Hiển thị các bài đăng có nhãn my life. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn my life. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 28 tháng 6, 2017

BẠN BÈ CŨNG LÀ MỘT TÀI SẢN






BẠN BÈ CŨNG LÀ MỘT TÀI SẢN

Tôi có người bạn viết ba cuốn sách vài trăm nghìn chữ mất 7 năm, lấy tựa chung “Bất hạnh là một tài sản”.

Tôi viết bộ ba đoản thiên lan man tùy bút về ba người bạn Đức tổng cộng bảy nghìn chữ trải dài trong quãng mười lăm năm, vừa bằng thời gian nàng Kiều lưu lạc. Nhân đang lưu lạc ở Đức, tuy không như Kiều, tôi tái bản hai phần đầu và viết nốt phần thứ ba, cho thành một trilogy không phải threesome, lấy tên chung “Bạn bè cũng là một tài sản”.

Phần 1.  Joerg – The Jogger (Biên ở Úc, 2003)

Đã bao lâu rồi tôi chưa quay lại bờ hồ? Tôi không nhớ rõ. Tháng ngày trôi nhanh quá. Cái chiều mà tôi lang thang ra bờ hồ và bắt đầu viết tản mạn là một ngày cuối đông. Những cây phong sân trường lúc đấy đang đỏ rực. Sáng nay, khi tôi đến trường thật sớm để chụp ảnh, tôi chợt nhận ra cũng những cây phong đấy đã sum suê xanh lá. Hôm nay đã là giữa mùa xuân. Sân trường nghiêng sang sắc tím của những cây tôi gọi là phượng tím. Các bạn tôi gọi là jacaranda, tôi tra từ điển Lạc Việt thấy cho nghĩa là lan dạ hương. Để cho đơn giản, nếu tôi có nhắc lại tên loại cây này trong bài viết này tôi sẽ gọi chúng là phượng tím.

Đà Lạt cũng có một cây phượng tím. Tôi chưa bao giờ ngắm nó thật kỹ để có thể chắc chắn rằng phượng tím Đà Lạt chính là phượng tím Brisbane. Tôi chẳng dại gì khẳng định một điều tôi không biết rõ. Điều duy nhất mà tôi có thể chắc chắn vào lúc này là tôi đang rơi vào một tình trạng hết sức bi kịch.

Xin đừng vội trầm trọng hóa vấn đề. Đã từng sống ở một thành phố như Sài Gòn gần mười năm, nơi mọi bi kịch vốn không nhiều trên sàn diễn đều ít nhiều nhuốm màu hài kịch, thì khi tôi nhắc đến bi kịch cũng có thể chẳng là vấn đề gì ghê gớm lắm. Đó là chưa kể bi kịch của tôi có thể khác hoàn toàn bi kịch của bạn. Càng khác ghê gớm cái bi kịch về miếng ăn và nhà ở mà Nguyễn Huy Thiệp từng nhắc đến. Bi kịch của tôi vài ngày gần đây đơn giản chỉ là tôi không ngủ được khi muốn ngủ và buồn ngủ khi muốn thức. Đang giữa một chương trình ti vi yêu thích, mắt tôi díp lại và không còn nghe anh chàng hoạt náo viên ba hoa những gì. Nhưng khi quyết định ngủ thì mắt tôi lại thao láo mở ra như chưa từng bao giờ buồn ngủ. Sau một hồi lăn qua lộn lại, tôi quyết định ngồi dậy và viết một cái gì đó cho đến khi nào không nhấc nổi mí mắt nữa thì thôi. Tôi đã có ý định viết về những người bạn Đức của tôi từ lâu, có khi đêm nay là một dịp tốt.

Tôi vốn không ưa nuớc Đức. Như bao cậu học trò từng ngồi dưới mái trường xã hội chủ nghĩa, tôi yêu nuớc Nga một cách vô điều kiện. Mà Đức thì gây chiến với Nga…

Tôi không ưa Đức còn vì bóng đá Đức. Thứ bóng đá lạnh lùng, khô khan từ đội tuyển cho đến câu lạc bộ, tàn nhẫn diệt những đội bóng lãng mạn mà tôi yêu thích.

Ấn tượng của tôi về người Đức càng tệ hại hơn khi người Đức đầu tiên tôi gặp ở trường Queensland là một cô gái luôn chun mũi lại khi nói chuyện. Tên cô ta là Astrich thì phải, nhưng nếu ai đó nghĩ rằng cô ta phải tên là Ostrich tôi cũng không phản đối.Tôi gặp Ostrich, à quên Astrich, trong buổi tiệc trà chào đón các sinh viên luật quốc tế mới đến trường. Astrich bắt tay tôi, nhăn mũi, xưng tên (hoặc trình tự ngược lại, không nhớ rõ lắm), rồi sau đó nói chuyện với những người khác mà không liếc tôi đến lần thứ hai. Sau đó tôi còn gặp cô nàng trong lớp Luật Nhãn hiệu hàng hóa và lớp Hệ thống pháp luật các nuớc Đông Á nữa, thế mà cô nàng chả buồn cười với tôi lấy nửa cái. Tôi chỉ thấy cô nàng vẫn nhăn mũi mỗi khi tranh luận bốp chát với giảng viên. Sau này tôi hỏi Philipp về Astrich, Philipp bưng mặt và nói trời ạ, con gái Đức học luật điển hình đấy, không thể nào chịu nổi. Con trai Đức còn không chịu nổi, huống gì con trai Việt Nam như tôi.

Chẳng hiểu sao ngừơi Đức đến Queensland học luật nhiều thế, vào lớp nào cũng gặp ít ra ba, bốn tên. Ngừơi Đức chăm học nên đâm ra hay gặp tôi ở thư viện.(Câu này nhằm khẳng định sự chăm học của người Đức, chứ tôi không có ý định tự khoe. Tôi thường có mặt ở thư viện nhưng điều này không có gì bảo đảm cho sự chăm học của tôi.) Vài câu chào hỏi xã giao, rồi đi ăn trưa chung, đi uống café. Rốt cuộc bây giờ tôi có ba người bạn Đức khá thân, tên là Joerg, Philipp và Sirko.

Joerg cao một mét tám muơi tư, 24 tuổi, dân miền Bắc nuớc Đức, giáp với Đan Mạch. Joerg trắng nhất trong các người Đức tôi đã gặp, người da trắng điển hình. Câu lạc bộ bóng đá yêu thích của Joerg là Werder Bremen. Tôi nhìn thấy Joerg cũng trong cái ngày mà tôi gặp Astrich, nhưng mãi đến học kỳ hai chúng tôi mới nói chuyện với nhau, thông qua một người bạn chung người Malaysia. Phải gặp Joerg trước Astrich, thì ấn tượng về ngừơi Đức của tôi đã tốt hơn nhiều lần.

Nhà Joerg cách nhà tôi chỉ mỗi cái trạm xăng. Từ lúc chơi với nhau thì cứ cách ngày một lần, vào lúc năm giờ chiều, Joerg sẽ đến gõ cửa căn hộ của tôi. Chúng tôi đi bộ một quãng, đến con đường nhỏ dành cho xe đạp và người đi bộ dọc bờ sông thì bắt đầu chạy. Hồi chưa chạy cùng Joerg tôi chạy một mình, thường chỉ chạy một phần ba con đường thì thở hổn hển và đi bộ ngược lại. Hôm đầu chạy cùng Joerg, được hai phần ba đường tôi đứng lại còn Joerg vẫn chạy cho đến cuối đường. Hôm sau tôi cố thêm một chút. Hôm sau tôi cố thêm một chút nữa và đến lần chạy cùng thứ tư thì tôi đã có thể thoải mái chạy đến cuối đường, cùng nghỉ khoảng 5 phút rồi chạy bộ trở về. Thật là chỉ cần cố một chút thì người ta có thể khá hơn rất nhiều. Từ đấy trở đi tôi bao giờ cũng hoàn thành đường chạy, kể cả những hôm Joerg bận và tôi chạy một mình.

