các nẻo đường, áo khoác, áo len đủ màu. Em hãy cùng anh ra vỉa hè đường Hàn Thuyên, ngay trước dinh Thống Nhất. Cà phê nhé? Nhấm một chút cà phê, nghe vị đắng lâng lâng đầu lưỡi, em sẽ thấy trời sao đẹp thế và đời sao đẹp thế. Hàng cây trước mắt sao xanh thế và con đường này vắng thế. Không khí trong lành và ẩm dịu. Thật lạ, con đường này ngay trung tâm, bên kia là Lê Duẩn và Đồng Khởi tấp nập xe. Vậy mà đây sao quá chừng thanh bình và yên ắng, như một góc Hà Nội vậy...

Chiều nay, trời mưa lay phay. Mưa dai dẳng đến sốt ruột. Đúng kiểu "Trời mưa ở Huế sao buồn thế - Cứ kéo dài ra đến mấy ngày". Trùm áo mưa lên em, mình sẽ ra đường Hoàng Sa mới mở chừng ba năm nay bên bờ kênh Nhiêu Lộc. Ở đó có quán Thuận An. Có bánh khoái, bánh bèo tôm tươi, bún bò, có chè hạt sen và trà gừng thật nóng. Nhấm nháp hương vị cố đô, nghe chủ quán mời ăn chả, ăn nem bằng giọng Huế chính tông, thật không gì bằng .

Và Sài Gòn những đêm mùa hè nóng bức. Đâu cũng nóng. Sao mình không đi ăn kem Panorama? Toà nhà 33 tầng cao nhất thành phố. Bấm thang máy, vù lên đỉnh. Chao, đông quá. Nhưng rồi mình cũng tìm được chỗ ngồi bên cửa sổ. Nhìn xuống dưới kia đi em. Những dòng ánh sáng không ngớt tuôn trào. Thành phố về đêm sống động và rực rỡ đến không ngờ.

Sài Gòn lạ lắm em a, cái gì cũng có. Sấu chua Hà Nội, vải thiều Hưng Yên, bưởi Vĩnh Long, thanh long Phan Thiết, trăm nghìn thức. Sài Gòn có những con đường xấu xí và đầy khói bụi nhưng cũng có những con đường nho nhỏ rợp bóng cây. Sài Gòn náo nhiệt và ồn ào nhưng lại có những quán cà phê chỉ dăm bảy bộ bàn ghế nằm sâu trong hẻm, nơi Carpenters hay Louis Armstrong chỉ được mở khe khẽ, mọi lời nói tiếng cười hơi to đều trở nên sỗ sàng. Sài Gòn có những trung tâm thương mại sầm uất bán đủ thứ trên đời, mà cũng có vô số tiệm sách cũ, sách úa màu chồng chất. Sài Gòn có những cửa hàng thời trang long lanh, xập xình những thứ nhạc nhạt nhẽo và kinh dị, mà cũng có một cửa hàng cũ kỹ bé tí, chuyên bán đĩa Jazz, classic, nơi mà khách hàng phải khép nép xin mua, còn chủ nhân thì sẵn sàng gắt gỏng kiểm tra trình độ nghe nhạc của người mua...
Sài Gòn như thế đấy em. Lạ lắm...

Thứ Hai, 8 tháng 10, 2007

Từ điển Bắc - Nam



Từ điển Bắc - Nam
Những ai đã từng sống ở cả Sài Gòn (tiêu biểu cho miền Nam) và Hà Nội (tiêu biểu cho miền Bắc) sẽ không khó mà nhận ra rằng từ vựng Sài Gòn và Hà Nội khác nhau khá nhiều. (Mình không sống ở Hà Nội, nhưng có một người Hà Nội sống trong nhà mình, thường gọi là vợ – khi âu yếm thì gọi là “con vợ”. Chẳng hạn: Con vợ ơi, tối nay con vợ cho anh ăn món gì? Vợ sẽ dẫu môi bảo: Em đâu phải con pet của anh!. Đề cập đến vợ đây nhá, không có thằng độc mồm độc miệng nói mình viết blog chả thấy nói gì đến vợ!) Chẳng hạn quán café ở Sài Gòn, kêu cho anh nâu nóng nhé, là mấy cô phục vụ sẽ ngớ người ra, anh nóng hả, em lấy khăn lạnh cho anh nha. Còn ra Hà Nội, vào quán mà gọi bạc xỉu có khi mấy cô phục vụ tưởng anh muốn xỉu. Nếu như bạn không phải là người lịch duyệt, kinh nghiệm giao hợp (i.e. giao lưu hợp tác) nhiều, đi lại nhiều, thì bạn sẽ nhiều phen thấy mình lost in translation ngay trên đất nước mình
Về cái khoản khác biệt ngôn ngữ này, mình thì cứ rằng là kinh nghiệm đầy mình (kính nghiệm giao lưu hợp tác). Ngày xưa nhờ cãi nhau với vợ về vụ đĩa-dĩa, dĩa-nĩa mà sau được vợ! (Đấy, lại đề cập đến vợ đấy nhé!). Lúc đấy, mình gân cổ cãi nhau với cô nàng rằng anh đọc sách nhiều nhé, anh nghe đài địch nhiều nhé, từ miền Bắc nào anh cũng biết. Cái chén thì gọi là cát bát, cái gọi là bát ô tô, cái dĩa gọi là cái đĩa, chứ làm gì có chuyện cái nĩa gọi là cái dĩa. Định phỉnh anh à (i.e. Tính gạt anh hả)? Cô nàng tức lắm, sau phải huy động thêm mấy người Hà Nội gốc 3 đời nữa đến làm đồng minh. Rốt cuộc (i.e. cuối cùng) mình cũng phải chịu người Hà Nội gọi cái nĩa là cái dĩa, nhưng cô nàng kia thì phải chịu (đựng) mình!
Hai vợ chồng nhiều lúc băn khoăn không biết mai mốt sẽ dạy con từ miền Bắc hay từ miền Nam. Miền Bắc hay miền Nam có khi sẽ còn tùy trong nhà miền nào thắng thế. Trong lúc chưa miền nào thắng thế, hai vợ chồng tạm thời thỏa hiệp sẽ dạy cho con nói cả hai. Ví dụ thế này như vầy:
Xê tránh ra cho mẹ ủi là đồ quần áo!
Ba giăng mắc mùng màn rồi, con đi ngủ đi.
Em xắt thái thịt nhỏ bé ra giùm giúp anh để anh làm cơm rang chiên Dương Châu.
Con đi học ngoan nhé nha, chiều ba tới đến đón rước con
Cẩn thận coi chừng làm vỡ bể mấy cái cốc ly.
Nói chung tình hình sẽ hơi bị phức tạp.
Hiện tại, con gái Alpha chưa nói được, nhưng đã nghe hiểu nhiều. Mẹ nói “Thơm mẹ cái nào”, còn ba nói “Hun ba một cái đi” thì cả ba và mẹ đều được thơm hun ướt mèm cả mặt. Sau này con gái lớn, có khi con có thể soạn được Từ điển Bắc – Nam.