Thứ Năm, 22 tháng 11, 2012
Enright nói về truyện Fat của Carver
Thứ Ba, 4 tháng 9, 2012
Raymond Carver - Một tiểu sử văn chương (trích)
Thứ Hai, 13 tháng 8, 2012
Một mối chân tình với Raymond Carver
Thứ Hai, 8 tháng 8, 2011
Tên entry dành cho độc giả
Thứ Sáu, 8 tháng 7, 2011
Mười hai lời khuyên về nghệ thuật viết truyện ngắn
12) Đọc những cuốn sách này (tức là một số sách Bolano đã liệt kê ở trên, trong đó có Borges và Edgar Poe - Bolano đặc biệt ngưỡng mộ Edgar Poe, nói rằng chỉ cần đọc Edgar Poe là quá đủ) và đọc Chekhov và Raymond Carver. Một trong hai là nhà văn viết truyện ngắn xuất sắc nhất mà thế kỷ này đã sản sinh ra.
Thế kỷ này là thế kỷ 20.
Thứ Ba, 10 tháng 5, 2011
Carver trả lời phỏng vấn
PV: Vậy những câu chuyện của ông xuất phát từ đâu? Tôi đặc biệt muốn hỏi tới những truyện ít nhiều có liên quan đến uống rượu?
Carver: Loại văn chương tôi quan tâm nhất có là loại có tham chiếu đến thế giới thực. Dĩ nhiên, không câu chuyện nào của tôi thực sự diễn ra. Nhưng luôn có cái gì đó, thành tố nào đó, điều gì tôi nghe được hay chứng kiến, đó có thể là chỗ khởi đầu. Đây là một ví dụ: “Đó là Giáng sinh cuối cùng mà anh còn có bao giờ phá hỏng!” Tôi nghe câu nói đó khi say, nhưng tôi nhớ. Và sau này, mãi về sau này, khi tỉnh, chỉ dùng mỗi câu nói đó và những điều khác mà tôi tưởng tượng, tưởng tượng chính xác đến nỗi chúng có lẽ đã diễn ra, tôi dựng thành một truyện - “Một cuộc nói chuyện nghiêm túc.” Nhưng loại văn mà tôi quan tâm hơn cả, cho dù đó là văn của Tolstoy, Chekhov, Barry Hannah, Richard Ford, Hemingway, Isaac Babel, Ann Beattie, hay Anne Tyler, là loại khiến tôi có cảm tưởng trong chừng mực nào đó nó là tự truyện. Ít nhất thì nó có dẫn chiếu. Dù dài hay ngắn, truyện không sinh ra từ không khí loãng. Tôi nhớ một cuộc trò chuyện có mặt John Cheever. Chúng tôi ngồi quanh bàn cùng vài người nữa ở Iowa City và ông chợt bình luận rằng sau một trận cãi cọ tưng bừng ở nhà ông tối nọ, sáng hôm sau ông dậy vào nhà tắm để tìm gì đó thì thấy con gái ông đã viết lên gương bằng son môi “Ba ơ-ơ-i, đừng bỏ tụi con.” Ai đó ở bàn lên tiếng nói, “Tôi nhận ra tình tiết này trong một trong những truyện của ông.” Cheever nói, “Chắc vậy. Mọi thứ tôi viết đều là tự truyện.” Dĩ nhiên điều đó không đúng về nghĩa đen. Nhưng mọi thứ ta viết, trong chừng mực nào đó, đều có tính tự truyện. Tôi không hề phiền lòng với văn hư cấu “tự truyện.” Ngược lại là đằng khác. Trên đường. Celine. Roth. Lawrence Durrell trong Bộ tứ tiểu thuyết Alexandria. Rất nhiều bóng dáng Hemingway trong những truyện về Nick Adam. Cả Updike nữa, tôi chắc thế. Jim McConkey. Clark Blaise là nhà văn đương đại mà văn hư cấu của ông là tự truyện một trăm phần trăm. Dĩ nhiên, bạn phải biết bạn đang làm gì khi bạn biến chuyện đời bạn thành văn chương. Bạn phải cực kỳ can đảm, rất khéo, giàu óc tưởng tượng và sẵn lòng kể mọi thứ về bản thân. Bao nhiêu lần bạn đã được nghe bảo rằng khi còn trẻ bạn hãy viết về những thứ bạn biết, mà bạn biết gì rõ hơn ngoài những bí mật của chính bạn. Nhưng trừ khi bạn là một nhà văn ưu hạng, một tay rất cừ khôi, thật nguy hiểm khi cứ viết hết cuốn này đến cuốn nọ về Chuyện Đời Tôi. Một mối nguy lớn, hay ít ra là một quyến rũ lớn, đối với nhiều nhà văn là tự truyện quá mức trong cách tiếp cận văn chương hư cấu của họ. Tốt nhất là một ít tự truyện và thật nhiều tưởng tượng.
