Hiển thị các bài đăng có nhãn raymond carver. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn raymond carver. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 22 tháng 11, 2012

Enright nói về truyện Fat của Carver

"Fat" ("Béo") là truyện đầu tiên trong tập Em làm ơn im đi, được không? Nhiều người không thích truyện này lắm. Bản thân tôi cũng không thích truyện này bằng những truyện khác trong tập, ví dụ, "Có phải anh là bác sĩ?", "Họ đâu phải chồng em", hay "Còn cái này thì sao?" Tuy nhiên, Anne Enright, tác giả của Họp mặt, lại rất thích truyện này. Bà nói về truyện này như sau:


“Béo” là một ví dụ tuyệt  vời về một truyện ngắn chẳng cần phải làm gì nhiều nhặng để gây ra tác động- có thể nói là miệng vết thương rất nhỏ nhưng hậu quả thì thật là chết người. Như nhiều truyện khác của Raymond Carver, truyện này có vẻ rất đơn giản. Một cô hầu bàn không được nêu tên kể cho bạn mình, Rita, chuyện cô phục vụ cho một ông khách hàng béo ú. Cô thích ông ta, bất chấp vòng bụng của ông ấy. Cô thích phục vụ cho ông. Mối quan hệ của họ, mặc dù bình thường, ngắn ngủi, và trịnh trọng, lại khá dịu dàng - và, như một chuyện tình, nó diễn ra bất chấp sự phản đối của phần còn lại của thế giới. Cái tình yêu nho nhỏ mà cô hầu bàn cảm nhận được - khoảnh khắc cảm thông dành cho ông khách béo - trở nên thật lạ lùng khi sau đó vào buổi tối, nằm trên giường với Rudy,bạn trai của mình, cô hầu bàn mơ mòng về  một thay đổi  cồn cào, đầy hy vọng.

Tôi thường yêu cầu sinh viên đọc truyện “Béo” bởi vì dường như truyện này cũng nói về một truyện [ngắn] là như thế nào. Một truyện [ngắn] là điều gì đó được kể lại - như cô hầu bàn kể cho cô bạn Rita của mình về ông khách béo - đó là một điều gì thực sự phải được nói ra. Nhưng mặc dù ta cảm nhận được sức mạnh và âm vang của nó, thường rất khó nói được rằng một truyện [ngắn] có ý nghĩa gì. Có lẽ ta chỉ có thể nói  rằng một truyện ngắn là một khoảnh khắc của đời sống; và rằng, sau khoảnh khắc ấy, ta nhận ra một điều gì đó đã thay đổi.


Thứ Ba, 4 tháng 9, 2012

Raymond Carver - Một tiểu sử văn chương (trích)

Những đoạn dưới đây trích trong bài Biographical Essay của giáo sư William L. Stull tóm tắt cuộc đời và sự nghiệp của Raymond Carver. Bài này nguyên bản tiếng Anh khoảng 8.500 từ, tôi dịch ra tiếng Việt khoảng 9.500 từ. Tôi dịch trọn bài này đã lâu, nay đọc lại thấy nhiều sai sót. Tuy nhiên, không có thời gian chỉnh sửa, nên tôi chỉ post lại ở đây một số đoạn trích nhằm cung cấp thêm thông tin cho những ai quan tâm đến nhà văn viết truyện ngắn của Mỹ được đánh giá là hay nhất từ sau Hemingway và được gọi là Chekhov của người Mỹ.



-------------

Trong cuộc sống, trong nghệ thuật và ngay cả trong cái chết, người có nhiều điểm tương đồng, người thầy và người đồng điệu với Raymond Carver là Anton Chekhov. Cũng như Chekhov (1860 - 1904), người đã phải ở đợ đến khi được ông của mình mua về, còn cha có một tiệm tạp hóa nhưng phá sản, Raymond Carver là con của một gia đình lao động nghèo. Cha ông, Clevie Raymond Carver, lái xe hỏa tuyến Arkansas – Washington trong thời kỳ hạn hán những năm 1930. Clevie Raymond Carver sau trở thành thợ giũa cưa trong một trại cưa và là một người nghiện rượu mất năm 53 tuổi. Vợ ông, Ella Casey Carver, người không xa lạ gì với nạn bạo hành gia đình, phụ giúp thu nhập gia đình bằng nghề hầu bàn và bán cửa hàng. Raymond Clevie Carver, tên thân mật là Junior, Frog và Doc sinh ngày 25 tháng 5 năm 1938 ở Clatskanie, Oregon, một thị trấn chuyên đốn gỗ khoảng bảy trăm dân bên bờ sông Columbia. Cả gia đình quay lại Washington năm 1941, và Carver lớn lên ở Yakima, thành phố trung tâm với hai mươi ngàn dân của “Vựa trái cây quốc gia ”, thung lũng trù phú phía đông Cascades.

Carver là đứa con muộn màng của thời kỳ Đại suy thoái, nên khá lâu sau thời kỳ thịnh vượng hậu chiến nhà ông vẫn chưa có toa-lét trong nhà. Bài thơ Shiftless (1986) của ông mô tả điều kiện kinh tế thời thơ ấu của ông: “Những người giàu hơn chúng tôi thì thoải mái... – Những người nghèo hơn chúng tôi thì thảm hại và chẳng làm gì”. Giống như Chekhov, Carver hiểu rõ cuộc sống bấp bênh cực nhọc và nghèo khó nhờ đó ông viết nên những thiên truyện rạng rỡ về sự thấu cảm, hiểm nguy và sự chật vật khẳng định. Nhiều năm sau ông nói về những người lao động và người phục vụ quê kệch vốn làm nên lớp công chúng ngầm của ông: “Họ là nhân vật của tôi. Không bao giờ tôi có thể coi thường họ được.”
[......]

Chekhov hẳn là chia sẻ [với Carver]. Mười chín tuổi ông chuyển từ tỉnh lẻ Taganrog lên Moscow và gánh vác cái gia đình nghèo túng của mình. Mặc dù là sinh viên y khoa chính quy, “Papa Antosha” vẫn kiếm đủ tiền nhờ vào việc viết những hài kịch ngắn cho những tuần báo phổ thông. Trong thư đề ngày 10 tháng 5 năm 1986, ông đề ra những hướng dẫn cho cái mà các nhà phê bình bảo thủ một thể kỷ sau gọi là truyện mini: “(1) không nhiều lời về chính trị - kinh tế - xã hội”; (2) khách quan xuyên suốt; (3) mô tả nhân vật và sự vật một cách chân thật; (4) cực ngắn; (5) táo bạo và tránh khuôn sáo ; (6) nhiệt thành.” Làm việc dưới những điều kiện tương tự với “trách nhiệm gắn chặt và thường xuyên bị phân tán”, Carver tìm thấy ở Chekhov sự tương hợp về châm ngôn làm việc, và trong những năm 1960 và 1970 ông tái sáng tạo ra truyện ngắn theo phong cách Chekhov. Trong quá trình này ông đã đặt nền tảng cho sự hồi sinh của chủ nghĩa hiện thực trong những năm 1980. Không lâu sau khi Carver qua đời, tiểu thuyết gia Douglas Uner nhận định: “Về mặt văn chương, truyện của Carver hiện hữu như một hình mẫu cho sự phục sinh của truyện ngắn”.

Ít ai sẽ phản đối nhận định của Carver về Chekhov rằng “Chekhov là nhà văn viết truyện ngắn vĩ đại nhất trong lịch sử”. Cũng không ai nghi ngờ đánh giá của Charles May đưa ra trong tác phẩm A Chekhov Companion (1985) rằng Raymond Carver là nhà văn đương đại mang chất Chekhov nhiều nhất. Với tư cách là nghệ sĩ và tư cách con người, cuộc sống cả hai có nhiều nét tương đồng. Bi kịch là sự tương đồng ấy hội tụ trong năm 1988 khi Carver theo chân Chekhov sớm vướng vào căn bệnh tiêu biểu của thời đại mình. Trong trường hợp của Chekhov căn bệnh đó là lao phổi, khiến ông qua đời ở tuổi bốn mươi bốn. Trong trường hợp của Carver đó là chứng ung thư phổi. Nhà văn từng tự mô tả mình là “điếu thuốc có thân người đính kèm” mất vào ngày 2 tháng 8, hai tháng sau sinh nhật thứ năm mươi. Hai năm trước đó tiểu thuyết gia Robert Stone đã gọi Carver “nhà văn Mỹ viết truyện ngắn xuất sắc nhất kể từ Hemingway”. Phát biểu tại lễ tang của Carver ngày 22 tháng 9 ở New York City, ông còn ca tụng Carver hơn thế nữa. Mượn lời từ chính một bài tiểu luận của mình về Chekhov, Stone gọi Carver là “người hùng nhận thức”.