Hay gặp nhau nên chúng tôi nói chuyện với nhau khá nhiều. Có lần chúng tôi gặp trên đường chạy một thiếu niên Australia, là bạn ở cùng nhà cũ với Joreg. Joerg khoe cậu nhóc đấy (mười chin tuổi) uống rượu rất nhiều, hút thuốc rất kinh, nhưng ở cùng với Joerg một thời gian, cậu này bỏ thuốc và bắt đầu chạy cùng với Joerg. Bây giờ Joerg đã chuyển sang nhà khác, cậu đấy vẫn tiếp tục chạy. Nhưng độ chục hôm sau Joergebảo tôi là cậu này bỏ chạy rồi, và uống bia nhiều hơn trước. Joerg bảo bọn thiếu niên Australia này uống ghê quá, cha mẹ chúng giàu chúng chỉ biết tiêu tiền thôi chứ chả biết quý tiền. Ở Đức bây giờ nhiều thanh niên mới lớn cũng chỉ biết hưởng thụ như thế. Joerg nói Joerg cảm thấy lo lắng, vì thành công của xã hội Đức là dựa trên tính kỷ luật và lao động chăm chỉ. Nay nếu lớp trẻ chỉ hưởng thụ thì xã hội Đức sẽ xuống dốc.Trong khi đó những nước như Trung Quốc, cả nước họ đang làm việc rất hăng để phát triển thật nhanh…Joerg chính là người đã đọc Hermann Hesse cho tôi, còn tôi thì đọc Từ thế chi ca của Chế Lan Viên cho Joerg.

Mười lăm năm qua, tuy không đều đặn, nhưng tôi vẫn duy trì thói quen chạy bộ. Lúc nào chạy không nổi thì đi. Mỗi khi có một sự kiện nào đó trong cuộc đời, chúng tôi biên thư cho nhau. Joerg, vào thời điểm này, đang làm phụ tá cho thẩm phán đâu đó gần Hamburg, đã có hai con và một bạn gái, không rõ cưới chưa. Chúng tôi sẽ gặp lại nhau vào tháng 8. It’s going to be fun.


Phần 2. Sirko – The Professor (Biên tại Việt Nam, 2009)

Tôi vừa ăn xong con tôm hùm to nhất trong đời tại Mũi Né. Nó to đùng, to đoàng, thịt trắng phau, cắn một miếng nước bọt ứa ra, cắn hai miếng muốn xỉu. Tôi chỉ ăn có nửa con thôi mà đã xiểng liểng. Tiếc là tôi chỉ nghĩ đến chuyện chụp hình, sau khi nó chỉ còn trơ vỏ. It's 25 minutes too late. Dù sao đi nữa, tôi cũng không mang máy ảnh theo trong chuyến đi này. Giáo sư, hay con chuột bạch (hoặc con heo Ghi-nê tùy bạn gọi), là người xơi nửa con còn lại, và giáo sư cũng thừa nhận rằng it was the best lobster he's ever had.

Đây là lần đầu tiên tôi lái xe đi xa đến thế. Hồi nào đến giờ tôi chỉ quanh quẩn tại Sài Gòn. Nhân dịp giáo sư đến thăm Việt Nam, tôi đem giáo sư ra làm vật thí nghiệm. Giáo sư ngáp dài ngán ngẩm suốt ba tiếng đồng hồ đầu tiên trên xe, khi tôi đi mãi mà chưa ra khỏi Dầu Giây. Tôi đã đề nghị với giáo sư xuất phát từ Tân Bình vào lúc 6 giờ, nhưng giáo sư còn choáng với cú sốc visa tại cửa khẩu, không thể dậy quá sớm. Cuối cùng, chúng tôi xuất phát lúc 8 giờ 15 từ khách sạn Đệ Nhất, Tân Bình. Giáo sư đã phải trả 123 đô la Mỹ cho một đêm tại khách sạn 4 sao Đệ Nhất. Tôi thì không hiểu tại sao khách sạn này tên là Đệ Nhất và tại sao nó được mang 4 sao. Tôi không hình dung ra loại du khách nào thì chọn ở khách sạn này, một khách sạn vừa xa trung tâm thành phố, vừa rất trung bình về chất lượng trong khi rất cao cấp về giá cả. Tất nhiên tôi đã không book cho giáo sư vào khách sạn này. Việc giáo sư phải ở khách sạn này trong một đêm chỉ là một tai nạn. Cái tai nạn này, cũng như câu chuyện visa, xứng đáng được kể cặn kẽ, nhưng tôi sẽ chỉ làm việc đó sau khi giáo sư đã rời Việt Nam an toàn.

Suốt ba tiếng đồng hồ trên đường từ Tân Bình đến Dầu Giây, giáo sư lộ rõ vẻ ngán ngẩm. Giáo sư bình luận bằng một giọng hết sức giáo sư, mà cũng hết sức giống một người Đức điển hình. Tao nghĩ giao thông ở Trung Quốc là tệ lắm rồi, nhưng nay tao mới biết giao thông ở đây còn hơn nhiều. Thật là vô tổ chức. Nếu mọi người kỷ luật hơn chút xíu, ai cũng tôn trọng phần đường của mình, thì giao thông của bọn mày chắc không đến nỗi tệ như thế này. Ặc ặc giáo sư ơi, nếu chúng tớ cũng kỷ luật như người Đức của giáo sư, chúng tớ đã khác lắm rồi.

Chúng tôi bò như rùa từ Sài Gòn đến Dầu Giây. Từ Dầu Giây trở đi, đường sá quang đãng hơn rất nhiều. Đến một lúc, tôi nhận thấy chỉ mình xe chúng tôi trên đường, đường rất vắng và rất tốt, có thể chạy hơn 90km/h hoàn toàn thoải mái và nhẹ nhàng. Một lúc nữa thì tôi phát hiện ra đã nhầm vào đường đi Bà Rịa. Có một ngã ba, gọi là ngã Tân Phong mà tôi không để ý. Thay vì rẽ vào hướng đi Mũi Né, tôi lại chạy thẳng. Thế là, tôi phải vòng lại một đoạn khá xa.

Giáo sư là người Đức, bạn tôi khi học ở Brisbane. Giáo sư được gán biệt danh “giáo sư” vì anh hành xử như một giáo sư và uyên bác như một giáo sư. Thời đi học, tôi hay lên thư viện trường nghịch internet và nhong nhóng xem có ai quen thì rủ đi uống café. Nếu tôi rủ giáo sư, trước hết giáo sư sẽ liếc nhìn đồng hồ, rồi bảo OK, tao đi được nhưng tao cần phải tìm một bài báo/cuốn sách, nửa tiếng nữa tao tới. Đúng nửa tiếng giáo sư sẽ tới, gọi một ly gì đó, chuyện trò dăm ba câu rồi giáo sư lại nhìn đồng hồ và bảo, tao phải đi đây, còn phải viết thêm một nghìn chữ cho bài essay vào hôm nay. Tôi nghĩ không có đồng hồ giáo sư sẽ chết mất.

Trước khi học Master ở Úc, giáo sư đã xong Doctoral continental law (hệ thống luật lục địa) ở Đức và đã trợ giảng một số năm. Giáo sư đến Úc vì muốn hoàn thiện tiếng Anh và muốn tìm hiểu thêm về hệ thống common law. Trong khi tôi chật vật lắm mới được điểm 6 hoặc mấp mé 7, thì giáo sư dễ dàng lấy điểm 7 ở hầu hết các môn. Điểm 7 là điểm cao nhất trong thang điểm đại học ở Úc. Sau khi hoàn tất Master ở Úc, giáo sư sang Aberdeen, Scotland để làm thêm một cái Ph.D common law (hệ thống thông luật) rồi trở thành một giáo sư thực thụ tại Leicester, UK. Tổng cộng giáo sư mất mười lăm năm học và nghiên cứu luật trước khi chính thức dạy đại học. Tôi nhớ lúc học luật ở Việt Nam, có những thầy cô chỉ trên tôi ba khóa. Cơm chấm cơm, cháo chấm cháo, nên rõ ràng cơm, cháo chả là cơm cháo gì so với xúc xích, phô-ma.

7 tháng trước khi sang Việt Nam, giáo sư gửi email thông báo ý định và kiểm tra xem tôi có đi đâu trong thời gian đó hay không. Một tháng sau, giáo sư đã mua vé và tôi đã biết chính xác ngày giờ giáo sư hạ cánh. Nửa tháng trước khi đến, tôi đã hoàn tất kế hoạch cho giáo sư tham quan Việt Nam. Trong rất nhiều email qua lại chuẩn bị cho chuyến đi, chúng tôi không mảy may đề cập đến chuyện visa, vì tôi nghĩ đó là chuyện hiển nhiên phải làm trước khi đến bất cứ nước nào. Đúng ra tôi hoàn toàn không nghĩ đến chuyện này và giáo sư cũng hoàn toàn không có bất cứ câu hỏi nào. Thế nên, tôi không biết giáo sư đã quyết định một cách hết sức kém sáng suốt, không đúng tầm giáo sư tí nào: xin visa tại cửa khẩu Việt Nam.