PV: Thói quen viết của ông như thế nào? Có phải lúc nào ông cũng viết truyện?
Carver: Khi viết được, tôi viết hằng ngày. Thật dễ chịu khi điều này xảy ra. Một ngày vắt sang ngày kế. Đôi khi thậm chí tôi không biết thứ trong tuần. John Ashbery gọi đó là “những ngày guồng quay”. Khi không viết, như hiện giờ, khi tôi bận rộn với công việc giảng dạy như thời gian qua, tôi thấy cứ như thể là tôi chưa bao giờ viết ra một chữ nào hay chưa bao giờ có khát khao viết. Tôi sa vào những thói quen xấu. Tôi thức khuya và ngủ nướng thật lâu. Nhưng cũng được. Tôi học cách kiên nhẫn và đợi thời cơ. Tôi đã phải học điều đó từ rất lâu rồi. Kiên nhẫn. Nếu tôi tin vào cung, tôi ngờ rằng cung của tôi phải là cung con rùa. Tôi viết túc tắc. Nhưng khi viết, tôi dành nhiều thời gian ở bên bàn viết, mười, mười hai, mười lăm giờ liền tù tì, ngày này sang ngày nọ. Tôi thích như vậy, khi chuyện đó diễn ra. Hầu hết thời gian làm việc này, phải hiểu là, dành cho sửa chữa và viết lại. Không nhiều thứ làm tôi khoái hơn việc cầm truyện đi lòng vòng quanh nhà một lúc rồi sửa đi sửa lại. Tôi làm thơ cũng y như vậy. Tôi chẳng vội vàng gì gửi bài đi ngay sau khi viết, và đôi khi tôi giữ nó ở nhà hàng tháng vầy vọc nó, thêm chỗ này bớt chỗ kia. Viết bản thảo đầu tiên của một truyện chẳng lâu lắm, thường chỉ ngồi một buổi là xong, nhưng sữa chữa các bản khác nhau của một truyện thì mất kha khá thời gian. Tôi sửa chữa cỡ chừng hai mươi đến ba mươi bản thảo cho một truyện. Không bao giờ ít hơn mười hay mười hai bản thảo. Ta vừa học hỏi được nhiều vừa được khích lệ tinh thần khi nhìn những bản thảo đầu tiên của các nhà văn lớn. Tôi nghĩ tới những bức ảnh về những bản in thử của Tolstoy, ví dụ về một nhà văn thích sửa chữa bản thảo. Ý tôi là, tôi không biết ông có thích làm vậy không, nhưng ông sửa chữa rất nhiều. Ông luôn luôn sửa chữa, ngay từ lúc là bản in thử trang. Ông đọc và viết lại Chiến tranh và Hòa bình tám lần và vẫn còn tiếp tục sửa chữa ở nhà in. Những chuyện thế này hẳn khích lệ mọi nhà văn mà bản thảo đầu tiên kinh khủng, như của tôi.
Thứ Hai, 9 tháng 5, 2011
Trong ấy có lửa
Thứ Sáu, 6 tháng 5, 2011
Linh tinh viết (không phải viết linh tinh)
Chui qua nhà NL thấy cái này, không phải bạn NL viết, mà là ông nào cũng chả biết là ông nào, bình luận tại sao Jonathan Franzen sẽ không bao giờ viết được một cuốn sách khác đáng đọc. Franzen là tác giả hai cuốn tiểu thuyết bán chạy đồng thời được các nhà phê bình cũng đánh giá cao Freedom và The Corrections. Ông này, tên là Scott Esposito, phát biểu thế khi đọc thấy Franzen trả lời trong một lần phỏng vấn rằng Franzen viết tiểu thuyết đặc biệt dành cho người đọc hôm nay, bởi vì ông biết ông ấy phải giành giật người đọc với đầu máy và trò chơi video. Scott Esposito bình rằng người ta không thể nào sáng tạo ra nghệ thuật bằng cách cố qua mặt văn hóa đại chúng trên sân chơi của nó.