[...]
Sinh nhật thứ năm mươi của Carver đến thật nhanh, trong tháng năm ông nhận được môt số danh hiệu. Những vinh dự này gồm một bài ca ngợi về nghệ thuật sáng tạo của Đại học Brandeis, bằng tiến sĩ văn chương danh dự của Đại học Hartford, và được kết nạp vào Viện Hàn Lâm Nghệ Thuật và Văn Chương Hoa Kỳ. Cũng trong tháng năm, Where I’m Calling From (Từ Nơi Mình Đang Gọi), tuyển tập những truyện mới của ông được Atlantic Monthly Press xuất bản. (Tập Elephant - Voi gồm bảy truyện mới nhất của ông ngay sau đó được xuất bản ở Anh ngày 4 tháng 7). Where I’m Calling From nhận được sự chú ý nồng nhiệt từ bờ Đông sang bờ Tây, bao gồm việc lên trang nhất của tạp chí New York Times Book Review. Quan trọng hơn, sự nhìn lại quá trình sáng tác này đã khiến các nhà phê bình đánh giá lại sự nghiệp và tiếng tăm của Carver. Mặc dù được thừa nhận rộng rãi là “một trong những cây bút truyện ngắn xuất sắc nhất của thời đại chúng ta”, ông bị dán cái nhãn “người theo chủ nghĩa tối giản”, một nhãn hiệu phiến diện không đúng với tinh thần tác phẩm của ông. Where I’m Calling From, gồm ba mươi bảy truyện viết trong vòng hai mươi lăm năm, cho thấy cái được gọi là chủ nghĩa tối giản của Carver là không đúng. David Lipsky viết trên tờ National Review (số ngày 5/8/1988) “Carver không phải là người theo chủ nghĩa tối giản mà là người theo chủ nghĩa chính xác”. Các nhà điểm sách trên Washington Post, San Francisco ChroniclePhụ Trương Văn của tạp chí Times cũng đồng tình. Trên Houston Chronicle số ra ngày 19/6/1988, Roger K. Anderson nhận xét: “Rõ ràng Carver là một bậc thầy. Nhưng giờ đây một tinh thần phóng khoáng mới là cái không thể nhầm lẫn. Đạt được đến mức này có lẽ là đỉnh cao sự nghiệp của ông – một mức độ mới của sự tĩnh lặng.”

[...]

Carver là con một người thợ thủ công, và văn chương của ông phát triển theo những giai đoạn của việc đào tạo một thợ thủ công. Sau khi chuyển gia đình từ Yakima đến Paradise, California, năm 1958, ông ghi danh học trường Chico State College. Ở đó, ông bắt đầu học viết với một người chẳng bao lâu sau sẽ nổi tiếng đó là John Gardner, “nhà văn thật sự” đầu tiên mà ông từng gặp. Trong lời mở đầu cho cuốn On Becoming a Novelist (Về Việc Trở Thành Tiểu Thuyết Gia) của John Gardner, Carver nhớ lại: “Anh đưa cho tôi chìa khóa vào văn phòng của anh. Bây giờ tôi coi món quà đó là một bước ngoặt! Thêm vào đó, Gardner phê bình học trò của mình “sát rạt, từng dòng một”, và dạy cho ông một hệ giá trị “không thể thương lượng được”. Trong số những giá trị này, giá trị về niềm tin là cái mà Carver theo cho đến lúc mất. Cũng như Gardner trong tác phẩm On Moral Fiction (Về Tiểu Thuyết Luân Lý -1978) đã chỉ trích tính “hư vô chủ nghĩa” của chủ nghĩa hình thức hậu hiện đại, Carver cho rằng văn chương vĩ đại là phải kết nối với cuộc sống, khẳng định cuộc sống và thay đổi cuộc sống. Ông viết “trong những truyện hay nhất, nhân vật trung tâm, người hùng cũng là nhân vật “chuyển dịch”, là người mà một điều gì đó xảy ra với anh ta trong truyện làm nên một thay đổi. Một điều gì đó diễn ra và làm thay đổi cái cách nhân vật nhìn chính mình và thế giới”. Từ những năm 1960 đến 1970, ông khuấy động chiều rộng của “ngôi nhà vui” siêu tiểu thuyết do Barth, Barthelme va những người cùng chí hướng dựng nên, thay vì tập trung vào cái mà ông gọi là “những yếu tố căn bản của cách kể chuyện kiểu cũ: cốt truyện, nhân vật, và hành động”. Cũng như Gardner và Chekhov, Carver tự gọi mình là một nhà nhân văn học. Ông khẳng định: “ Nghệ thuật không có nghĩa là tự thể hiện, mà là sự giao tiếp”.

Đầu tiên dưới sự hướng dẫn của Gardner rồi sau đó là Giáo sư Richard C. Day của Humboldt State College, Carver bắt đầu viết truyện. Những truyện đầu tiên, sau này được sửa chữa và đưa vào tập Will You Please Be Quiet Please (Em làm ơn im đi, được không? - 1976) và Furious Seasons and Other Stories (Những mùa dữ dội và những truyện khác - 1977) cho thấy ông đang tìm kiếm giọng điệu của mình dưới ảnh hưởng của những nhà văn đi trước. Truyện xuất bản đầu tiên của ông, Furious Seasons (Những Mùa Dữ Dội - Tuyển, Mùa Đông 1960-1961) là một thử nghiệm kéo dài tính đa thanh của Faulkner. Truyện kế tiếp, The Father (Người Cha – tạp chí Toyon, mùa xuân 1961) một dạng truyện tiết chế kiểu Kafka chưa tới 500 từ. Cũng như các nhà văn khác thuộc thế hệ mình, Carver bị cuốn vào quỹ đạo của Hemingway. Năm 1963, năm ông tốt nghiệp trường Humboldt State, do dự giữa tôn kính và nổi loạn, ông cho đăng cả hai truyện, một truyện bắt chước Hemingway, Pastoral (Truyện Đồng Quê - Western Humanities Review, Mùa đông 1963) và một truyện giễu nhại giải cấu trúc The Aficionados (Toyon, Mùa xuân 1963)
[...]

Carver tìm thấy nhịp điệu của mình. Như Michael Koepf viết năm 1981, “Có một sự trong sáng kiểu Chekhov trong truyện của Carver nhưng cũng có cảm quan kiểu Kafka rằng có gì đó sai lầm kinh khủng đằng sau hậu trường”. Tuy vậy, trong những năm 1960, Carver thực hành những cách thức và phong cách khác. Năm 1963 - 1964 ông học một năm tại Trại viết văn Iowa. (Do thiếu tiền ông đã không thể học năm thứ hai để xong bằng MFA). Năm 1966 ông đăng trên tạp chí December một truyện dài theo phong cách của James Will You Please Be Quiet, Please mà Martha Foley đưa vào trong Những Truyện Ngắn Hay Nhất Hoa Kỳ 1967. Ông thử sức với phong cách văn chương cổ điển (Poseidon and Company – Thần Poseidon và bạn bè, tạp chí Toyon, mùa xuân 1963) và huyễn tưởng (Bright Red Apples - Táo Đỏ Tươi, tạp chí Gato, mùa hè 1967). Ông thử nghiệm phong cách người trần thuật không đáng tin cậy, ngôi thứ nhất kể lại theo phong cách của Sherwood Anderson và khuynh hướng khu vực của Hemingway.
[....]

Chắc chắn rằng đỉnh cao của những năm tháng của con người thạo việc Carver phải là Will You Please Be Quiet, Please? Xuất bản tháng 3 năm 1976 dưới dấu ấn mới của Gordon Lish, tập truyện gồm hai mươi hai truyện nhằm mục đích giới thiệu môt nhà văn “có tầm ảnh hưởng đang tăng” với công chúng. Tập truyện thành công một cách đáng ngưỡng mộ, mang lại cho Carver đề cử National Book Award (Giải thưởng sách quốc gia) năm 1977, cùng năm, tập truyện thứ hai của ông Furious Seasons được nhà xuất bản Capra ấn hành. Nhưng sự thật là cuộc đời bí mật của chính tác giả đã đưa sự nghiệp của ông đến một điểm lặng. Sống tách rời khỏi vợ con, Carver bốn lần phải nằm viện vì nghiện rượu trong thời gian 1976-1977. “Tôi chết dần vì nghiện rượu, tẻ nhạt và đơn giản”, về sau ông nói, “tôi không phóng đại đâu”.
[...]


Tuy nhiên nhìn lại, tập truyện được biết đến nhiều nhất của Raymond Carver thật ra lại là cuốn sách kém tiêu biểu nhất của ông. Với ông, “chủ nghĩa tối giản” thiết yếu của tập What We Talk About When We Talk About Love đánh dấu không phải là một đích đến mà là một bước ngoặt. Sau này ông nói: “Chỉ cần tiến thêm một chút nữa theo hướng ấy là tôi sẽ bế tắc.” Những gì diễn ra trong hai năm sau đó là một khúc quanh nghệ thuật, “một khởi đầu” mà qua đó ông phục hồi và mở rộng những tác phẩm mà ông đã tỉa gọt dưới ảnh hưởng của biên tập viên Lish, “lý thuyết về cắt bỏ” của Hemingway và hứng thú thanh tẩy của chính ông. Hai tập sách nhỏ, FiresIf It Please You thể hiện kết quả của quá trình này. Thêm vào đó, Carver viết hơn chục truyện mới theo một giọng điệu cao hơn, nhiều hy vọng hơn. Truyện đầu trong số này, Cathedral (tạp chí Atlantic Monthly, tháng 9/1981), ông cho là “hoàn toàn khác về quan niệm và phương cách thực hiện so với” những tác phẩm trước của ông
[...]