Tôi đến sân bay khi giáo sư vừa hạ cánh. Tôi gọi điện chúc mừng giáo sư, hướng dẫn khi ra ngoài gặp tôi ở chỗ nào. Hai mươi phút sau giáo sư nhắn tin “tao đang chờ lấy visa, mất khoảng 30 phút”. Hơi ngạc nhiên vì không biết rằng visa có thể xin tại cửa khẩu, nhưng tôi vẫn yên bụng ngồi chờ. Đúng 30 phút sau, giáo sư lại nhắn tin “chắc tao còn phải chờ lâu nữa, visa chưa xong”. Bắt đầu hơi nghi ngại, tôi gọi cho giáo sư. Giọng giáo sư vang vang trên điện thoại: “It’s totally unorganised here. I don’t know how much longer I have to wait.” Tôi an ủi giáo sư mày ráng chờ một chút đi, nhưng nếu gặp rắc rối gì thì gọi cho tao. Thêm khoảng 40 phút nữa, điện thoại tôi rung lên. Tin nhắn của giáo sư: “Big problem. I need an invitation, which I don’t have.” Trời ạ, sao không ai bảo với giáo sư rằng cần phải có một invitation mới có được visa, nếu như thủ tục xin visa tại cửa khẩu quả thật cần phải có một invitation?

Khi đã gặp nhau tại khách sạn Đệ Nhất rồi, giáo sư mới nói tao kiểm tra rất kỹ trên trang web (tôi không hỏi kỹ trang web nào, của đại sứ quán Việt Nam hay một trang khác của UK, nhưng tôi đã yêu cầu giáo sư gửi cho cái link). Trên đó nói chỉ cần mang theo hai tấm ảnh và hộ chiếu. Hồi đó tao đi Malaysia cũng xin visa tại cửa khẩu nhanh lắm nên tao nghĩ Việt Nam cũng tương tự. Giáo sư, tuy là giáo sư rồi mà nhiều khi suy nghĩ thật thơ ngây. Thơ ngây hệt như lúc giáo sư tròn mắt ở Tân Phong, cái ngã ba mà tôi đi lạc, khi quành lại rồi tôi phát hiện ra có mấy hàng trái cây ngon lành ven đường. Nghĩ rằng giáo sư sẽ thích trái cây nhiệt đới vừa tươi vừa rẻ nên tôi dừng lại mua hai ký măng cụt và hai ký chôm chôm nhãn. Em bán hàng vừa khúc khích cười vừa cân măng cụt cho tôi. Em nói măng cụt đây ba ký rưỡi luôn rồi anh lấy luôn nhe. Tôi không khúc khích cười như em, tôi thấy bịch măng cụt chút xíu nên nói với em rằng em tính giỡn chơi anh sao chừng này mà hai ký. Em vẫn khúc khích cười mang một cái cân khác ra và thật là tài tình vẫn bịch măng cụt đó bây giờ vừa đúng hai ký. Không biết em còn một cái cân thứ ba nữa không. Tôi áng chừng chừng đó măng cụt chắc cũng xấp xỉ hai ký thật nên móc tiền ra trả. Em khúc khích cười nhận tiền, còn giáo sư thì tròn mắt. Hai mắt giáo sư tròn như hai cái đít tô.

Giáo sư đã mắt chữ O, mồm cũng chữ O nhiều lần từ khi đến Việt Nam. Đêm đầu tiên ở Việt Nam, sau khi đã trả 100 đô để nhận visa và passport, giáo sư được tự do. (Trước đó giáo sư bị buộc phải ở trong khách sạn vì visa chưa có.) Tôi chở giáo sư đi ăn tối. Vừa ló ra đường chính, giáo sư đã ồ lên kinh ngạc khi thấy người và xe lúc nhúc từ mọi hướng. Đến lúc đi trên Hoàng Văn Thụ, đoạn bên hông công viên, giáo sư lại ồ lên khi thấy xe máy và ô tô đan xen vào nhau, chịu không biết làn nào ra làn nào. Giáo sư ồ to hơn khi một chiếc taxi lấn qua mặt tôi từ bên phải đồng thời một chiếc taxi lấn qua từ bên trái. Nhưng đến lúc xe nhích từng mét một trên đường Nguyễn Văn Trỗi, nơi có những lô cốt trơ gan cùng tuế nguyệt bao nhiêu tháng qua, giáo sư chán không ồ à nữa, chỉ van vỉ tôi chở đến một quán ăn nào càng gần càng tốt. Giáo sư chỉ ồ lên một lần nữa khi xe vào Nam Kỳ Khởi Nghĩa, vì lúc đó giáo sư vui sướng phát hiện ra đường này có làn riêng cho xe máy và ô tô. Tôi không kể cho giáo sư rằng người ta đã thi công con đường này gần 4 năm qua. Tuy vậy giáo sư cũng kịp nhận xét chính phủ mày phải làm một điều gì đó về giao thông, vì giao thông không trôi chảy thì kinh tế sẽ trì trệ. Tôi cười.

Tôi cười vì tôi không thể khóc. Không khóc khi gặp bạn cũ sau 6 năm. Không khóc ở Ho Chi Minh City. Không khóc trên đường đi Mũi Né.

Lần đầu tiên lái xe đi xa với một con chuột bạch nặng 85 kg, tôi phát hiện ra mình lái xe cũng không tồi và lái xe đường dài cũng không đến nỗi kinh hãi lắm. Tuy vậy tôi cũng sợ vài thứ. Thứ nhất là xe bus. Bus ở đây không phải là loại lô cốt di động thường thấy ở nội thành Sài Gòn mà loại xe chở du khách của các công ty du lịch. Cánh lái xe bus mặc nhiên biến làn bên trái thành làn xe của mình và chỉ chịu đi đúng làn khi có xe từ hướng ngược lại. Thứ hai là các bác OS. OS là diễn đàn otosaigon.com, một diễn đàn chuyên về xe pháo các loại, nếu cần bất cứ thông tin gì về xe cộ, đường sá, đi lại bạn có thể vào đây luôn có người sẵn lòng trả lời cho bạn. Các thành viên OS, như thể hiện trên forum, thường xuyên kêu gọi nhau lái xe an toàn, đúng luật lệ. Họ dán logo otosaigon.com màu cam trên xe để nhận ra nhau.

Sau đây là chuyện tôi “gặp” các bác OS: Lúc ra khỏi Phan Thiết một đoạn, đột nhiên tôi thấy một đoàn bốn, năm chiếc nhấp nha nhấp nháy đèn từ một cây xăng ven đường phóng ra đường chính với tốc độ khá cao. Đoàn xe này khi nhập với dòng xe trên quốc lộ rồi vẫn nhá đèn xi-nhan trái liên tục, có xe còn bật cả đèn khẩn cấp. Ở ngay phía sau họ nhìn tới, tôi quá chóng mặt với tín hiệu đèn không ngừng nhấp nháy bèn chạy chậm hẳn lại cho họ đi khuất mắt cho rồi. Lúc qua khỏi Dầu Giây chút xíu, xe phía trước hơi ùn cả lại. Thì ra có bốn năm chiếc cùng tấp vào lề đường. Tôi vượt lên, nhìn thấy một tốp năm bảy bác đứng quay lưng bên đường, hai tay hẳn là ở phía trước bụng cầm một cái gì đó. Tôi không nghĩ rằng tôi cần phải miêu tả cụ thể hơn họ đang làm gì. Đến lúc đó tôi vẫn chưa biết rằng đây là các bác OS mà tôi vẫn ngưỡng mộ. Chỉ khi, hẳn là sau khi các bác giải quyết tình yêu thiên nhiên xong và đồng loạt qua mặt tôi, một bác bên trái, ba bác bên phải gần như cùng lúc, thì tôi mới choáng váng nhìn thấy logo otosaigon.com trên xe các bác, gồm hai chiếc BMW, một chiếc Mercedes và một Ford Escape. Trừ chiếc Ford Escape, ba chiếc kia đều bật đèn khẩn cấp. Quả là một sáng kiến phi thường!