***
Chủ đề nhà văn viết cho người đọc nào là một chủ đề khá thú vị. Tôi đoán các nhà văn nghiêm túc đều có một đối tượng độc giả nhất định trong đầu khi viết, cho dù đó là độc giả có thực hay độc giả lý tưởng. Trong bài Nhà văn viết cho ai? Pamuk trả lời ông viết cho cái thiểu số những người đọc văn chương trên toàn thế giới. Độc giả lý tưởng của John Updike là một cậu thiếu niên ở một thị trấn nhỏ miền trung tây nước Mỹ tìm thấy sách của ông trên kệ sách thư viện. John Cheerver viết cho tầng lớp độc giả trưởng thành và thông minh. Còn Raymond Carver, ngoài việc mong muốn độc giả của mình là những người đọc tử tế, còn viết cho những nhà văn đã chết mà ông ngưỡng mộ và những nhà văn đang sống mà ông thích đọc, vì nếu những nhà văn đó thích tác phẩm của ông thì rất có thể những độc giả thông minh cũng thích.
***
Tôi rất tò mò muốn có lần phỏng vấn các nhà văn Việt Nam xem thử khi viết họ nghĩ rằng họ đang hướng tới đối tượng độc giả nào. Nhưng đừng nói là "viết cho chính mình" (thì giấu vào tủ ấy, phô ra làm gì) hay "viết để giải tỏa" (khiếp nhất, cứ như không giải tỏa được thì sẽ vỡ bụng) nhé.
PS: Entry này được viết cho các nhà văn có đọc blog này:)
Thứ Năm, 16 tháng 12, 2010
A news is a news is a news is a news
Thứ Tư, 8 tháng 9, 2010
Hễ sướng thì hét lên

Blog, có khi tốt hơn cái loa phường. Cứ rêu rao thích cái này cái nọ thế nào cũng có người tặng cái này cái nọ. Đang suy nghĩ có nên rao thích một chiếc Porsche không?
Quyển trên kia, mới được một bạn tặng, mang tận từ Pháp về. Rất vui và rất sướng. Hễ sướng thì hét lên.
Lẽ ra sẽ là Collected Prose của Auster nhưng đã có chú Dejavous nhanh nhảu nhượng lại rồi. Nên ra cuốn này. Dù được tặng thì thực lòng rất ngại nhưng thực lòng cũng nghĩ rằng đây là một hành vi rất nên được khuyến khích các bạn ạ:)
Cảm ơn người tặng!
Thứ Sáu, 6 tháng 8, 2010
Demo
Demo thôi, kẻo có bác bảo mua bản quyền rồi đấy, đừng có post lung tung:)
-----------------------
Tôi có thể nghe tiếng họ ngoài bếp. Tôi không nghe rõ họ nói gì, nhưng tôi biết họ đang cãi nhau. Rồi đột nhiên im lặng và mẹ bắt đầu khóc. Tôi thúc George một cùi chỏ. Tôi tưởng nó sẽ thức dậy và nói gì đó với họ để họ cảm thấy tội lỗi và thôi đi. Nhưng George là một con lừa. Nó bắt đầu đạp và càu nhàu.
“Mày có thôi chọt tao không, đồ chó chết,” nó nói. “Tao nói cho mày biết.”
“Thằng ngu,” tôi nói. “Mày có khôn lên một lần được không? Họ đang đập nhau và mẹ khóc kìa. Nghe đi.”
Nó lắng nghe, đầu trượt khỏi gối. “Tao đếch quan tâm,” nó nói và quay vào tường ngủ tiếp. George là một con lừa thượng hạng.
Lúc sau tôi nghe tiếng bố ra khỏi nhà bắt xe buýt. Ông đóng sầm cửa trước. Trước đây mẹ đã bảo tôi ông muốn làm cái gia đình này tan nát. Tôi đã không muốn nghe.
Một lúc sau mẹ vào phòng gọi chúng tôi dậy đi học. Giọng mẹ nghe buồn cười - tôi không biết nữa. Tôi nói tôi thấy đau bụng. Đó là tuần đầu tiên của tháng mười và tôi chưa nghỉ học ngày nào, vậy thì mẹ có thể nói gì? Mẹ nhìn tôi, nhưng cứ như bà đang nghĩ ngợi chuyện gì khác. George đã thức giấc và lắng nghe. Tôi biết nó đã thức bằng vào cái cách nó ngọ nguậy trong giường. Nó đang chờ xem kết quả thế nào để còn tính kế.
“Thôi được”. Mẹ lắc đầu. “Mẹ chẳng biết thế nào. Vậy thì ở nhà. Nhưng không được bật tivi, nhớ đấy.”
George nhổm dậy. “Con cũng ốm,” nó nói với mẹ. “Con nhức đầu. Nó chọt và đạp con cả đêm. Con không ngủ được tí nào.”
“Đủ rồi!” mẹ nói. “Con phải đi học, George! Con không được ở đây và cãi nhau với em con cả ngày. Bây giờ dậy mặc quần áo. Mẹ nói thật. Sáng nay mẹ không muốn có thêm một trận chiến nữa đâu.”