Cathedral mang lại cho ông đề cử giải Pulizer và Giải của các nhà phê bình sách toàn quốc. Quan trọng hơn, nó đánh dấu sự trưởng thành của ông từ trường học của Godon Lish. Như Jonathan Yardley viết trên Washington Post (4/9/1983): "Những truyện trong Cathedral đã cho thấy rõ rằng Carver đã từ bỏ phong cách tối giản để sang một phong thái rộng mở hơn, bao hàm hơn và rộng lượng hơn." Mặc dù các nhà điểm sách kém sắc sảo hơn mất nhiều năm sau để ghi nhận sự thật này, những ngày thạo việc của Carver đã qua, cũng như khúc đệm xét lại của ông. Với Cathedral, ông tuyên bố sự độc lập của mình với tư cách một bậc thầy. Trong 5 năm còn lại của mình, ảnh hưởng bên ngoài duy nhất đối với tác phẩm của ông là Gallagher và Chekhov.




Thứ Hai, 13 tháng 8, 2012

Một mối chân tình với Raymond Carver


Khoảng năm 2003 - 2004, tôi nhận được email từ anh TA, lúc ấy là biên tập viên của e-Van Tinh thần thế giới: “T có hứng thì dịch giùm anh vài truyện của Carver, theo anh là tay viết truyện ngắn số một hiện giờ.” Tìm hiểu, tôi mới biết Carver chết từ đời tám hoánh, nên không rõ ý anh TA “hiện giờ” là hiện giờ nào. Tuy vậy, tôi rất ấn tượng với hai truyện “Dreams” và “Kindling” nên bắt tay vào dịch. Sau đấy, tôi dịch tiếp cho e-Van khoảng 3-4 truyện khác của Carver và một số bài tiểu luận về ông. Những bài này bây giờ đã bay hết cùng cơ sở dữ liệu cũ eVan cũ. eVan cũ chết, tôi không cộng tác với eVan mới, nhưng thời gian ấy tôi nhờ người  quen từ Úc mang về được hai tập Will you please be quiet, please?Cathedral. Tôi đọc mỗi tập vài truyện, rồi bỏ đấy. Thành thực mà nói, lúc ấy tôi không thích Carver trong hai tập này bằng Carver của “Dreams”, “Kindling”, .v.v tức chùm truyện tìm thấy sau khi Carver đã mất. Mãi đến 2009, khi viết blog, thỉnh thoảng tôi lại lôi một truyện của Carver dịch cho vui thì tôi mới thực sự thẩm thấu bút lực của Carver. Ấy thế nhưng tôi lại từ chối một lời mời dịch tập Cathedral, với lý do “để yên cho mình làm luật sư!”  Tôi đã phát thệ là tránh xa con đường dịch dọt, vậy mà rốt cuộc không giữ được lời, y như Kim Địch Tú Tài Dư Ngư Đồng trong Thư kiếm ân cừu lục phát thệ đi tu rồi chẳng những hoàn tục sát sinh mà còn lấy cả vợ nữa! (Mới luyện xong pho này trong mấy ngày nghỉ nên sẽ còn nhắc tới dài dài.)

Năm 2010, trong một cuộc nhậu với  NPV và ĐHP, hai người tỏ ra rất thích những truyện Carver mà tôi đã dịch và khích bác gì gì ấy. Sau lần đó tôi liên hệ với CVD để dịch Carver thì được bảo “Cathedral” đã dịch gần xong rồi. Thời điểm ấy tập Mình nói chuyện gì khi mình nói chuyện tình do Dương Tường và Nguyễn Hạnh Quyên dịch cũng đã phát hành. Ít lâu sau, CVD báo tôi Nhã Nam đã mua bản quyền Will you please be quiet, please? và tôi có thể bắt đầu dịch. Tôi tập trung làm vào các buổi tối và cuối tuần, trong vòng  3 tháng, tức đến tháng 10/2010 thì xong. Ngâm một thời gian, đến tháng 6/2011 thì bản thảo được biên tập hoàn chỉnh.  Chờ mãi, tới giờ rốt cuộc cuốn sách cũng gần ra lò. Theo tin tức trên giang hồ, bản tiếng Việt của Will you please be quiet, please? mà tôi dịch thành Em làm ơn im đi, được không? sẽ được phát hành vào cuối tháng 8. Ngoài lời cảm ơn gửi đến biên tập viên chính thức, một người không xa lạ mà tên của hắn sẽ chình ình trên trang cuối sách, và những người tôi chưa biết hết là những ai giúp cho cuốn sách ra lò, tôi cũng muốn gửi lời cảm ơn đến các biên tập viên không chính thức mà hẳn sẽ không thích bị nêu tên, những người đã giúp tôi hiểu bản tiếng Anh chính xác hơn cũng như rà soát, góp ý phần tiếng Việt - tên các bạn không được ghi trên sách nhưng sẽ được ghi vào tim tôi (sợ chưa? hehe).

Vài hôm nữa, các bạn hãy ra hiệu sách, tìm và mua cuốn Em làm ơn im đi, được không? Xin cảm ơn bạn đã chia vui cùng tôi. Cũng theo đồn đại của giang hồ, cuốn sách này rất thích hợp để đàn ông ve vẩy trước mặt phụ nữ, thay vì phải nói những lời phũ phàng. Còn phụ nữ thì sao? Dĩ nhiên, phụ nữ cũng rất cần hiểu vì sao mình lại bị bảo im đi. :)

Thứ Hai, 8 tháng 8, 2011

Tên entry dành cho độc giả

Trong buồn ngủ vô vàn tôi đọc Murakami. Đây là một trong ba tập truyện ngắn của Murakami trong số năm cuốn sách tôi được một nữ sĩ xinh đẹp tặng và nằm trong hai chồng sách tôi nhận được cuối tuần vừa rồi.  Nữ sĩ này tôi chưa gặp nhưng tôi chắc chắn nàng xinh đẹp. Tất cả những người tặng sách cho tôi đều đẹp. Tặng một cuốn thì đẹp một lần, hai cuốn đẹp hai lần, ba cuốn đẹp ba lần cứ thế mà nhân lên như bảng cửu chương.  Tất nhiên đẹp nhất là vợ tôi do nàng tuy ít khi trực tiếp tặng sách cho tôi nhưng lại để mặc tôi tự ý mua sách mà không phàn nàn chi. (Câu này thêm vào với mục đích phòng thân.) Mà số sách tôi mua tất nhiên ăn đứt số sách được tặng.  Tôi hay toang hoang nên mọi người cứ tưởng tôi được tặng nhiều lắm. Thật ra mỗi năm tôi chỉ được tặng chừng chín chục cuốn là cao.  Cộng với độ mười cuốn mà một số người hứa tặng mà chưa tặng hay hứa trao đổi sách nhưng trao rồi mà chưa thấy đổi thì mới chẵn trăm. Cũng chẳng là bao. Tuy vậy tôi không than phiền gì vì tôi vẫn chủ trương trọng chất chứ không trọng lượng. Những cuốn tôi tàng trữ trong nhà đều là những cuốn ít nhiều tôi thích và đã đọc hoặc tâm niệm là sẽ đọc lúc này hay lúc khác.

Tôi xin nhắc lại tôi đang đọc truyện ngắn Murakami, nhưng vừa nhắc tới Murakami tôi đã lan man sang chuyện tặng sách. Tôi tự ngưng lại ở đó, vì tôi luôn tự ý thức là mình lan man. Nếu cứ thả dàn tôi sẽ lan man tới chuyện răng khôn mọc dại không chừng. "Thả dàn" viết thế nào cho đúng nhỉ. Chính tả tôi ngày càng tệ. Mà trong cái sự vụ này, cũng như cái sự vụ tra cứu ngữ nghĩa, các từ điển tiếng Việt nước nhà không lấy gì hữu ích cho lắm.  Chẳng hạn có một thời tôi đinh ninh “xao lãng” đúng, “sao lãng” sai, giở từ điển ra lại thấy chấp nhận cả hai, thật chẳng biết đường nào mà lần. Các từ điển tiếng Việt lại còn có một điểm rất đáng yêu là bất cứ khi nào băn khoăn về một từ nào, thì y như rằng từ điển không có từ ấy.  Chẳng bù với từ điển tiếng Anh, ôm một bộ Oxford phiên bản mới nhất cộng thêm một bộ Macmillan dưới gối thì có thể ngủ ngon lành.  Hiện tại tôi rất cần một từ điển từ đồng nghĩa, nhưng chẳng kiếm đâu ra. Có bộ Việt ngữ tinh nghĩa từ điển của Nguyễn Văn Minh soạn cẩn thận, nhưng bộ ấy gần gấp đôi tuổi tôi rồi, mà cũng còn nhiều hạn chế.

Tôi xin nhắc thêm một lần nữa tôi đang đọc Murakami, nhưng một lần nữa tôi lại lan man sang chuyện từ điển. Trong lịch sử văn học có một ông bố của lan man là ông Laurence Sterne, tác giả cuốn Tristram Shandy.  Ông này viết một tiểu thuyết gồm 9 quyển, đến quyển thứ ba vẫn kể chưa xong một vụ sinh đẻ, tại vì ông có tài lèm bèm chuyện nọ xọ chuyện kia.  Cuốn này tôi chưa có, cũng chưa đọc, nhưng tôi biết về nó. Kể ra nếu tôi không tự thú khối người sẽ nghĩ tôi đọc rồi. Thật ra có khá nhiều kỹ thuật để gây ấn tượng rằng ta đã đọc một cuốn sách, và có nguyên một cuốn sách bày người ta cách nói về những cuốn sách chưa đọc. Cuốn đó là How to talk about books you haven’t read. Cuốn này tôi có, và đã đọc ngay khi mới rước về với mục đích nhỏ mọn là học cách nói về những cuốn sách chưa đọc. Thật ra cả cuộc sống và thời gian đều hữu hạn, đọc nhiều hay ít sách xét cho cùng cũng chẳng có nghĩa gì lớn, quan trọng là đọc sách có làm ta vui hay không thôi.