Nếu vấn đề giao thông và đường sá có mang lại đôi chút phiền toái và mệt mỏi, thì Mũi Né thật sự là món quà tuyệt vời cho giáo sư, một người đã 6 năm chôn thân ở một xứ ướt át lạnh lẽo như Aberdeen và sau đó là Leicester. Đang giữa mùa mưa nhưng may cho giáo sư chúng tôi không gặp phải một cọng mưa nào. Trời nắng to, biển xanh, cát trắng, ngồi nhấm nháp ly mojito trong quán bar bên bờ biển, giáo sư công nhận rằng it’s worth the drive. Buổi tối, tôi chở giáo sư chạy tà tà trên con đường chính ở Mũi Né, hai bên đường resort, quán ăn và spa nằm san sát. Tôi cho giáo sư tự chọn quán nào vừa mắt thì xông vào. Rốt cuộc giáo sư chọn một nhà hàng seafood BBQ tên là Quê Hương. Chính ở trong quán này chúng tôi đã phanh thây con tôm hùm trắng phau, ngọt lừ kể trên. Tôi rất tiếc không chụp hình được con tôm hùm này, vì như đã nói, lúc nhớ ra thì đã quá muộn. Con tôm hùm vùng vẫy trong đại dương kết thúc cuộc đời oai hùng lừng lẫy trong bao tử chúng tôi mà không có lấy một tấm ảnh để tôm hùm vợ và tôm hùm con hương khói. Đời nhiều khi chẳng biết nói thế nào. Tương lai bao giờ cũng khó đoán định.

Cho dù thế, với một nửa con tôm hùm trong bụng, giáo sư đã dự đoán một tương lai tươi sáng cho ngành du lịch Việt Nam. Đại để ở châu Âu chẳng mấy ai biết Việt Nam chúng mày có bãi biển đẹp thế này, resort oách thế này, tôm hùm ngon thế này. Dân châu Âu phần lớn chỉ biết Thái Lan, Malaysia, Bali. Chúng mày phải quảng cáo cho thế giới biết. Chính phủ mày phải làm một cái gì đó để thu hút thêm du khách. Tôi cười. Chính phủ tao is working on it. Ít nhất trong vòng năm năm qua slogan ngành du lịch Việt Nam đã đổi những ba lần. Từ “Vietnam – a destination for the new millennium”, cho đến “Welcome to Vietnam” rồi bây giờ là “Vietnam – a hidden charm”. Very well hidden, indeed.

Mũi Né thay đổi nhiều chỉ sau một năm. Năm ngoái đến đây, tôi chưa thấy nhiều spa như bây giờ. Trung tâm tắm bùn khoáng tương tự như ở Tháp Bà Nha Trang, cũng như nhà hàng Hoa Viên bia Đức, nơi tôi và giáo sư ngồi uống bia tươi và tưởng nhớ tôm hùm cũng chưa có. Mới nhất và đặc sắc nhất là con đường mới mở từ đầu Mũi Né, xuyên qua đồi cát đến thẳng Hòn Rơm. Đường chạy trên cao uốn lượn theo đồi, trông xuống vịnh Mũi Né đẹp đến nghẹt thở. Chất lượng đường cực tốt, có thể chạy trên 100km/h hết sức nhẹ nhàng. Tuy nhiên, tôi không hiểu vì sao người ta cắm bảng giới hạn tốc độ 30km/h trên toàn tuyến. Trên đường từ Sài Gòn ra Mũi Né, nhiều đoạn đường khá tốt, dân cư thưa thớt, tôi cũng không hiểu tại sao tốc độ giới hạn là 50km/h, khiến cả đoàn xe phải nối đuôi nhau rù rì. Cảm giác những lúc đó thật là tưng tức, y như sau khi bạn uống nước quá nhiều, bụng căng tròn mà không thể nào đi ấy được.

Cho dù hết sức mê Mũi Né, bảo rằng nếu có thời gian sẽ ở Mũi Né cả tuần, giáo sư vẫn muốn quay lại Sài Gòn để đi thăm địa đạo Củ Chi. Giáo sư chỉ có ba ngày ở Việt Nam. Giáo sư rất muốn nhìn thấy hệ thống địa đạo lừng danh, muốn hiểu vì sao Mỹ đã thua ở Việt Nam. Giáo sư nói, chỉ có mỗi Việt Nam mày là thắng được Mỹ thôi. Đúng là như thế thật, tôi bảo, nhưng cái giá chúng tao phải trả rất đắt, mày có biết hơn ba triệu người Việt đã ngã xuống trong hai mươi năm chiến tranh không? Mỹ thua trận nhưng chỉ có 58.000 người chết, người Mỹ sang đây nhặt từng bộ xương mang về, còn chúng tao, chúng tao có cả một đất nước tan hoang, có những vết thương không bao giờ hàn gắn, và đến bây giờ, vẫn còn những hận thù không nguôi. Giáo sư bảo đó là một cuộc chiến không cần thiết. Có cuộc chiến nào là cần thiết không hả giáo sư của tôi? Nhân dân có bao giờ cần chiến tranh, chỉ có một số ít người “cần” nó…

Để tránh kẹt xe trong nội thành, tôi chở giáo sư theo đường Nguyễn Văn Linh ra quốc lộ 1A rồi ra đường Xuyên Á, tuy xa hơn tí nhưng không gặp thảm cảnh nhích từng mét một như hôm đi Mũi Né. Đường Xuyên Á khá tốt, nhưng tốc độ cho phép cũng chỉ có 50km/h.

Củ Chi, một vùng quê xanh mướt dần hiện ra trong mắt chúng tôi. Hứng nửa triệu tấn bom trong chiến tranh, Củ Chi từng là đất trắng. Tất cả cây cối nơi đây chỉ mọc lại từ sau chiến tranh kết thúc. Đi giữa rừng rậm, tôi hỏi giáo sư nếu mày là lính Mỹ mày có dám đến đây không? Giáo sư lắc đầu, lè lưỡi.

Giáo sư kinh ngạc thật sự khi biết rằng hệ thống địa đạo dài đến 250km, có chỗ sâu đến 10m, gồm 3 tầng, tầng trên cùng để sinh hoạt và chiến đấu, tầng thứ hai dự trữ lương thực và vũ khí, tầng thứ 3 sâu nhất để tránh bom. Ở tầng dưới cùng, đường hầm có những đoạn eo để lính Mỹ có vào đến đó cũng không thể chui qua được. Nhưng tôi nghĩ, chắc là khó có lính Mỹ có thể vào đến đây mà còn sống sót. Cái nắp hầm trên mặt đất, nếu phát hiện ra cũng khó có thể chui vào, chưa kể nhấc nắp hầm lên sẽ có nguy cơ trúng mìn mà người du kích cuối cùng vào hầm đã cài lại. Còn qua khỏi cửa hầm, nếu không dính đạn cũng rơi vào hầm chông. “Cái hầm chông là điều nhân đạo nhất” (Chế Lan Viên). Hãy thử hình dung một anh lính Mỹ to béo ngắc ngoải không sống mà chưa chết giữa hầm chông.

Sau khi tham quan một số đoạn tiêu biểu của hệ thống địa đạo như hầm chỉ huy, hầm cứu thương, hầm hội họp, bếp Hoàng Cầm .v.v., giáo sư, hẳn lúc đấy bụng đang diễn ra phản ứng phức tạp giữa tôm hùm và trái cây nhiệt đới, đột nhiên hỏi cậu hướng dẫn viên, ngày xưa du kích muốn đi toa-let thì đi đâu, làm bên trong này luôn hay ra ngoài. Tôi thấy giáo sư ngu chi lạ! Ra ngoài để mà ăn kẹo đồng à? Du kích Củ Chi anh hùng gan dạ mưu trí, không lẽ chết vì một lý do lãng xẹt. Cậu hướng dẫn viên, con trai một cựu du kích Củ Chi từng bị thương trong chiến tranh, kiên nhẫn giải thích rằng người ta sẽ đào một ngách nhỏ, sau đó đổ tro vào lấp lại. Tôi biết người ta có thể đào một cái ngách, hoặc một cái lỗ, nhưng không chắc người ta có đủ thời gian lấp lại hay không. Giáo sư sau khi đã được giải thích tường tận, thỏa mãn trèo ra ngoài đi kiếm restroom. Tôi ngồi ở canteen nhấm nháp một que kem Kinh Đô. Lúc sau, giáo sư đi ra, nhìn trước nhìn sau rồi thì thào với tôi, chết rồi mày ơi, lúc nãy không để ý tao vào nhầm toa-lét nữ!