George đợi đến khi mẹ ra khỏi phòng. Rồi nó trèo ra phía chân giường. “Đồ chó chết,” nó nói và giật tấm đắp khỏi người tôi. Nó lỉnh vào phòng tắm.
“Tao giết mày,” tôi nói, không quá to để mẹ khỏi nghe.
Tôi nằm trong giường cho đến lúc George đi học. Khi mẹ chuẩn bị đi làm, tôi hỏi mẹ có thể trải chỗ nằm cho tôi trên sofa được không. Tôi nói tôi muốn học bài. Trên bàn uống trà tôi có cuốn sách của Edgar Rice Burroughs quà sinh nhật của tôi và sách môn Khoa học xã hội. Nhưng tôi chả muốn đọc. Tôi muốn mẹ đi làm để tôi còn coi tivi.
Mẹ giật nước toa-lét.
Tôi không thể chờ thêm được nữa. Tôi bật tivi lên mà không mở tiếng. Tôi đi ra bếp chỗ mẹ để gói thuốc rút ba điếu ra. Tôi giấu chúng trong tủ ly, quay lại sofa và bắt đầu đọc cuốn Công chúa sao Hỏa. Mẹ đi ra liếc qua tivi nhưng không nói gì. Tôi để mở cuốn sách. Mẹ chải tóc trước gương rồi đi vào bếp. Khi mẹ đi ra tôi nhìn xuống cuốn sách.
“Mẹ muộn rồi. Bye con.” Mẹ không nhắc nhở gì đến chuyện tivi. Đêm qua mẹ bảo mẹ không còn biết đi làm mà không bị “quậy” có nghĩa gì nữa.
“Đừng nấu nướng gì nhé. Con không cần phải bật bếp lên làm gì. Nếu con đói thì có cá ngừ trong tủ lạnh.” Mẹ nhìn tôi. “Nhưng con đang đau bụng, mẹ nghĩ con không nên ăn gì. Dù gì thì con không cần phải bật bếp. Nghe chưa? Con uống viên thuốc đó, con trai, và mẹ hy vọng đến tối bụng con sẽ ổn hơn. Có khi đến tối cả nhà đều thấy ổn hơn.”
Mẹ đứng ở lối ra vào và vặn quả đấm. Trông mẹ như thể định nói gì khác. Mẹ mặc áo trắng, thắt lưng đen rộng bản, và váy đen. Đôi khi mẹ bảo đó là đồ đi chơi, đôi khi mẹ bảo đó là đồng phục. Trong chừng mực mà tôi còn nhớ được, nó luôn được treo trong tủ hoặc trên dây phơi hoặc được giặt tay vào ban đêm và được ủi trong nhà bếp.
Mẹ đi làm từ thứ tư đến Chủ nhật.
“Bye mẹ.”
Tôi chờ mẹ khởi động xe và làm nóng máy. Tôi nghe tiếng mẹ đánh xe khỏi lề đường. Rồi tôi ngồi dậy vặn tivi to lên và đi lấy thuốc. Tôi hút một điếu và xóc lọ trong khi xem một show về bác sĩ và y tá. Rồi tôi bật sang kênh khác. Rồi tôi tắt tivi. Tôi chả có hứng xem tivi.
Chủ Nhật, 18 tháng 7, 2010
Chuông reo là giật bắn
Mang dép lê, vận pi-ja-ma và áo choàng ngủ, anh lao vội khỏi phòng làm việc khi điện thoại bắt đầu reng. Vì lúc đó đã hơn 10 giờ, hẳn phải là vợ anh gọi. Đêm nào xa nhà, cô cũng điện thoại tầm này, sau khi uống vài ly. Cô là người phụ trách mua hàng, và cả tuần nay cô đi công tác.
“ A lô, em à,” anh nói. “A lô,” anh lặp lại.
“Đây là ai?” một phụ nữ hỏi.
“Hừm, đây là ai?” anh nói. “Chị muốn gọi số nào?”
“Đợi một phút,” người phụ nữ nói. “Số 273-8063.”
“Đó là số của tôi,” anh nói. “Sao chị có số này?”
“Tôi không biết. Tôi làm về và thấy nó ghi trên một mẩu giấy nhỏ," người phụ nữ nói.
“Ai ghi?”
“Tôi không biết,” người phụ nữ nói. “Chắc là cô trông trẻ. Hẳn là cô ấy.”
“Hừm, tôi không biết làm thế nào mà cô ấy có số của tôi,” anh nói, “nhưng đây là số của tôi, và tôi không đăng ký danh bạ. Chị có thể vứt nó giùm tôi được không? A lô? Chị có nghe không?”
“Có, tôi có nghe,” người phụ nữ nói.