Tôi nhận ra đến đây tôi vẫn chưa nói gì về những truyện ngắn Murakami đang đọc. Murakami kể ra rất có duyên với độc giả Việt Nam. Khối tác giả hoành tráng chả bao giờ hoặc rất ít được dịch ở Việt Nam, hoặc có dịch cũng không mấy người biết, nhưng Murakami chắc chỉ còn mỗi 1Q84 chưa dịch. Tiểu thuyết của Murakami tôi có đủ và đã đọc trọn. Truyện ngắn của ông tôi gặp nhiều lần nhưng cứ lần lữa không mua, phần vì tôi ưu ái tiểu thuyết hơn, phần vì cứ đợi có người tặng.  Murakami là người hâm mộ Raymond Carver và từng dịch nhiều truyện của Carver.  Truyện ngắn của ông có phảng phất hơi của Carver, nhất là những đoạn đối thoại. Tuy nhiên, đọc Carver ta có cảm giác không khí bị dồn nén, lúc nào cũng có cái gì đấy chực chờ nổ tung. Truyện Carver luôn cho ta cảm giác bất an, khi một lời chào tạm biệt cũng nặng nề, mà một dấu chấm câu cũng tiềm tàng nguy hiểm.  Truyện ngắn của Murakami lại cho ta cảm giác không khí loãng ra, đôi khi làm ta khó thở, nhưng phần nhiều là thấy cơ thể mình bị kéo giãn.  Truyện ngắn của Murakami có thể đọc hết truyện này sang ngay truyện khác; nếu không buồn ngủ lắm, tôi có thể đọc một mạch hết một tập, trong khi với Carver, người ta cần nhiều thời gian hơn để “hồi phục” trước khi đọc sang một truyện khác.

Phù, lan man một hồi mới nói được đoạn muốn nói. Tạm thế đi, hôm khác lan man tiếp.
  

Thứ Sáu, 8 tháng 7, 2011

Mười hai lời khuyên về nghệ thuật viết truyện ngắn

của Bolano

12) Đọc những cuốn sách này (tức là một số sách Bolano đã liệt kê ở trên, trong đó có Borges và Edgar Poe - Bolano đặc biệt ngưỡng mộ Edgar Poe, nói rằng chỉ cần đọc Edgar Poe là quá đủ) và đọc Chekhov và Raymond Carver. Một trong hai là nhà văn viết truyện ngắn xuất sắc nhất mà thế kỷ này đã sản sinh ra.

Thế kỷ này là thế kỷ 20.

Thứ Ba, 10 tháng 5, 2011

Carver trả lời phỏng vấn



Tiếp tục chuyên đề Carver, dưới đây là trích đoạn Carver trả lời phỏng vấn The Paris Review:


PV:  Vậy những câu chuyện của ông xuất phát từ đâu? Tôi đặc biệt muốn hỏi tới những truyện ít nhiều có liên quan đến uống rượu?

Carver: Loại văn chương tôi quan tâm nhất có là loại có tham chiếu đến thế giới thực. Dĩ nhiên, không câu chuyện nào của tôi thực sự diễn ra. Nhưng luôn có cái gì đó, thành tố nào đó, điều gì tôi nghe được hay chứng kiến, đó có thể là chỗ khởi đầu. Đây là một ví dụ: “Đó là Giáng sinh cuối cùng mà anh còn có bao giờ phá hỏng!” Tôi nghe câu nói đó khi say, nhưng tôi nhớ. Và sau này, mãi về sau này, khi tỉnh, chỉ dùng mỗi câu nói đó và những điều khác mà tôi tưởng tượng, tưởng tượng chính xác đến nỗi chúng có lẽ đã diễn ra, tôi dựng thành một truyện - “Một cuộc nói chuyện nghiêm túc.”   Nhưng loại văn mà tôi quan tâm hơn cả, cho dù đó là văn của Tolstoy, Chekhov, Barry Hannah, Richard Ford, Hemingway, Isaac Babel, Ann Beattie, hay Anne Tyler, là loại khiến tôi có cảm tưởng trong chừng mực nào đó nó là tự truyện. Ít nhất thì nó có dẫn chiếu. Dù dài hay ngắn, truyện không sinh ra từ không khí loãng. Tôi nhớ một cuộc trò chuyện có mặt John Cheever. Chúng tôi ngồi quanh bàn cùng vài người nữa ở Iowa City và ông chợt bình luận rằng sau một trận cãi cọ tưng bừng ở nhà ông tối nọ, sáng hôm sau ông dậy vào nhà tắm để tìm gì đó thì thấy con gái ông đã viết lên gương bằng son môi “Ba ơ-ơ-i, đừng bỏ tụi con.”  Ai đó ở bàn lên tiếng nói, “Tôi nhận ra tình tiết này trong một trong những truyện của ông.” Cheever nói, “Chắc vậy. Mọi thứ tôi viết đều là tự truyện.”  Dĩ nhiên điều đó không đúng về nghĩa đen. Nhưng mọi thứ ta viết, trong chừng mực nào đó, đều có tính tự truyện. Tôi không hề phiền lòng với văn hư cấu “tự truyện.”  Ngược lại là đằng khác.  Trên đường. Celine. Roth. Lawrence Durrell trong Bộ tứ tiểu thuyết Alexandria. Rất nhiều bóng dáng Hemingway trong những truyện về Nick Adam.  Cả Updike nữa, tôi chắc thế. Jim McConkey. Clark Blaise là nhà văn đương đại mà văn hư cấu của ông là tự truyện một trăm phần trăm.  Dĩ nhiên, bạn phải biết bạn đang làm gì khi bạn biến chuyện đời bạn thành văn chương. Bạn phải cực kỳ can đảm, rất khéo, giàu óc tưởng tượng và sẵn lòng kể mọi thứ về bản thân. Bao nhiêu lần bạn đã được nghe bảo rằng khi còn trẻ bạn hãy viết về những thứ bạn biết, mà bạn biết gì rõ hơn ngoài những bí mật của chính bạn. Nhưng trừ khi bạn là một nhà văn ưu hạng, một tay rất cừ khôi, thật nguy hiểm khi cứ viết hết cuốn này đến cuốn nọ về Chuyện Đời Tôi.  Một mối nguy lớn, hay ít ra là một quyến rũ lớn, đối với nhiều nhà văn là tự truyện quá mức trong cách tiếp cận văn chương hư cấu của họ. Tốt nhất là một ít tự truyện và thật nhiều tưởng tượng.

PV: Thói quen viết của ông như thế nào? Có phải lúc nào ông cũng viết truyện?

Carver: Khi viết được, tôi viết hằng ngày. Thật dễ chịu khi điều này xảy ra. Một ngày vắt sang ngày kế. Đôi khi thậm chí tôi không biết thứ trong tuần. John Ashbery gọi đó là “những ngày guồng quay”. Khi không viết, như hiện giờ, khi tôi bận rộn với công việc giảng dạy như thời gian qua, tôi thấy cứ như thể là tôi chưa bao giờ viết ra một chữ nào hay chưa bao giờ có khát khao viết. Tôi sa vào những thói quen xấu. Tôi thức khuya và ngủ nướng thật lâu. Nhưng cũng được. Tôi học cách kiên nhẫn và đợi thời cơ.  Tôi đã phải học điều đó từ rất lâu rồi. Kiên nhẫn. Nếu tôi tin vào cung, tôi ngờ rằng cung của tôi phải là cung con rùa. Tôi viết túc tắc. Nhưng khi viết, tôi dành nhiều thời gian ở bên bàn viết, mười, mười hai, mười lăm giờ liền tù tì, ngày này sang ngày nọ. Tôi thích như vậy, khi chuyện đó diễn ra. Hầu hết thời gian làm việc này, phải hiểu là, dành cho sửa chữa và viết lại. Không nhiều thứ làm tôi khoái hơn việc cầm truyện đi lòng vòng quanh nhà một lúc rồi sửa đi sửa lại. Tôi làm thơ cũng y như vậy. Tôi chẳng vội vàng gì gửi bài đi ngay sau khi viết, và đôi khi tôi giữ nó ở nhà hàng tháng vầy vọc nó, thêm chỗ này bớt chỗ kia. Viết bản thảo đầu tiên của một truyện chẳng lâu lắm, thường chỉ ngồi một buổi là xong, nhưng sữa chữa các bản khác nhau của một truyện thì mất kha khá thời gian. Tôi sửa chữa cỡ chừng hai mươi đến ba mươi bản thảo cho một truyện. Không bao giờ ít hơn mười hay mười hai bản thảo. Ta vừa học hỏi được nhiều vừa được khích lệ tinh thần khi nhìn những bản thảo đầu tiên của các nhà văn lớn.  Tôi nghĩ tới những bức ảnh về những bản in thử của Tolstoy, ví dụ về một nhà văn thích sửa chữa bản thảo. Ý tôi là, tôi không biết ông có thích làm vậy không, nhưng ông sửa chữa rất nhiều. Ông luôn luôn sửa chữa, ngay từ lúc là bản in thử trang. Ông đọc và viết lại Chiến tranh và Hòa bình tám lần và vẫn còn tiếp tục sửa chữa ở nhà in. Những chuyện thế này hẳn khích lệ mọi nhà văn mà bản thảo đầu tiên kinh khủng, như của tôi.