Ngoại trừ tai nạn nho nhỏ đó, giáo sư rất hứng thú với chuyến tham quan. Giáo sư nói tao hết sức khâm phục dân tộc mày đã xây dựng được một hệ thống địa đạo tài tình như thế chỉ với một cây cuốc nhỏ. Bây giờ tao hiểu sao Mỹ phải thua ở Việt Nam. Chiến tranh ở nước mày thật sự là chiến tranh nhân dân.

Nghĩ ngợi một hồi, đột nhiên giáo sư hỏi, nhưng sao hồi đó bọn mày xây dựng được một hệ thống địa đạo vĩ đại như vậy, mà bây giờ bọn mày chưa xây dựng được một đường cao tốc tử tế? Giáo sư hỏi câu hỏi khó, tôi không trả lời được. Cũng như tôi đã không trả lời được câu hỏi tại sao có nhân viên một công ty dịch vụ xuất hiện ở của khẩu đề nghị làm giúp visa với giá 100 đô, mà nếu không chịu làm giáo sư chỉ có nước lên máy bay về nước ngay tức khắc.

Buổi tối cuối cùng, giáo sư đến nhà chúng tôi ăn tối. Chúng tôi tặng giáo sư một khăn trải bàn thêu tay xem như là quà cưới cho giáo sư. Sáng hơm sau giáo sư bay đi Melbourne. Ổn định công việc ở Melbourne, giáo sư sẽ phải đón cô vợ mới cưới người Trung Quốc sang. Giáo sư nói bọn Úc thế mà lề mề, visa vợ chồng mà mất đến những ba tháng mới xong. Tuy nhiên tôi tin, cho dù mất ba tháng, giáo sư sẽ không bị bắt chẹt. Như đã từng bị bắt chẹt trên một sân bay lạ.

Sirko, hiện là giáo sư khoa luật ở Edinburg, vợ người Trung Quốc, đã có hai con. Chúng tôi sẽ gặp lại nhau vào tháng 8 ở Munich. It’s going to be fun.

Phần 3. Philipp  - The Vagabond (Biên tại Đức, 2017)

Tôi chưa bao giờ có ý định đặt các ông bạn Đức của mình lên bàn cân (nghĩa đen, không phải nghĩa bóng) để coi ông nào nặng nhất, nhưng tôi biết chắc Philipp là ông nhẹ cân nhất. Thời điểm 2002, Philipp chỉ nặng 67 cân cho thân hình một mét tám mấy. Sở dĩ tôi biết rõ cân nặng của Philipp, là vì vào cái năm 2002 khi chúng tôi còn trẻ trung và hoang dại ấy, một đám sinh viên đủ quốc tịch đang học ở Brisbane rủ nhau đi chơi đảo Fraser. Trước khi đi, cả đám chỉ biết nhau sơ sơ, đại khái đứa này rủ đứa kia, đứa kia rủ đứa nọ. Đi về rồi thì vẫn chỉ biết nhau sơ sơ thôi. Bạn ba ngày cũng như tình một đêm, vui không cam kết. Trên đảo Fraser, tại hồ nước ngọt McKenzie, nơi cát tuyệt đối trắng và nước tuyệt đối tinh khiết đến nỗi không sinh vật nào sống được, đám chúng tôi chơi trò trồng tháp người. Bốn tên to khỏe nhất làm đế, ba tên đứng trên vai bốn tên kia, và một tên nhẹ cân nhất leo lên làm tầng trên cùng. Tôi đứng ở tầng thứ hai, còn Philipp chính là tên leo làm đỉnh tháp, vì hắn khéo, khỏe, lại nhẹ cân nhất theo khai báo. Lần ấy, một em người Brazil, bồ của một cậu Mexico trong đám, là người duy nhất chụp hình tháp người trên hồ McKenzie nhưng mải vui không thu thập email hay số liên lạc của nhau nên tôi chưa bao giờ có tấm hình đó. Ngoài trò tháp người, điều tôi nhớ nhất trong chuyến cắm trại ấy là việc Philipp moi móc, nhặt nhạnh từng mảnh vỡ chai bia mà đám La tinh thác loạn kia (!) quăng tung tóe, thậm chí vùi vào tro, cho vào thùng rác.

Mười lăm năm gặp lại, Philipp dường không thay đổi mấy. Vẫn kiểu tóc bồng bềnh, thân hình vẫn mảnh khảnh vẻ không tăng kí lô gam nào, nói vẫn nhanh và giọng vẫn sôi nổi, trên đường đi công tác mà quần jean áo thun tuềnh toàng, ba lô sau lưng, trông ngài luật sư của một hãng phim Munich vẫn chẳng khác gì gã lãng tử lang thang khắp Úc năm nào. 18 tuổi, Philipp đến Úc lần đầu, lang thang vài tháng như nhiều thanh thiếu niên Đức khác.  Hơn chục năm sau, Philipp quay lại Úc để học thạc sĩ luật, nhưng trước khi vào chương trình đã kịp làm thêm một tua vòng quanh Úc. Rời Úc vài năm, Philipp quay lại Úc một lần nữa để đi nốt những nơi chưa kịp đến trong những chuyến đi ngày xưa. Ngày trước cũng như bây giờ, mỗi lần Philipp kể chuyện Úc là bọn tôi lại mắt tròn mắt dẹt. He knows everything about Australia. Well, not just Australia, to be accurate. Nhưng không như Sirko, kiến thức của Philipp hoàn toàn không dấu vết kinh viện. Những gì Philipp biết là những gì Philipp thu thập từ những chuyến đi. Nếu Sirko là sách thì Philipp là đời. Sách uyên bác mà đời thì phong phú, giàu trải nghiệm. Philipp chính là người chỉ cho tôi dây leo ở Nam Bán cầu xoắn ngược hướng với dây leo ở Bắc Bán cầu như thế nào, và mãi gần đây thì J. – cậu đồng nghiệp Ecuador mới kể cho tôi rằng cả xoáy nước toa lét cũng ngược nhau ở hai bán cầu, và đó là một trong những thứ khiến Ecuador nổi tiếng.

Tôi chưa nói là tôi gặp lại Philipp sớm hơn dự định một chút nhờ vào một trong những đặc sản nước Đức, hay cũng có thể cả châu Âu, đó là tự tử trên đường tàu. Hôm ở Paris tôi hay đi lại đường tàu B mà bạn bè Paris của tôi ai cũng bảo đường tàu này lắm người tự tử, nguyên do đường tàu này đẹp hơn các đường tàu khác. Ở Đức thì, Philipp bảo, bác tài nào cũng từng đâm người rồi, bình quân một tài xế sẽ gặp phải ba vụ tự tử trong suốt đời lái tàu của mình. Số vụ tự tử đặc biệt cao vào dịp Giáng sinh. Mùa đông dài u ám, lạnh lẽo, ai không có gia đình người thân ở bên dễ quẫn trí. Thế nhưng tại sao không chọn những cách khác mà chọn cách lao vào đường tàu, thân xác nát tan, còn làm tài xế bấn loạn và làm khổ bao hành khách? Tôi đem câu hỏi ấy hỏi A., cậu sếp cũ của tôi, và câu trả lời là, biết đâu cuối đời họ muốn thu hút sự chú ý. Những con người cô đơn ấy sống không ai biết, không ai quan tâm, chỉ có cái chết mới đem lại tiếng xôn xao, nếu không phải vài hàng trên tờ báo địa phương, thì cũng đôi lời nguyển rủa trên môi đám hành khách lỡ chuyến. Tôi, do bệnh nghề nghiệp, nên bảo A. hay là ta soạn một bản cẩm nang tự tử, kiểu như Làm thế nào để tự tử một cách có đạo đức, hay Tự tử - nên và không nên. A. lúc đấy đang lái xe chở tôi đi ăn trưa ở một quán Thổ về, suýt đâm xe vào lề đường. 