“Còn gì nữa không?” anh nói. “Đã khuya và tôi đang bận.” Anh không có ý nói chuyện cộc lốc, nhưng người ta không thể mạo hiểm. Anh ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh điện thoại và nói, “Tôi không có ý nói chuyện cộc lốc. Ý tôi chỉ là đã khuya và tôi hơi lo ngại làm thế nào tình cờ chị có số tôi.” Anh thả dép ra và bắt đầu xoa xoa bàn chân, đợi câu trả lời.
“Tôi cũng không biết,” cô nói. “Tôi đã bảo anh tôi chỉ thấy số điện thoại được ghi lại, không có thêm dòng nào cả. Mai gặp Annette - tức là cô giữ trẻ - tôi sẽ hỏi. Tôi không có ý quấy rầy anh. Tôi chỉ thấy mảnh giấy thôi. Từ lúc đi làm về đến giờ lúc nào tôi cũng ở trong bếp.”
“Không sao,” anh nói. “Quên nó đi. Chỉ cần vứt nó đi và quên nó đi. Không có chuyện gì đâu, chị không phải lo.” Anh chuyển ống nghe từ tai này sang tai kia.
“Anh có vẻ là người dễ mến,” người phụ nữ nói.
“Thế à? Ừm, chị quá lời.” Anh biết giờ anh nên gác máy, nhưng nghe một giọng nói, kể cả giọng chính mình, trong căn phòng yên ắng khiến anh thấy hay hay.
“Ồ, vâng,” cô nói. “Tôi dám chắc.”
Anh buông bàn chân ra.
“Nếu anh không phiền liệu tôi có thể biết tên anh?” cô nói.
“Tôi tên Arnold,” anh nói.
“Và tên gọi thường của anh là gì?” cô nói.
“Tên gọi thường của tôi là Arnold,” anh nói.
“Ôi, xin lỗi,” cô nói. “Arnold là tên gọi thường của anh. Còn họ, Arnold? Anh họ gì?”
“Thực sự tôi phải gác máy,” anh nói.
“Arnold, thôi mà, tôi là Clara Holt. Bây giờ anh tên là Ông Arnold gì nữa?”
“Arnold Breit,” anh nói và vội thêm, “Clara Holt. Hay đấy. Nhưng tôi thực sự nghĩ là tôi phải gác máy, cô Holt. Tôi đang đợi điện thoại.”
“Xin lỗi, Arnold. Tôi không định làm mất thời gian của anh,” cô nói.
“Không sao,” anh nói. “Rất vui nói chuyện với chị.”
“Cảm ơn anh.”
“Chị giữ máy một phút được không?” anh nói. “Tôi kiểm tra cái này một chút.” Anh vào phòng làm việc lấy một điếu xì gà, mồi bằng hộp quẹt để bàn, rồi bỏ kính ra và ngắm mình trong gương qua lò sưởi. Khi quay lại chỗ để điện thoại, anh ngỡ rằng cô đã gác máy.
“A lô?”
“A lô, Arnold,” cô nói.
“Tôi tưởng chị đã gác máy.”
“Ồ, không,” cô nói.
“Về việc chị có số tôi đấy,” anh nói. “Không phải lo gì. Chỉ vứt nó đi thôi.”
“Tôi sẽ vứt, Arnold,” cô nói.
“Rồi, bye nhé.”
“Vâng, tất nhiên,” cô nói. “Chúc ngủ ngon.”
Anh nghe tiếng cô thở hắt.
“Tôi biết là tôi đường đột, Arnold, nhưng anh nghĩ liệu ta có thể gặp nhau đâu đó nói chuyện chút chăng? Chỉ vài phút thôi.”
“Tôi e không thể,” anh nói.
“Chỉ một phút, Arnold. Việc tôi tìm thấy số của anh và tất cả mọi sự. Tôi có cảm giác mãnh liệt về chuyện này, Arnold.”
“Tôi già rồi,” anh nói.
“Ồ, làm gì,” cô nói
“Thật đấy, tôi già mà,” anh nói.
“Liệu ta có thể gặp nhau đâu đó, Arnold. Anh biết không, tôi chưa kể cho anh hết. Còn chuyện khác nữa,” người phụ nữ nói.
“Ý chị là gì? ” anh nói. “Chính xác việc này là gì? A lô?”
Cô đã gác máy.
Khi anh sửa soạn đi ngủ, vợ anh gọi, anh đoán chị có vẻ hơi say, và họ tán chuyện một hồi, nhưng anh không đả động gì đến cuộc gọi kia. Lúc sau, khi anh đang kéo tấm phủ giường xuống, điện thoại lại reo.
Anh bắt máy. “A lô, Arnold Breit nghe đây.”