Thứ Hai, 9 tháng 5, 2011

Trong ấy có lửa

Tôi có một trí nhớ tồi.  Nói vậy nghĩa là tôi đã quên bao chuyện xảy ra trong đời - âu cũng là diễm phúc - nhưng có những quãng thời gian dài trong đời mà tôi chẳng thể nhớ chuyện gì đã xảy ra hay hồi tưởng lại,  những thị trấn và thành phố tôi đã sống, tên người, cả chính những người ấy. Những khoảng trống mênh mông. Nhưng tôi có thể nhớ đôi điều. Những điều nho nhỏ - ai nói điều gì đó một kiểu đặc biệt; giọng cười hoang dại, hay khẽ khàng và run rẩy; một phong cảnh; nét buồn hay vẻ ngơ ngác trên gương mặt một người; và tôi có thể nhớ những thứ ác liệt - ai đó cầm dao lên hằm hằm quay sang tôi; hay không thì nghe giọng chính tôi dọa dẫm ai đó. Thấy ai đó phá vỡ một cánh cửa, không thì trượt ngã trên mấy bậc cầu thang.  Những thể loại ký ức oanh liệt đó tôi lại có thể nhớ được khi cần thiết.  Nhưng tôi không có cái thể loại trí nhớ có thể mang toàn bộ một cuộc trò chuyện về hiện tại, hoàn chỉnh cùng với mọi cử chỉ và sắc thái của câu nói thực; cũng như tôi không nhớ nội thất của bất kỳ căn phòng nào tôi từng ở, nói chi tới việc nhớ tới nội thất toàn bộ một căn nhà. Hoặc thậm chí rất nhiều điều cụ thể  về một cuộc đua ngựa - ngoại trừ, xem nào, khán đài, những cửa sổ cá cược, màn hình tivi, đám đông.  Tiếng lào xào. Tôi bịa các cuộc trò chuyện trong truyện của tôi. Tôi sắp các đồ nội thất và những món khác xung  quanh các nhân vật vào trong những câu chuyện của tôi mỗi khi cần chúng.  Có lẽ đây là lý do tại sao đôi khi người ta nói truyện của tôi đơn giản, trần trụi, thậm chí “tối giản”.  Nhưng có lẽ nó chẳng gì khác hơn là sự phối ngẫu chừng mực giữa tính cần thiết và sự thuận tiện khiến tôi viết kiểu truyện mà tôi vẫn viết theo cách của tôi.
Dĩ nhiên, không có câu chuyện nào của tôi thực sự diễn ra - tôi đâu có viết tự truyện - nhưng hầu hết đều có chút tương đồng, dù phảng phất, với những sự kiện hay tình huống trong đời nào đó. Nhưng khi tôi cố nhớ những vật hoặc cảnh trí xung quanh liên quan đến một tình huống truyện (loại hoa nào, nếu có, đã ở đó? chúng có tỏa hương gì không? v.v.) tôi thường bất lực hoàn toàn.  Nên tôi phải bịa ra khi viết - chuyện những người trong truyện nói với nhau, cũng như những việc họ làm khi đó, sau khi nói chuyện này chuyện kia, và chuyện gì diễn ra kế tiếp. Tôi bịa ra những lời họ nói với nhau, dù trong các hội thoại, có thể có vài đoạn vài câu thực tôi từng nghe trong một ngữ cảnh cụ thể vào lúc này hay lúc khác. Thậm chí câu nói đó có thể chính là điểm khởi đầu của truyện.

(Trích Fires - Raymond Carver)


Thứ Sáu, 6 tháng 5, 2011

Linh tinh viết (không phải viết linh tinh)



Chui qua nhà NL thấy cái này, không phải bạn NL viết, mà là ông nào cũng chả biết là ông nào, bình luận tại sao Jonathan Franzen sẽ không bao giờ viết được một cuốn sách khác đáng đọc.  Franzen là tác giả hai cuốn tiểu thuyết bán chạy đồng thời được  các nhà phê bình cũng đánh giá cao Freedom The Corrections. Ông này, tên là Scott Esposito, phát biểu thế khi đọc thấy Franzen  trả lời trong một lần phỏng vấn rằng Franzen viết tiểu thuyết đặc biệt dành cho người đọc hôm nay, bởi vì ông biết ông ấy phải giành giật người đọc với đầu máy và trò chơi video.  Scott Esposito bình rằng người ta không thể nào sáng tạo ra nghệ thuật bằng cách cố qua mặt văn hóa đại chúng trên sân chơi của nó. 


***
Chủ đề nhà văn viết cho người đọc nào là một chủ đề khá thú vị.  Tôi đoán các nhà văn nghiêm túc đều có một đối tượng độc giả nhất định trong đầu khi viết, cho dù đó là độc giả có thực hay độc giả lý tưởng.  Trong bài Nhà văn viết cho ai? Pamuk trả lời ông viết cho cái thiểu số những người đọc văn chương trên toàn thế giới.   Độc giả lý tưởng của John Updike là một cậu thiếu niên ở một thị trấn nhỏ miền trung tây nước Mỹ tìm thấy sách của ông trên kệ sách thư viện.  John Cheerver viết cho tầng lớp độc giả trưởng thành và thông minh.  Còn Raymond Carver, ngoài việc mong muốn độc giả của mình là những người đọc tử tế, còn viết cho những nhà văn đã chết mà ông ngưỡng mộ và những nhà văn đang sống mà ông thích đọc, vì nếu những nhà văn đó thích tác phẩm của ông thì rất có thể những độc giả thông minh cũng thích.


***
Tôi rất tò mò muốn có lần phỏng vấn các nhà văn Việt Nam xem thử khi viết họ nghĩ rằng họ đang hướng tới đối tượng độc giả nào. Nhưng đừng nói là "viết cho chính mình" (thì giấu vào tủ ấy, phô ra làm gì)  hay "viết để giải tỏa" (khiếp nhất, cứ như không giải tỏa được thì sẽ vỡ bụng) nhé.


PSEntry này được viết cho các nhà văn có đọc blog này:)

Thứ Năm, 16 tháng 12, 2010

A news is a news is a news is a news

Cảm giác đọc một tác phẩm trên màn hình và một tác phẩm được in ra bằng giấy vẫn luôn khác nhau.  Đó hẳn là lý do vì sao ta lại vẫn náo nức đi mua cuốn sách mới ra của một nhà văn dù đã đọc mòn tác phẩm của nhà văn đó trên mạng.  Đó cũng là lý do mà mặc dù rất thương yêu những cánh rừng, tôi vẫn cứ phải bỏ tiền ra mua sách in, dù có khi mua về chỉ để nhìn thoáng qua và xếp lên kệ ngắm.

Trong Call If You Need Me  - The Uncollected Fiction and Other Prose của Raymond Carver, có ba truyện tôi đã đọc từ rất lâu trên máy tính, nhưng nay đọc lại trên giấy vẫn thấy thích hơn.  Ba truyện đó cũng là ba truyện mà tôi đã dịch và post trên blog này: Dreams, Kindling và Vandals.  Ba truyện này, cùng hai truyện nữa trong tập là What Would You Like To See và Call If You Need Me (nếu được bác 5xu tài trợ thì sẽ dịch nốt:) là những truyện tìm thấy sau khi Carver mất.  Theo Tess Gallagher, vợ sau của ông, khi viết một truyện Carver thường sửa chữa khoảng ba mươi lần.  Những truyện này có thể chưa qua tới ba mươi lần sửa chữa, nhưng cá nhân tôi thích loạt truyện này hơn cả một số truyện thời kỳ trước.  Những truyện này được viết trong thời kỳ cuối của Carver, nó đã “rộng mở” hơn rất nhiều, không bị cắt gọt quá mức nên người đọc dễ đồng cảm hơn.  Lắm lời quá thì khó ưa nhưng kiệm lời quá như một số truyện thời kỳ đầu của Carver thì cũng khó gần.

Ngoài năm truyện ngắn trên, tập sách này còn gồm một số truyện ngắn thời mới tập viết, các bài tiểu luận, giới thiệu sách và điểm sách của Carver, trong đó có bài On Writing mà bạn Giò Trắng đang tu tiên bên kia đã dịch, và bài về John Gardner, người mà Carver coi là thầy của mình.  Những bài tiểu luận và điểm sách cho thấy một điều là cũng như mọi nhà văn đúng nghĩa khác, Carver còn là một người đọc.  Nói ra điều rất hiển nhiên này vì tôi có biết một số nhà văn rất lười đọc, thậm chí nhường cả cái niềm hạnh phúc đi chọn và mua sách cho người khác, mà nếu không ai mua giúp thì…thôi.