Số là Philipp và tôi hẹn nhau ở Cologne. Philipp sẽ từ Munich sang gặp tôi, kết hợp một cuộc họp cho công ty vào sáng hôm sau. Còn tôi, thì từ Heidelberg trở về, đổi tàu ở Manheim. Lẽ ra sẽ gặp nhau ở Cologne, nhưng khi biết tôi đang ở Heidelberg, Philipp, vừa ghé thăm bố mẹ ở Stuttgart, cũng đổi tàu ở Manheim như tôi. Kế hoạch mới là sẽ gặp nhau trên tàu từ Manheim về Cologne. Thế nhưng do một vụ tự tử, ấy là Philipp đoán vậy, vì thông báo chính thức chỉ nói về một vụ tai nạn, nên chúng tôi có khoảng hơn một tiếng cà phê ngoài dự tính ở Manheim rồi mới cùng lên tàu về Cologne. 

Ở quán cà phê cũng như trên tàu, Philipp là người nói nhiều nhất, không ngớt, cả với tôi lẫn với J.. cậu đồng nghiệp Ecuador đồng hành Heidelberg cùng tôi. Philipp gần như không hề sử dụng tiếng Anh trong công việc, vậy mà tiếng Anh của Philipp vẫn lưu loát đáng kinh ngạc, tằng tằng không chút ngượng nghịu nào. Tôi không hiểu người Đức học tiếng Anh kiểu gì. Ví như giáo sư Sirko, lúc mới gặp ở Úc, giáo sư bảo tao chỉ học tiếng Anh ở phổ thông, ra trường rồi thì chẳng sử dụng bao giờ, vậy mà sang Úc cãi nhau với thầy cô như ngóe, trong khi tôi khoe mình làm cho tây nhiều năm, tiếng Anh tao á, prossional lắm á, mà mấy tháng đầu tiên ở Úc, nghe  giảng cứ ù ù cạc cạc, đừng nói tới chuyện mở mồm cãi nhau. 

Hóa ra từ khi ở Úc trở về, Philipp cũng làm tiến sĩ, rồi đi làm luật sư cho một hãng phim ở Munich, suốt từ bấy. Tôi vẫn biết Philipp làm trong ngành phim ảnh, chỉ không biết cậu ta làm mỗi một chỗ suốt bao năm. Chỗ làm thì một, bạn gái thì một vài, nhưng chẳng move in với ai. Philipp thú nhận có gia đình cũng hay, nhưng tao sống một mình quen rồi, ngại phải chia sẻ cuộc đời mình với ai đó. Chẳng phải ở Việt Nam, nên chẳng ngại trả lời những câu hỏi kiểu bao giờ cho bác uống rượu/ ăn kẹo? (Viết tới đây chợt nhớ cách đây vài hôm một bạn gái tôi chưa gặp bao giờ bỗng inbox tâm sự với tôi em buồn quá anh ạ, cưới nhau mấy năm rồi mà chưa có con, mọi người cứ hỏi mãi làm em rơm rớm nước mắt. Tôi, chuyên viên gỡ rối tơ lòng bất đắc dĩ, chỉ có thể bảo là cứ bơ đi mà sống em ạ, kệ mọi người.) 

Trong bữa ăn tối, chúng tôi nói về Donald Trump (người Đức nào chẳng nói về Donald Trump?), khí hậu (xứ mày khô thấy mà ghê, môi tao lúc nào cũng khô, da tao lúc nào cũng ngứa, phải xài cả lotion), về môi trường (xứ tao có công ty Đài xây nhà máy thép xả nước thải ra biển, cá chết hàng loạt, dân đi biểu tình mà chánh phủ cóc cho, bọn nó hứa bồi thường năm chăm chiệu giờ chẳng biết tiền đi đâu về đâu), về hệ thống chính trị Đức (tổng thống tao ngồi chơi thôi mày ơi, giống như nữ hoàng vậy, chỉ ký giấy chớ hông làm gì), về EU (thì Hy Lạp nó làm biếng đã đành, nhưng giờ bọn tao sợ nhất là Ý, Ý nó tèo thì EU gay go to), các nước Đông Âu cũ (mày qua Prague đi mày không thấy người nước ngoài nào đâu, trừ đám tourist như mày, tất nhiên),  và nhiều nhiều thứ khác nữa. Nói nhiều vậy nhưng tới 10 giờ đã về, vì Philipp không uống bia, mà tôi buồn ngủ sớm. Bữa trước đi Heidelberg share phòng với J. mà cậu ta kéo cưa hơi kinh nên tôi hầu như không ngủ mấy.

Bọn tôi sẽ gặp lại nhau tháng 8 ở Munich, có cả Sirko từ Anh bay qua và Joerg từ Hamburg. Sẽ leo lên dãy Alps. It’s going to be a lot of fun, like the good old days, when we went to Fraser Island or Alexandria Beach in Noosa Heads. That damn nudist beach, with a lot of ugly naked people!

Thứ Năm, 20 tháng 9, 2012

Ngày hôm qua, sáng, trưa, chiều, tối


Sáng: Phi ra nhà sách Hà Nội, định mua ít cuốn ELƠIĐĐK gửi cho các tình yêu xứ Bắc, nhưng chẳng còn cuốn nào. Chẳng hiểu sách bán quá chạy hay nhà sách nhập về quá ít. Dù sao, kết quả đã rõ, các tình yêu xứ Bắc hãy tiếp tục đợi. The longer the wait the sweeter the love. 

Về lại văn phòng, thấy một ông bạn ngồi ở quán café trước tòa nhà. Làm ly café, được ông bạn của ông bạn hỏi đã giàu chưa. Đáp rằng, chưa, mà chắc rằng không. Ông này bảo cần phải điều chỉnh, phải tập trung năng lượng và sức lực vào việc kiếm tiền, cho những thứ linh tinh như viết blog, dịch sách xuống thang. Suy nghĩ hết một ngày về ý kiến này.

 Trưa: Ăn cơm với hai bạn tre trẻ. Bạn trẻ hơn trong hai bạn bảo đọc RC không hiểu gì. Đúng là truyện RC không hoàn toàn dễ đọc. Chắc cần có ít trải nghiệm mới đọc được. Có chồng, có vợ rồi càng hay. Mà hay nhất ở chỗ cái tựa sách có thể thay lời muốn nói, đóng góp rất tốt cho tình hình trật tự trị an khu phố, giúp nhận được cái bằng Gia đình văn hóa về treo lủng liểng. Định viết một bài về chuyện đọc và dịch RC, nhưng chưa có thời giờ. Phải tái phân bổ năng lượng một cách hợp ný.

Chiều: Về nhà, hai bạn Alpha và Pi đã về nhà trước. Ngồi ngắm hai bạn một lúc trong lúc hai bạn xem ti vi. Tại sao mình có thể ngắm con không biết chán? Rồi, hỏi vợ, Do you love my children? Vợ trả lời, Who ARE your children?  Đây là một đối thoại rất Raymond Carver.

Tối: Dạy Pi đánh vần xong thì lăn ra giữa sàn nhà ngủ, đèn đuốc sáng choang. Mười giờ rưỡi tỉnh dậy, đọc nốt Sông của Nguyễn Ngọc Tư.  Người thích măm tiểu thuyết măm cuốn này thấy thích. Sẽ có đôi lời về Sông sau. Đang trong quá trình tái phân bổ năng lượng.

Thứ Hai, 16 tháng 7, 2012

Gạch đầu dòng 16/7



  • Tuần vừa rồi, tôi chủ động liên lạc lại với một người bạn - người anh đã bốn năm, năm năm không gặp cho dù vẫn ở cùng thành phố. Chúng tôi trao đổi về công việc, về cái gọi là midlife crisis, vì tôi nhớ khi anh ở vào giai đoạn ấy, anh đã hẹn cafe nói chuyện với tôi, cho dù tôi kém anh hơn chục tuổi, và khi cần có người nói chuyện tôi lại nhớ tới anh. Sau cuộc nói chuyện ấy, tôi cảm thấy tinh thần tốt hơn lên rất nhiều. Có những người bạn như thế, dẫu nhiều ngày không gặp thì vẫn là một nơi để ta san sẻ tâm sự  khi cần, và khi gặp rồi thì ta biết ta san sẻ đúng chỗ. 
  • Anh QB  khen cuốn Trước lúc ngủ say dịch tốt. Cuốn này là một trong những cuốn hiếm hoi mà tôi đọc ngay khi vừa được tặng. (Từ dạo hay la cà trên giang hồ được tặng sách nhiều đâm ra tốc độ tiêu thụ theo không kịp:). Tôi cũng thấy cuốn này dịch tự nhiên, linh hoạt, và truyện thì hấp dẫn. Lúc đọc tôi nghĩ Hollywood sẽ không bao giờ bỏ qua một câu chuyện thế này. Hỏi dịch giả, thì đúng là phim đang được dựng với vai chính dành cho Nicole Kidman. Lâu rồi, tôi không coi phim nào, trừ những phim hoạt hình xem cùng A & P. Gần nhất là Brave.
  • Hôm nay trường Pi tổ chức đi chơi. Sáng, Pi dậy rất sớm, thay đồ rất nhanh để đến trường sớm. Dạo này con tim Pi đã vui trở lại. Cái ngày đầu tiên Alpha sang trường mới, Pi đi học một mình, cu cậu buồn thỉu, thỉnh thoảng lại vùng khóc rống. Thứ sáu vừa rồi, Pi xin phép mang theo ba chiếc xe hơi đi học. Chiều về, cậu khoe, hôm nay con vui lắm, vì con đem xe cho các bạn cùng chơi nên con rất vui. Tôi nói, đúng rồi, mình chia sẻ cùng bạn thì bao giờ cũng vui hơn là chơi một mình. 