“Arnold, xin lỗi anh điện thoại bị ngắt. Như tôi nói lúc nãy, tôi nghĩ việc chúng ta gặp nhau quan trọng đấy.”
Chiều hôm sau khi đang tra chìa vào ổ khóa, anh nghe tiếng điện thoại reng. Anh bỏ cặp xuống, và vẫn nguyên mũ, áo khoác và găng, vội vàng đến bên bàn nhấc ống nghe.
“Arnold, xin lỗi lại quấy rầy anh,” người phụ nữ nói. “Nhưng anh phải đến nhà tôi đêm nay tầm chín giờ chín rưỡi. Anh có thể làm thế vì tôi, Arnold?”
Tim anh xáo động khi nghe cô gọi tên mình. “Tôi không thể làm thế,” anh nói.
“Đi nào, Arnold,” cô nói. “Thật sự quan trọng nếu không tôi đã không nài nỉ. Tôi không thể ra khỏi nhà tối nay vì Cheryl bị cảm lạnh và giờ tôi đang lo lây cho thằng bé.”
“Còn chồng chị đâu?” Anh đợi câu trả lời.
“Tôi không có chồng,” chị nói. “Anh sẽ đến chứ, phải không?”
“Tôi không hứa,” anh nói.
“Tôi xin anh đến," cô nói rồi vội đọc cho anh địa chỉ nhà rồi gác máy.
“Tôi xin anh đến,” anh nhắc lại, vẫn còn cầm điện thoại. Anh chậm rãi tháo găng tay và rồi áo khoác. Anh cảm thấy phải thận trong. Anh đi rửa tay. Khi nhìn vào gương nhà tắm, anh nhận ra mình vẫn đội mũ. Chính lúc đó anh quyết định sẽ gặp cô, và anh bỏ mũ và kính ra rồi xát xà phòng lên mặt. Anh xem lại móng tay mình.
“Anh chắc đúng đường này?” anh hỏi người tài xế.
“Đúng con đường này và tòa nhà kia kìa,” người tài xế nói.
“Đi tiếp,” anh nói. “Cho tôi xuống phía cuối block nhà.”
Anh trả tiền cho người tài xế. Đèn từ những khung cửa sổ phía trên rọi sáng các ban công. Anh có thế nhìn thấy những chậu cây mắc trên các thanh chắn ban công và đây đó một vài bộ bàn ghế ngoài trời. Ở một ban công nọ một người đàn ông to cao mặc áo gió tì trên thành ban công dõi theo anh khi anh đi về phía cửa.
Anh nhấn cái nút bên dưới chữ C.HOLT. Chuông reo, và anh quay lại về phía cửa và bước vào. Anh thong thả leo cầu thang, ngừng để nghỉ một chút tại mỗi chiếu nghỉ. Anh nhớ cái khách sạn ở Luxemburg, năm cái tầng lầu mà anh và vợ từng leo cách đây nhiếu năm. Anh cảm thấy đau đột ngột bên hông, mường tượng tim anh, mường tượng chân anh khụyu lại, mường tượng một cú ngã nặng xuống chân cầu thang, Anh rút khăn tay ra và lau trán. Rồi anh tháo kính và lau tròng, đợi tim mình ổn định trở lại.
Anh ngó xuốnh sảnh. Khu căn hộ rất im ắng. Anh dừng trước cửa nhà cô, bỏ mũ ra, và gõ nhẹ. Cửa hé mở, một cô bé tròn trĩnh mặc pi-ja-ma thò ra.
“Bác là Arnold Breit?” cô bé hỏi.
“Đúng rồi,” anh nói. “Mẹ cháu có nhà không?”
“Mẹ cháu nói cho bác vào nhà. Mẹ cháu nói bảo với bác rằng mẹ ra hiệu thuốc mua xi-rô ho và aspirin.”
Anh khép cánh cửa sau lưng. “Cháu tên gì? Mẹ cháu có nói với bác, nhưng bác quên khuấy mất.”
Cô bé không nói gì nên anh thử một lần nữa.
“Cháu tên gì? Có phải là Shirley?”
“”Cheryl,” cô bé nói. “C-h-e-r-y-l.”
“À , giờ bác nhớ ra rồi. Mà bác nhớ cũng gần đúng, cháu có thấy thế.”
Cô bé ngồi trên một chiếc đôn bên kia phòng và nhìn anh.
“Vậy ra là cháu ốm, phải không?” anh hỏi.
Cô bé lắc đầu.
“Không ốm à?”
“Không,” cô bé đáp.