Thế còn cái news là gì?  News, với tôi, là nhờ cuốn này mới biết Carver từng có dã tâm viết tiểu thuyết.  Có vài đoạn của  một cuốn tiểu thuyết dang dở được in trong cuốn này dưới nhan đề From The Augustine Notebooks.  Dường như nếu ông không mất sớm thì ta có thể được đọc một cuốn tiểu thuyết không hay lắm!

PS.  Tất nhiên câu “a news is a news is a news is a news” là sáng tác của Goldmund Stein:) sáng tác nhân ngày nhận được một cái news:)

Thứ Tư, 8 tháng 9, 2010

Hễ sướng thì hét lên



Understanding Raymond Carver (Understanding Contemporary American Literature)




Blog, có khi tốt hơn cái loa phường.  Cứ rêu rao thích cái này cái nọ thế nào cũng có người tặng cái này cái nọ.  Đang suy nghĩ có nên rao thích một chiếc Porsche không?


Quyển trên kia, mới được một bạn tặng, mang tận từ Pháp về.  Rất vui và rất sướng.  Hễ sướng thì hét lên.


Lẽ ra sẽ là Collected Prose của Auster nhưng đã có chú Dejavous nhanh nhảu nhượng lại rồi.  Nên ra cuốn này.  Dù được tặng thì thực lòng rất ngại nhưng thực lòng cũng nghĩ rằng đây là một hành vi rất nên được khuyến khích các bạn ạ:)


Cảm ơn người tặng!


Thứ Sáu, 6 tháng 8, 2010

Demo

Đoạn đầu trong truyện Không ai nói gì hết của Raymond Carver, dịch từ truyện "Nobody Said Anything" trong tập Will You Please Be Quiet, Please?


Demo thôi, kẻo có bác bảo mua bản quyền rồi đấy, đừng có post lung tung:)


-----------------------



Không ai nói gì hết

Tôi có thể nghe tiếng họ ngoài bếp. Tôi không nghe rõ họ nói gì, nhưng tôi biết họ đang cãi nhau. Rồi đột nhiên im lặng và mẹ bắt đầu khóc. Tôi thúc George một cùi chỏ. Tôi tưởng nó sẽ thức dậy và nói gì đó với họ để họ cảm thấy tội lỗi và thôi đi. Nhưng George là một con lừa. Nó bắt đầu đạp và càu nhàu.

“Mày có thôi chọt tao không, đồ chó chết,” nó nói. “Tao nói cho mày biết.”

“Thằng ngu,” tôi nói. “Mày có khôn lên một lần được không? Họ đang đập nhau và mẹ khóc kìa. Nghe đi.”

Nó lắng nghe, đầu trượt khỏi gối. “Tao đếch quan tâm,” nó nói và quay vào tường ngủ tiếp. George là một con lừa thượng hạng.

Lúc sau tôi nghe tiếng bố ra khỏi nhà bắt xe buýt. Ông đóng sầm cửa trước. Trước đây mẹ đã bảo tôi ông muốn làm cái gia đình này tan nát. Tôi đã không muốn nghe.

Một lúc sau mẹ vào phòng gọi chúng tôi dậy đi học. Giọng mẹ nghe buồn cười - tôi không biết nữa. Tôi nói tôi thấy đau bụng. Đó là tuần đầu tiên của tháng mười và tôi chưa nghỉ học ngày nào, vậy thì mẹ có thể nói gì? Mẹ nhìn tôi, nhưng cứ như bà đang nghĩ ngợi chuyện gì khác. George đã thức giấc và lắng nghe. Tôi biết nó đã thức bằng vào cái cách nó ngọ nguậy trong giường. Nó đang chờ xem kết quả thế nào để còn tính kế.

“Thôi được”. Mẹ lắc đầu. “Mẹ chẳng biết thế nào. Vậy thì ở nhà. Nhưng không được bật tivi, nhớ đấy.”

George nhổm dậy. “Con cũng ốm,” nó nói với mẹ. “Con nhức đầu. Nó chọt và đạp con cả đêm. Con không ngủ được tí nào.”

“Đủ rồi!” mẹ nói. “Con phải đi học, George! Con không được ở đây và cãi nhau với em con cả ngày. Bây giờ dậy mặc quần áo. Mẹ nói thật. Sáng nay mẹ không muốn có thêm một trận chiến nữa đâu.”

George đợi đến khi mẹ ra khỏi phòng. Rồi nó trèo ra phía chân giường. “Đồ chó chết,” nó nói và giật tấm đắp khỏi người tôi. Nó lỉnh vào phòng tắm.

“Tao giết mày,” tôi nói, không quá to để mẹ khỏi nghe.

Tôi nằm trong giường cho đến lúc George đi học. Khi mẹ chuẩn bị đi làm, tôi hỏi mẹ có thể trải chỗ nằm cho tôi trên sofa được không. Tôi nói tôi muốn học bài. Trên bàn uống trà tôi có cuốn sách của Edgar Rice Burroughs quà sinh nhật của tôi và sách môn Khoa học xã hội. Nhưng tôi chả muốn đọc. Tôi muốn mẹ đi làm để tôi còn coi tivi.

Mẹ giật nước toa-lét.

Tôi không thể chờ thêm được nữa. Tôi bật tivi lên mà không mở tiếng. Tôi đi ra bếp chỗ mẹ để gói thuốc rút ba điếu ra. Tôi giấu chúng trong tủ ly, quay lại sofa và bắt đầu đọc cuốn Công chúa sao Hỏa. Mẹ đi ra liếc qua tivi nhưng không nói gì. Tôi để mở cuốn sách. Mẹ chải tóc trước gương rồi đi vào bếp. Khi mẹ đi ra tôi nhìn xuống cuốn sách.

“Mẹ muộn rồi. Bye con.” Mẹ không nhắc nhở gì đến chuyện tivi. Đêm qua mẹ bảo mẹ không còn biết đi làm mà không bị “quậy” có nghĩa gì nữa.

“Đừng nấu nướng gì nhé. Con không cần phải bật bếp lên làm gì. Nếu con đói thì có cá ngừ trong tủ lạnh.” Mẹ nhìn tôi. “Nhưng con đang đau bụng, mẹ nghĩ con không nên ăn gì. Dù gì thì con không cần phải bật bếp. Nghe chưa? Con uống viên thuốc đó, con trai, và mẹ hy vọng đến tối bụng con sẽ ổn hơn. Có khi đến tối cả nhà đều thấy ổn hơn.”

Mẹ đứng ở lối ra vào và vặn quả đấm. Trông mẹ như thể định nói gì khác. Mẹ mặc áo trắng, thắt lưng đen rộng bản, và váy đen. Đôi khi mẹ bảo đó là đồ đi chơi, đôi khi mẹ bảo đó là đồng phục. Trong chừng mực mà tôi còn nhớ được, nó luôn được treo trong tủ hoặc trên dây phơi hoặc được giặt tay vào ban đêm và được ủi trong nhà bếp.

Mẹ đi làm từ thứ tư đến Chủ nhật.

“Bye mẹ.”

Tôi chờ mẹ khởi động xe và làm nóng máy. Tôi nghe tiếng mẹ đánh xe khỏi lề đường. Rồi tôi ngồi dậy vặn tivi to lên và đi lấy thuốc. Tôi hút một điếu và xóc lọ trong khi xem một show về bác sĩ và y tá. Rồi tôi bật sang kênh khác. Rồi tôi tắt tivi. Tôi chả có hứng xem tivi.

***

--------------------

Danh mục các truyện khác của Raymond Carver đã dịch trên blog này:




Chủ Nhật, 18 tháng 7, 2010

Chuông reo là giật bắn

Không liên quan gì đến phim của Lê Hoàng, nhưng cứ giật cái tít thế cho nó máu, cạnh tranh với Vnexpress và Vietnamnet. Đặc biệt Vietnamnet!

Là một truyện dịch nữa trong chương trình Raymond Carver, dịch từ truyện Are you a doctor? trong tập Will you please be quiet, please? Truyện này có liên quan đến điện thoại. Đại khái đọc xong nghe chuông điện thoại có thể giật mình (quảng cáo tí:)).


-----------------

CÓ PHẢI ANH LÀ BÁC SĨ?

Raymond Carver



Mang dép lê, vận pi-ja-ma và áo choàng ngủ, anh lao vội khỏi phòng làm việc khi điện thoại bắt đầu reng. Vì lúc đó đã hơn 10 giờ, hẳn phải là vợ anh gọi. Đêm nào xa nhà, cô cũng điện thoại tầm này, sau khi uống vài ly. Cô là người phụ trách mua hàng, và cả tuần nay cô đi công tác.

“ A lô, em à,” anh nói. “A lô,” anh lặp lại.

“Đây là ai?” một phụ nữ hỏi.

“Hừm, đây là ai?” anh nói. “Chị muốn gọi số nào?”

“Đợi một phút,” người phụ nữ nói. “Số 273-8063.”

“Đó là số của tôi,” anh nói. “Sao chị có số này?”

“Tôi không biết. Tôi làm về và thấy nó ghi trên một mẩu giấy nhỏ," người phụ nữ nói.

“Ai ghi?”

“Tôi không biết,” người phụ nữ nói. “Chắc là cô trông trẻ. Hẳn là cô ấy.”

“Hừm, tôi không biết làm thế nào mà cô ấy có số của tôi,” anh nói, “nhưng đây là số của tôi, và tôi không đăng ký danh bạ. Chị có thể vứt nó giùm tôi được không? A lô? Chị có nghe không?”