Thứ Ba, 29 tháng 11, 2011

Trên tủ giày có hoa




Hoa này là hoa anh ơi
Là hoa một bữa đẹp trời ta đi
(Xuân Diệu)


Đùa chứ không phải hoa anh ơi, càng không phải hoa em ơi, còn là hoa gì thì tùy người. Chẳng hạn, tôi thì thấy nó đúng là hoa pensée (păng-xê), còn cô bán hàng thì gọi đây là hoa cẩm nhung. Đằng nào thì đưa hoa cho tôi xong, cô bán hoa vẫn dịu dàng, khẽ khàng, ngọt ngào nói: Anh ơi, cho em xin bốn mươi ngàn!

Hoa này ít khi tôi thấy có ở Sài Gòn, nên thấy thì mua vội, dù biết rằng nhà không có bình nào cắm cho hợp. Về nhà, nhìn quanh nhìn quất thấy có cái hũ này là vừa nhất. Đây vốn là hũ cà phê tan Tchibo. Dạo này tôi toàn uống lại này, hay Nes Cafe Gold, cứ hai muỗng cà phê hai muỗng đường nửa phần nước sôi nửa phần sữa tươi pha ra khá giống cafe latte cứ thế mà quất tì tì nên nhà có kha khá hũ này ai muốn xin về cắm hoa thì cứ bảo một tiếng:). Thế nào cũng có người chê tôi uống cafe nhạt toẹt, ấy nhưng mà tôi bây giờ dễ tính lắm, cà phê kiểu gì uống cũng xong, cafe hòa tan được cái đỡ phải chờ cafe rơi từng giọt và nhất là đỡ phải rửa phin. Vả lại, giờ tôi cũng đã có tuổi, sắp về hưu rồi (có bạn trên FB bảo tôi thế), uống cà phê đặc quá chịu không nổi. Thời trai trẻ uống liền tù tì ba ly cà phê đen đặc không sao, chứ giờ làm hai ly cà phê Highlands đã say đứ đừ.

Tôi post hình hoa theo chủ trương thỉnh thoảng có một ngày không /sách/. Nghiêm cấm mọi bình phẩm về nghệ thuật chụp ảnh.



Update: Theo góp ý của bạn [già] lamnguyen bên dưới, bình hoa ở trên không phải penseé mà là cẩm chướng Nhật.  Hoa penseé theo ảnh trên internet nó ra thế này:





Chủ Nhật, 23 tháng 10, 2011

Cả nể

Đã thành lệ, chiều thứ bảy và chiều chủ nhật là khoảng thời gian most productive của tôi. Tóm lại thì tôi có hai ngày nghỉ cuối tuần, trong hai ngày đó buổi sáng là thời gian dành cho ba cái đuôi, buổi chiều tống ba cái đuôi đi ngủ thì tôi có thời gian yên ổn mà làm việc của mình. Có một project mà tôi làm thêm cả năm nay (ngoài công việc chính) dần sắp đến đoạn kết - project này lấy của tôi khá nhiều thời gian và sức lực đấy là chưa kể tăng thời gian sử dụng máy tính dẫn đến hỏng hóc một số cái trên người. Xong project này tôi phải nghỉ xả hơi một thời gian.

Trong thời gian làm project kia, tôi lại còn cả nể mà làm thêm vài thứ khác. Cả nể cho nên sự dở dang/ Nỗi niềm chàng có biết chăng chàng/ Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc/ Phận liễu sao đà nẩy nét ngang.  May tôi không là phận liễu nên không nảy cái nét ngang nào, nhưng, chẳng hạn như chiều nay có một cuộc nhậu vỉa hè hoành tráng, thì trước khi đi tôi phải cố cho xong một cái deadline nho nhỏ.

Chẳng phải tình cờ mà tôi nghĩ đến thơ Hồ Xuân Hương. Nhân là sáng nay đi tìm truyện "Tội ác và trừng phạt" của Nguyễn Huy Thiệp cho bác TV, tôi lôi NHT ra đọc lại. Vì không nhiều thời gian nên vừa hò hẹn với Ms Quế Chi (WC) tôi vừa đọc, hò hẹn xong cũng vừa đọc xong Chút thoáng Xuân Hương - truyện thứ nhất. Xong bất giác cười tủm tỉm. Xuân Hương trong truyện thứ nhất này không hề xuất hiện; người đọc chỉ biết đến nàng thông qua ấm nước vối nàng sửa soạn, hình ảnh một cái bàn thờ được dọn sạch sẽ và một mâm bánh trôi. Người không ra mặt nhưng bóng dáng luôn phảng phất quanh nhà - đích thị là "chút thoáng." Quả nhiên tài tình. "Trong cõi nhân gian này, tất cả mọi sự nghiêm chỉnh cũng là khôi hài, nên có cơ hội cần phải cười ngay, thế nhưng không hiểu tại sao ông không cười được." Đây là câu NHT viết về Tổng Cóc.  Hóa ra tôi không phải là Xuân Hương mà là Tổng Cóc!





Thứ Tư, 14 tháng 9, 2011

Nghỉ ngơi đúng cách

Có một sự thật không nhiều người biết: trong môi trường văn phòng, vật nguy hiểm nhất là cái máy tính. Những thao tác lặp đi lặp lại trên bàn phím và con chuột, ngỡ lành, nhưng kỳ thực có thể gây ra nhiều chấn thương. Vì lẽ đó, một số công ty buộc nhân viên cài đặt một phần mềm theo dõi tần suất thói quen sử dụng máy tính của người dùng, và nhắc nhở người dùng phải nghỉ ngơi sau một quãng thời gian nhất định. Thường thì sau khoảng sáu phút dùng máy tính liên tục, người dùng được nhắc nghỉ khoảng sáu đến tám giây; và sau 55 phút dùng máy liên tục, nghỉ sáu phút.

Cách đây ít lâu, tôi đã kêu ca về việc đau ngón giữa bên phải do đánh máy không đúng kỹ thuật, dùng ngón giữa quá nhiều. Sau một thời gian cố gắng dùng nhiều ngón hơn khi đánh máy, tôi đã tiến một bước đến đau cả ba ngón trỏ, giữa, áp út bàn tay bên phải. Tay trái OK, có lẽ cho sử dụng ít hơn.  Tôi mong nhanh đến ngày phần mềm nhận giọng nói  thông dụng, khi ấy không dùng tay nữa, chỉ dùng mồm. (Nói vậy, vẫn e rằng khi ấy mồm lại chóng hư hỏng thì nguy hơn.)

Trong khi chờ đợi các tiến bộ về công nghệ, tôi cố tuân thủ quãng nghỉ theo nhắc nhở của phần mềm nói trên. Thời gian đầu, rất khó chịu khi đang có hứng làm việc mà phải nghỉ. Phàm làm gì đang có hứng mà bị gián đoạn thì cũng bực mình. Nhưng riết rồi tay đau, mắt mỏi, tôi tuân thủ nghiêm nhặt, đồng thời cố gắng sử dụng thời gian nghỉ hợp lý hơn. Chẳng hạn, tôi dành những việc như uống nước, lấy thư, pha cà phê, đọc báo, toa-nét.v.v. vào những lúc máy tính không cho mình làm việc.