Anh nhìn quanh. Căn phòng được chiếu sáng bằng một cây đèn góc ánh sáng vàng thân có gắn một gạt tàn lớn và một giá để tạp chí. Một cái ti vi đế áp bức tường phía xa, đang mở, volume nhỏ. Một hành lang hẹp dẫn ra phần phía sau căn hộ. Lò sưởi được mở, không khí quẩn mùi thuốc men. Kẹp tóc và uốn tóc lăn lóc trên bàn uống trà, một cái áo choàng tắm màu hồng vắt trên ghế sô-pha.
Anh nhìn đứa bé lần nữa, rồi hướng mắt về phía bếp và những cánh cửa kính từ bếp ra ban công. Những cánh cửa chỉ khép hờ, và một luồng ớn lạnh thoáng qua người anh khi anh nhớ lại người đàn ông to cao mặc áo gió.
“Mẹ chỉ đi ra ngoài một chút,” đứa bé nói, như thể vừa đột ngột tỉnh giấc.
Anh nghiêng người về trước đè lên mấy ngón chân, mũ cầm tay, và nhìn cô bé. “Bác nghĩ là bác nên đi,” anh nói.
Có tiếng chìa xoay trong ổ khóa, cánh cửa bật ra, và một phụ nữ nhỏ người, xanh tái, nhiều tàn nhang bước vào tay cầm một túi giấy.
“Arnold! Rất mừng được gặp anh!” Cô liếc nhìn anh, vẻ hơi lo lắng, và lúc lắc đầu một cách lạ lùng trong lúc cầm túi đi vào bếp. Anh nghe tiếng cửa tủ bếp sập lại. Đứa bé ngồi trên chiếc đôn nhìn anh chăm chú. Anh khụy một chân, dồn trọng lượng trên chân này xong lại đổi sang chân kia, rồi đặt mũ lên đầu và lại bỏ mũ ra khi người phụ nữ quay lại.
“Có phải anh là bác sĩ?” cô hỏi.
“Không,” anh đáp, ngỡ ngàng. “Không, không phải.”
“Cheryl ốm, anh thấy đấy. Em ra ngoài mua mấy thứ. Sao con không cất áo khoác của ông này?” cô quay sang bảo đứa bé. “Bỏ qua cho nó. Bọn em không quen có khách.”
“Tôi phải đi đây,” anh nói. “Thật sự tôi không nên đến đây.”
“Anh ngồi xuống đi,” cô nói. “Chúng ta không thể đứng nói chuyện thế này. Để em cho con bé uống thuốc trước. Rồi chúng ta nói chuyện.”
“Thật sự tôi phải đi,” anh nói. “Nghe giọng chị, tôi tưởng có việc gấp. Nhưng thật sự tôi phải đi.” Anh nhìn xuống tay và nhận thức anh đang lóng ngóng.
“Em sẽ đặt nước pha trà,” anh nghe cô nói, như thể cô chẳng hề lắng nghe anh. “Rồi em cho Cheryl uống thuốc, và rồi chúng ta có thể nói chuyện.”
Cô tóm vai đứa bé và lùa nó vào bếp. Anh thấy người phụ nữ cầm một cái thìa lên, mở một chai gì đấy sau khi ngó qua nhãn, rồi rót hai thìa.
“Nào, giờ con chúc ông Breit ngủ ngon, con gái, rồi vào phòng nhé.”
Anh gật đầu chào đứa bé và sau đó theo người phụ nữ vào bếp. Anh không ngồi xuống cái ghế mà cô chỉ, thay vào đó cái đối diện ban công, hành lang và cái phòng khách nhỏ. “Tôi có thể hút xì gà được chứ,” anh hỏi.
“Anh cứ hút,” cô nói. “Em nghĩ nó sẽ không làm phiền em, Arnold. Hút đi.”
Anh quyết định không hút. Anh đặt hai tay lên gối và làm ra một vẻ mặt nghiêm túc.
“Chuyện này với tôi vẫn còn rất bí ẩn,” anh nói. “Nó khá không bình thường, tôi bảo đảm với chị.”
“Em hiểu, Arnold,” cô nói. “Chắc anh muốn nghe em kể chuyện làm thế nào em có số của anh.”
“Đúng là tôi muốn nghe,” anh nói.
Họ ngồi đối diện nhau chờ nước sôi. Anh nghe tiếng ti vi. Anh ngó quanh bếp rồi lại nhìn ra ban công. Nước bắt đầu sủi tăm.
“Chị định kể về về chuyện số điện thoại,” anh nói.
“Gì, Arnold? Xin lỗi,” cô nói.
Anh hắng giọng. “Kể tôi nghe chuyện làm thế nào chị có số của tôi,” anh nói.