“Có, tôi có nghe,” người phụ nữ nói.

“Còn gì nữa không?” anh nói. “Đã khuya và tôi đang bận.” Anh không có ý nói chuyện cộc lốc, nhưng người ta không thể mạo hiểm. Anh ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh điện thoại và nói, “Tôi không có ý nói chuyện cộc lốc. Ý tôi chỉ là đã khuya và tôi hơi lo ngại làm thế nào tình cờ chị có số tôi.” Anh thả dép ra và bắt đầu xoa xoa bàn chân, đợi câu trả lời.

“Tôi cũng không biết,” cô nói. “Tôi đã bảo anh tôi chỉ thấy số điện thoại được ghi lại, không có thêm dòng nào cả. Mai gặp Annette - tức là cô giữ trẻ - tôi sẽ hỏi. Tôi không có ý quấy rầy anh. Tôi chỉ thấy mảnh giấy thôi. Từ lúc đi làm về đến giờ lúc nào tôi cũng ở trong bếp.”

“Không sao,” anh nói. “Quên nó đi. Chỉ cần vứt nó đi và quên nó đi. Không có chuyện gì đâu, chị không phải lo.” Anh chuyển ống nghe từ tai này sang tai kia.

“Anh có vẻ là người dễ mến,” người phụ nữ nói.

“Thế à? Ừm, chị quá lời.” Anh biết giờ anh nên gác máy, nhưng nghe một giọng nói, kể cả giọng chính mình, trong căn phòng yên ắng khiến anh thấy hay hay.

“Ồ, vâng,” cô nói. “Tôi dám chắc.”

Anh buông bàn chân ra.

“Nếu anh không phiền liệu tôi có thể biết tên anh?” cô nói.

“Tôi tên Arnold,” anh nói.

“Và tên gọi thường của anh là gì?” cô nói.

“Tên gọi thường của tôi là Arnold,” anh nói.

“Ôi, xin lỗi,” cô nói. “Arnold là tên gọi thường của anh. Còn họ, Arnold? Anh họ gì?”

“Thực sự tôi phải gác máy,” anh nói.

“Arnold, thôi mà, tôi là Clara Holt. Bây giờ anh tên là Ông Arnold gì nữa?”

“Arnold Breit,” anh nói và vội thêm, “Clara Holt. Hay đấy. Nhưng tôi thực sự nghĩ là tôi phải gác máy, cô Holt. Tôi đang đợi điện thoại.”

“Xin lỗi, Arnold. Tôi không định làm mất thời gian của anh,” cô nói.

“Không sao,” anh nói. “Rất vui nói chuyện với chị.”

“Cảm ơn anh.”

“Chị giữ máy một phút được không?” anh nói. “Tôi kiểm tra cái này một chút.” Anh vào phòng làm việc lấy một điếu xì gà, mồi bằng hộp quẹt để bàn, rồi bỏ kính ra và ngắm mình trong gương qua lò sưởi. Khi quay lại chỗ để điện thoại, anh ngỡ rằng cô đã gác máy.

“A lô?”

“A lô, Arnold,” cô nói.

“Tôi tưởng chị đã gác máy.”

“Ồ, không,” cô nói.

“Về việc chị có số tôi đấy,” anh nói. “Không phải lo gì. Chỉ vứt nó đi thôi.”

“Tôi sẽ vứt, Arnold,” cô nói.

“Rồi, bye nhé.”

“Vâng, tất nhiên,” cô nói. “Chúc ngủ ngon.”

Anh nghe tiếng cô thở hắt.

“Tôi biết là tôi đường đột, Arnold, nhưng anh nghĩ liệu ta có thể gặp nhau đâu đó nói chuyện chút chăng? Chỉ vài phút thôi.”

“Tôi e không thể,” anh nói.

“Chỉ một phút, Arnold. Việc tôi tìm thấy số của anh và tất cả mọi sự. Tôi có cảm giác mãnh liệt về chuyện này, Arnold.”

“Tôi già rồi,” anh nói.

“Ồ, làm gì,” cô nói

“Thật đấy, tôi già mà,” anh nói.

“Liệu ta có thể gặp nhau đâu đó, Arnold. Anh biết không, tôi chưa kể cho anh hết. Còn chuyện khác nữa,” người phụ nữ nói.

“Ý chị là gì? ” anh nói. “Chính xác việc này là gì? A lô?”

Cô đã gác máy.

Khi anh sửa soạn đi ngủ, vợ anh gọi, anh đoán chị có vẻ hơi say, và họ tán chuyện một hồi, nhưng anh không đả động gì đến cuộc gọi kia. Lúc sau, khi anh đang kéo tấm phủ giường xuống, điện thoại lại reo.

Anh bắt máy. “A lô, Arnold Breit nghe đây.”

“Arnold, xin lỗi anh điện thoại bị ngắt. Như tôi nói lúc nãy, tôi nghĩ việc chúng ta gặp nhau quan trọng đấy.”



Chiều hôm sau khi đang tra chìa vào ổ khóa, anh nghe tiếng điện thoại reng. Anh bỏ cặp xuống, và vẫn nguyên mũ, áo khoác và găng, vội vàng đến bên bàn nhấc ống nghe.

“Arnold, xin lỗi lại quấy rầy anh,” người phụ nữ nói. “Nhưng anh phải đến nhà tôi đêm nay tầm chín giờ chín rưỡi. Anh có thể làm thế vì tôi, Arnold?”

Tim anh xáo động khi nghe cô gọi tên mình. “Tôi không thể làm thế,” anh nói.

“Đi nào, Arnold,” cô nói. “Thật sự quan trọng nếu không tôi đã không nài nỉ. Tôi không thể ra khỏi nhà tối nay vì Cheryl bị cảm lạnh và giờ tôi đang lo lây cho thằng bé.”

“Còn chồng chị đâu?” Anh đợi câu trả lời.

“Tôi không có chồng,” chị nói. “Anh sẽ đến chứ, phải không?”

“Tôi không hứa,” anh nói.

“Tôi xin anh đến," cô nói rồi vội đọc cho anh địa chỉ nhà rồi gác máy.

Tôi xin anh đến,” anh nhắc lại, vẫn còn cầm điện thoại. Anh chậm rãi tháo găng tay và rồi áo khoác. Anh cảm thấy phải thận trong. Anh đi rửa tay. Khi nhìn vào gương nhà tắm, anh nhận ra mình vẫn đội mũ. Chính lúc đó anh quyết định sẽ gặp cô, và anh bỏ mũ và kính ra rồi xát xà phòng lên mặt. Anh xem lại móng tay mình.



“Anh chắc đúng đường này?” anh hỏi người tài xế.

“Đúng con đường này và tòa nhà kia kìa,” người tài xế nói.

“Đi tiếp,” anh nói. “Cho tôi xuống phía cuối block nhà.”

Anh trả tiền cho người tài xế. Đèn từ những khung cửa sổ phía trên rọi sáng các ban công. Anh có thế nhìn thấy những chậu cây mắc trên các thanh chắn ban công và đây đó một vài bộ bàn ghế ngoài trời. Ở một ban công nọ một người đàn ông to cao mặc áo gió tì trên thành ban công dõi theo anh khi anh đi về phía cửa.

Anh nhấn cái nút bên dưới chữ C.HOLT. Chuông reo, và anh quay lại về phía cửa và bước vào. Anh thong thả leo cầu thang, ngừng để nghỉ một chút tại mỗi chiếu nghỉ. Anh nhớ cái khách sạn ở Luxemburg, năm cái tầng lầu mà anh và vợ từng leo cách đây nhiếu năm. Anh cảm thấy đau đột ngột bên hông, mường tượng tim anh, mường tượng chân anh khụyu lại, mường tượng một cú ngã nặng xuống chân cầu thang, Anh rút khăn tay ra và lau trán. Rồi anh tháo kính và lau tròng, đợi tim mình ổn định trở lại.

Anh ngó xuốnh sảnh. Khu căn hộ rất im ắng. Anh dừng trước cửa nhà cô, bỏ mũ ra, và gõ nhẹ. Cửa hé mở, một cô bé tròn trĩnh mặc pi-ja-ma thò ra.

“Bác là Arnold Breit?” cô bé hỏi.

“Đúng rồi,” anh nói. “Mẹ cháu có nhà không?”

“Mẹ cháu nói cho bác vào nhà. Mẹ cháu nói bảo với bác rằng mẹ ra hiệu thuốc mua xi-rô ho và aspirin.”

Anh khép cánh cửa sau lưng. “Cháu tên gì? Mẹ cháu có nói với bác, nhưng bác quên khuấy mất.”

Cô bé không nói gì nên anh thử một lần nữa.

“Cháu tên gì? Có phải là Shirley?”

“”Cheryl,” cô bé nói. “C-h-e-r-y-l.”

“À , giờ bác nhớ ra rồi. Mà bác nhớ cũng gần đúng, cháu có thấy thế.”

Cô bé ngồi trên một chiếc đôn bên kia phòng và nhìn anh.

“Vậy ra là cháu ốm, phải không?” anh hỏi.

Cô bé lắc đầu.

“Không ốm à?”

“Không,” cô bé đáp.