“Em hỏi Annette. Cô trông trẻ ấy - nhưng dĩ nhiên là anh biết rồi. Dù sao, cô ấy kể điện thoại reng lúc cô ấy ở đây và có ai đó tìm em. Họ để số cho em gọi lại, và số cô ấy ghi lại hóa ra là số anh. Em chỉ biết đến thế.” Cô di cái cốc vòng quanh trước mặt. “Xin lỗi em không có gì hơn để kể.”
“Nước sôi rồi kìa,” anh nói.
Cô lấy thìa, sữa, đường ra và rót nước sôi lên túi trà.
Anh thêm đường và khuấy trà. “Chị nói có chuyện gấp nên tôi phải đến.”
“Ồ, chuyện đó, Arnold,” cô nói, quay mặt đi. “Em không biết cái gì khiến em nói vậy. Em không tưởng ra được em đã nghĩ gì.”
“Vậy không có gì à?” anh nói.
“Không. Ý em là có.” Cô lắc đầu. “Điều mà anh nói, ý em thế. Không có gì.”
“Tôi hiểu,” anh nói. Anh tiếp tục khuấy trà. “Bất thường,” một lúc sau anh nói, gần như với chính mình. “Khá bất thường.” Anh mỉm cười yếu ớt, rồi đẩy cốc trà sang một bên và lấy khăn giấy chậm môi.
“Anh không định đi đấy chứ?” cô hỏi.
“Tôi phải đi,” anh nói. “Tôi đợi một cuộc điện thoại ở nhà.”
“Gượm đã, Arnold.”
Cô đẩy ghế ra sau và đứng dậy. Đôi mắt cô xanh nhạt, nằm sâu trên gương mặt xanh tái của cô và có những viền tối bao quanh mà thoạt tiên anh tưởng là trang điểm. Sợ hãi chính mình, biết sẽ tự ghét mình về việc này, anh đứng dậy vụng về vòng tay quanh eo cô. Cô thả người để được hôn, chớp chớp mắt rồi thoáng khép mi lại.
“Muộn rồi,” anh nói, buông cô ra, loạng choạng xoay đi. “Chị thật tử tế. Nhưng tôi phải đi, bà Holt ạ. Cảm ơn vì đã mời trà.”
“Anh sẽ đến đây nữa chứ, phải không, Arnold?” cô hỏi.
Anh lắc đầu.
Cô theo anh ra cửa, khi đó anh chìa tay ra. Anh có thể nghe tiếng ti vi. Anh đoan chắc volume đã được chỉnh tăng. Anh chợt nhớ đến đứa trẻ kia - thằng bé. Nó đã ở đâu?
Cô cầm tay anh, vội nâng lên môi. “Anh không được quên em đấy, Arnold.”
“Tôi sẽ không quên,” anh nói. “Clara, Clara Holt,” anh nói.
“Chúng ta đã chuyện trò vui vẻ,” cô nói. Cô gẩy một cái gì đó, một sợi tóc, hay một sợi chỉ, trên cổ áo anh. “Em rất mừng vì anh đã đến đây, và em cảm thấy chắc chắn anh sẽ quay lại”. Anh nhìn cô thật kỹ, nhưng bây giờ cô đang ngó mông lung như thể cô đang gắng nhớ việc gì. “Giờ thì - chúc ngủ ngon, Arnold,” cô nói, cùng lúc cô đóng sập cửa, suýt kẹt cả áo khoác anh.
“Lạ lùng,” anh nói khi bắt đầu bước xuống cầu thang. Anh hít một hơi dài khi anh xuống tới lề đường và ngừng trong chốc lát để nhìn lại tòa nhà. Nhưng anh không thể xác định được đâu là ban công nhà cô. Người đàn ông cao lớn mặc áo gió tì người trên ban công hơi nhúc nhích và tiếp tục nhìn xuống anh.
Anh bắt đầu cuốc bộ, hai tay thọc sâu trong túi áo khoác. Khi về đến nhà, chuông điện thoại đang reo. Anh đứng im lìm giữa phòng, mân mê chìa khóa giữa các ngón tay cho đến khi chuông ngừng reo. Rồi, khẽ khàng, anh đặt một tay lên ngực và cảm thấy tim anh thình thịch sau những lớp áo. Một lát sau anh đi vào phòng ngủ.
Gần như ngay sau đó điện thoại lại réo vang, và lần này anh bắt máy. “Arnold. Arnold Breit nghe đây,” anh nói.
“Arnold? Ối trời, tối nay ta khách khí thế!” vợ anh nói, giọng sang sảng, vẻ đùa cợt. “Em đã gọi liên tục từ chín giờ. Chơi bời tận hưởng tự do hả Arnold?”
Anh cứ im lặng và nghĩ ngợi về giọng của vợ.
“Arnold, anh còn đó chứ?” cô nói. “Nghe có vẻ không giống anh tí nào.”