Anh nhìn quanh. Căn phòng được chiếu sáng bằng một cây đèn góc ánh sáng vàng thân có gắn một gạt tàn lớn và một giá để tạp chí. Một cái ti vi đế áp bức tường phía xa, đang mở, volume nhỏ. Một hành lang hẹp dẫn ra phần phía sau căn hộ. Lò sưởi được mở, không khí quẩn mùi thuốc men. Kẹp tóc và uốn tóc lăn lóc trên bàn uống trà, một cái áo choàng tắm màu hồng vắt trên ghế sô-pha.

Anh nhìn đứa bé lần nữa, rồi hướng mắt về phía bếp và những cánh cửa kính từ bếp ra ban công. Những cánh cửa chỉ khép hờ, và một luồng ớn lạnh thoáng qua người anh khi anh nhớ lại người đàn ông to cao mặc áo gió.

“Mẹ chỉ đi ra ngoài một chút,” đứa bé nói, như thể vừa đột ngột tỉnh giấc.

Anh nghiêng người về trước đè lên mấy ngón chân, mũ cầm tay, và nhìn cô bé. “Bác nghĩ là bác nên đi,” anh nói.

Có tiếng chìa xoay trong ổ khóa, cánh cửa bật ra, và một phụ nữ nhỏ người, xanh tái, nhiều tàn nhang bước vào tay cầm một túi giấy.

“Arnold! Rất mừng được gặp anh!” Cô liếc nhìn anh, vẻ hơi lo lắng, và lúc lắc đầu một cách lạ lùng trong lúc cầm túi đi vào bếp. Anh nghe tiếng cửa tủ bếp sập lại. Đứa bé ngồi trên chiếc đôn nhìn anh chăm chú. Anh khụy một chân, dồn trọng lượng trên chân này xong lại đổi sang chân kia, rồi đặt mũ lên đầu và lại bỏ mũ ra khi người phụ nữ quay lại.

“Có phải anh là bác sĩ?” cô hỏi.

“Không,” anh đáp, ngỡ ngàng. “Không, không phải.”

“Cheryl ốm, anh thấy đấy. Em ra ngoài mua mấy thứ. Sao con không cất áo khoác của ông này?” cô quay sang bảo đứa bé. “Bỏ qua cho nó. Bọn em không quen có khách.”

“Tôi phải đi đây,” anh nói. “Thật sự tôi không nên đến đây.”

“Anh ngồi xuống đi,” cô nói. “Chúng ta không thể đứng nói chuyện thế này. Để em cho con bé uống thuốc trước. Rồi chúng ta nói chuyện.”

“Thật sự tôi phải đi,” anh nói. “Nghe giọng chị, tôi tưởng có việc gấp. Nhưng thật sự tôi phải đi.” Anh nhìn xuống tay và nhận thức anh đang lóng ngóng.

“Em sẽ đặt nước pha trà,” anh nghe cô nói, như thể cô chẳng hề lắng nghe anh. “Rồi em cho Cheryl uống thuốc, và rồi chúng ta có thể nói chuyện.”

Cô tóm vai đứa bé và lùa nó vào bếp. Anh thấy người phụ nữ cầm một cái thìa lên, mở một chai gì đấy sau khi ngó qua nhãn, rồi rót hai thìa.

“Nào, giờ con chúc ông Breit ngủ ngon, con gái, rồi vào phòng nhé.”

Anh gật đầu chào đứa bé và sau đó theo người phụ nữ vào bếp. Anh không ngồi xuống cái ghế mà cô chỉ, thay vào đó cái đối diện ban công, hành lang và cái phòng khách nhỏ. “Tôi có thể hút xì gà được chứ,” anh hỏi.

“Anh cứ hút,” cô nói. “Em nghĩ nó sẽ không làm phiền em, Arnold. Hút đi.”

Anh quyết định không hút. Anh đặt hai tay lên gối và làm ra một vẻ mặt nghiêm túc.

“Chuyện này với tôi vẫn còn rất bí ẩn,” anh nói. “Nó khá không bình thường, tôi bảo đảm với chị.”

“Em hiểu, Arnold,” cô nói. “Chắc anh muốn nghe em kể chuyện làm thế nào em có số của anh.”

“Đúng là tôi muốn nghe,” anh nói.

Họ ngồi đối diện nhau chờ nước sôi. Anh nghe tiếng ti vi. Anh ngó quanh bếp rồi lại nhìn ra ban công. Nước bắt đầu sủi tăm.

“Chị định kể về về chuyện số điện thoại,” anh nói.

“Gì, Arnold? Xin lỗi,” cô nói.

Anh hắng giọng. “Kể tôi nghe chuyện làm thế nào chị có số của tôi,” anh nói.

“Em hỏi Annette. Cô trông trẻ ấy - nhưng dĩ nhiên là anh biết rồi. Dù sao, cô ấy kể điện thoại reng lúc cô ấy ở đây và có ai đó tìm em. Họ để số cho em gọi lại, và số cô ấy ghi lại hóa ra là số anh. Em chỉ biết đến thế.” Cô di cái cốc vòng quanh trước mặt. “Xin lỗi em không có gì hơn để kể.”

“Nước sôi rồi kìa,” anh nói.

Cô lấy thìa, sữa, đường ra và rót nước sôi lên túi trà.

Anh thêm đường và khuấy trà. “Chị nói có chuyện gấp nên tôi phải đến.”

“Ồ, chuyện đó, Arnold,” cô nói, quay mặt đi. “Em không biết cái gì khiến em nói vậy. Em không tưởng ra được em đã nghĩ gì.”

“Vậy không có gì à?” anh nói.

“Không. Ý em là .” Cô lắc đầu. “Điều mà anh nói, ý em thế. Không có gì.”

“Tôi hiểu,” anh nói. Anh tiếp tục khuấy trà. “Bất thường,” một lúc sau anh nói, gần như với chính mình. “Khá bất thường.” Anh mỉm cười yếu ớt, rồi đẩy cốc trà sang một bên và lấy khăn giấy chậm môi.

“Anh không định đi đấy chứ?” cô hỏi.

“Tôi phải đi,” anh nói. “Tôi đợi một cuộc điện thoại ở nhà.”

“Gượm đã, Arnold.”

Cô đẩy ghế ra sau và đứng dậy. Đôi mắt cô xanh nhạt, nằm sâu trên gương mặt xanh tái của cô và có những viền tối bao quanh mà thoạt tiên anh tưởng là trang điểm. Sợ hãi chính mình, biết sẽ tự ghét mình về việc này, anh đứng dậy vụng về vòng tay quanh eo cô. Cô thả người để được hôn, chớp chớp mắt rồi thoáng khép mi lại.

“Muộn rồi,” anh nói, buông cô ra, loạng choạng xoay đi. “Chị thật tử tế. Nhưng tôi phải đi, bà Holt ạ. Cảm ơn vì đã mời trà.”

“Anh sẽ đến đây nữa chứ, phải không, Arnold?” cô hỏi.

Anh lắc đầu.

Cô theo anh ra cửa, khi đó anh chìa tay ra. Anh có thể nghe tiếng ti vi. Anh đoan chắc volume đã được chỉnh tăng. Anh chợt nhớ đến đứa trẻ kia - thằng bé. Nó đã ở đâu?

Cô cầm tay anh, vội nâng lên môi. “Anh không được quên em đấy, Arnold.”

“Tôi sẽ không quên,” anh nói. “Clara, Clara Holt,” anh nói.

“Chúng ta đã chuyện trò vui vẻ,” cô nói. Cô gẩy một cái gì đó, một sợi tóc, hay một sợi chỉ, trên cổ áo anh. “Em rất mừng vì anh đã đến đây, và em cảm thấy chắc chắn anh sẽ quay lại”. Anh nhìn cô thật kỹ, nhưng bây giờ cô đang ngó mông lung như thể cô đang gắng nhớ việc gì. “Giờ thì - chúc ngủ ngon, Arnold,” cô nói, cùng lúc cô đóng sập cửa, suýt kẹt cả áo khoác anh.



“Lạ lùng,” anh nói khi bắt đầu bước xuống cầu thang. Anh hít một hơi dài khi anh xuống tới lề đường và ngừng trong chốc lát để nhìn lại tòa nhà. Nhưng anh không thể xác định được đâu là ban công nhà cô. Người đàn ông cao lớn mặc áo gió tì người trên ban công hơi nhúc nhích và tiếp tục nhìn xuống anh.

Anh bắt đầu cuốc bộ, hai tay thọc sâu trong túi áo khoác. Khi về đến nhà, chuông điện thoại đang reo. Anh đứng im lìm giữa phòng, mân mê chìa khóa giữa các ngón tay cho đến khi chuông ngừng reo. Rồi, khẽ khàng, anh đặt một tay lên ngực và cảm thấy tim anh thình thịch sau những lớp áo. Một lát sau anh đi vào phòng ngủ.

Gần như ngay sau đó điện thoại lại réo vang, và lần này anh bắt máy. “Arnold. Arnold Breit nghe đây,” anh nói.

“Arnold? Ối trời, tối nay ta khách khí thế!” vợ anh nói, giọng sang sảng, vẻ đùa cợt. “Em đã gọi liên tục từ chín giờ. Chơi bời tận hưởng tự do hả Arnold?”

Anh cứ im lặng và nghĩ ngợi về giọng của vợ.

“Arnold, anh còn đó chứ?” cô nói. “Nghe có vẻ không giống anh tí nào.”