Nếu bạn làm việc máy tính nhiều mà không có sẵn phần mềm đó thì sao? Tôi thấy có một số phần mềm miễn phí trên internet, nhưng chưa dùng thử nên không  dám giới thiệu. Tuy nhiên, có một số mẹo sau các bạn có thể dễ dàng làm theo:

1.       Dùng chuột ngoài thay cho cho chuột trong laptop;
2.       Sử dụng các phím tắt thay cho chuột;
3.       Không sử dụng bàn phím bằng cách kiếm người khác đánh máy cho mình;
4.       Không nhìn màn hình, bảo người khác đọc cho;
5.       Vứt máy tính đi.

Thứ Năm, 25 tháng 8, 2011

After wine

Một trong những trò tôi rất khoái, chính xác hơn, trò tôi khoái nhất, là nhại theo phim, bài hát, hay thơ. Tôi dường như có một chút năng khiếu trong trò này. Đầu tôi dường luôn sẵn sàng để nhại một cái gì đấy. Ai đọc blog tôi nhiều, ắt nhận ra. Ngay cả tên entry này, after wine, đúng là after wine thật, nhưng khi viết như thế tôi nghĩ đến After Dark của Murakami và After Dark của Andy Gibbs, cậu út trong nhà Bee Gees (?).  Câu mới nhất tôi vừa nghĩ ra, dĩ nhiên nghĩ ra after wine, là too much food and too much wine/wonder how I stay alive. Tôi vừa nghĩ vừa hát thầm trong đầu, theo Seasons in the sun, tất nhiên là thế. Hà Nội hôm nay thời tiết tuyệt đẹp, cho dù phải đi họp cả ngày, thì vẫn thấy trời đẹp. Tối chỉ đi ăn với sếp thôi, nhưng được cái  đồ ăn ngon và rượu ngon, và sếp là người nói chuyện rất thú vị. Có sếp như thế kể cũng là điều may. May hơn, tôi kiếm được quán ăn ngon, rất ngon, và sếp chọn được vang ngon, rất ngon, ít ra đối với tôi, nên ăn uống xong rồi cảm thấy rất phè phỡn. Life is beautiful.

Ngay khi viết những dòng này, đột nhiên liên tục nhận được tin nhắn của một thằng bạn cũ, cùng ở SG nhưng hai ba năm không gặp. Nó nhắn toàn thơ của tôi hồi năm hai, năm ba đại học, những là rồi một ngày, một ngày, một ngày, lối đi cũ lơ ngơ cuội trắng, với cả, em ở lại cưới mùa xuân lộc nõn.  Tôi  hỏi mày xỉn hả. Nó nói xỉn *éo đâu, nhớ mày thôi, tao đang uống cuốc lủi. Tôi nhắn lại, tao cũng mới uống xong, thỉnh thoảng nhớ mày ghê, hôm nào gặp đi. Rồi nó nhắn cái gì mà tao tự hào về mày, rồi tôi cũng nhắn tao cũng tự hào về mày, rồi cái gì tao yêu mày, tao cũng yêu quý mày hiếm có, nói chung là rất gay. Tin nhắn qua lại liên tục một hồi rất vui và rất cảm động, thằng chó chết ạ.  Thằng chó chết này đang làm Tổng thư ký tòa soạn một tờ kha khá.

À, tôi đang lảm nhảm cái quái gì nhỉ, tài năng parody của tôi. Có lần đi Singapore, tôi nhớ nhại Bob Dylan tôi hát, how many trees that you have planted/before you become so green. Còn mỗi lần nhớ về Hà Nội, tôi hát Tháng tám mua thu, nắng rơi vàng chưa nhỉ... Ngày thu sang, anh lót ổ em nằm. Lót ổ nghe hay hơn lót lá đúng không? Tình cảm hơn là cái chắc. Hic, rồi những là mình nói chuyện gì khi mình nói chuyện đường, mình nói chuyện gì khi mình nói chuyện cầu, sững sờ và run rẩy, sống trong sách chết vùi trong sách/ những trái tim như mọt, sáng ngời  .v.v., nhưng tự thấy ưng ý nhất là cú vừa đi đường, vừa kể chuyện.

Too much [good] food and too much [good] wine...

--------

Thơ Tagore:

cõi đời ơi khi tôi đã chết rồi

thì trong cõi vắng lặng của người

chỉ một lời còn lại

tôi đã từng yêu


-------


Thơ Chế Lan Viên: 



Từ thế chi ca

I
Anh không ở lại yêu hoa mãi được

Thiêu xong, anh về các trời khác cũng đầy hoa

Chỉ tiếc không có tình yêu ở đó!

II

Anh thành một nhúm sương tro trong bình

Em đừng khóc

Ngoài vườn hoa cỏ mọc

III

Cho dù trái đất không còn anh

Anh vẫn còn nguyên trái đất

Tặng cho mình.

IV

Những kẻ nguyền rủa anh sẽ buồn

Chả còn anh cho họ giết

Dao sẵn rồi, họ không dễ để yên

V

Những bạn bè yêu anh sẽ gặp anh

trong cỏ

trong hạt sương

trong đá

trong những gì

không phải anh

Anh tồn tại mãi

Không bằng tuổi tên

Mà như tro bụi

Như ngọn cỏ tàn đến tiết lại trồi lên.
 

Thứ Sáu, 1 tháng 4, 2011

Gạch đầu dòng hôm nay




  • Buồn ngủ từ sáng sớm.  Cả ngày vờ vật ở công ty, về đến nhà thì lại chẳng buồn ngủ.
  • Suýt nữa bay móng chân cái vì đá phải chống nghiêng của xe máy, may mà nhờ mang giày rất khủng bố nên chỉ bị rách có một nửa móng chân.  Đây là lần thứ hai gặp tai nạn này.
  • Bị sếp hớt tay trên mất ly cà phê mà bạn admin pha giùm.
  • Đọc được 12 trang đầu của một cuốn tiểu thuyết không xin được giấy phép.  Thích.  Có lẽ ở thời điểm hiện tại những cuốn không xin được giấy phép là những cuốn đáng đọc nhất, không phải vì lý do không xin được giấy phép, mà vì chất lượng văn chương của nó.
  • Cảm thấy chán vì đầu óc trống rỗng đến nỗi không nghĩ được ra trò cá tháng tư nào.
  • Quyết định thanh lý ít nhất một nửa số sách đang có.  Sách thanh lý thuộc dạng nhìn thấy gáy đã bực mình!  Với lại, như thế thì tầng dưới nhà mình sẽ an toàn hơn:)
  • Hoàn thành những trang cuối cùng của tiểu thuyết đầu tay Tầng 33.  Không đến 500 trang như dự định nhưng chắc hơn 400 trang vì đến những 180 trang A4 chi chít.  Tin vui là biên tập của Phương Nam đã đồng ý in dù mới đọc được 3/4 bản thảo.  Nếu không có gì thay đổi, sách sẽ xuất hiện tại các nhà sách vào cuối năm nay.  Các bạn nhớ ủng hộ.  Bạn nào từng tặng sách cho mình yên tâm sẽ có một cuốn có chữ ký tác giả kèm ảnh:)
  • Vừa đập được một con muỗi đầy máu!

Thứ Hai, 31 tháng 1, 2011

Wish list tháng 2



Trong lịch sử Việt Nam cận đại, tháng 2 có tầm quan trọng tương đương tháng 5.


Lẽ ra chỉ lặng lẽ kỷ niệm, thế nhưng có người yêu cầu post wish list.  Để cho công bằng, nay công bố cái wish list này vậy.  Các bác yên tâm đi, thuần khiết lắm, không có kiểu biệt thự có bể bơi bên bờ biển, penthouse Sunrise City hay Tố nữ kinh đâu.


Wish list chỉ đơn giản thế này:



  1. Tuyển tập Kafka;
  2. Thằng ngốc của Dos;
  3. Tuyển tập Nguyên Ngọc;
  4. Các bản dịch tiếng Việt Camus và Gide trước 75 (trừ bản dịch của Bùi Giáng);
  5. Platform và The Possibility of an Island của Houellebecq (bản tiếng Anh, dĩ nhiên);
  6. Đường sống của Tolstoy;
  7. Bộ The Paris Review Interviews;
  8. Cổng tỉnh và Mùa sạch của Trần Dần (bản in);
  9. Ánh sáng và phù sa của Chế Lan Viên (bản in);
  10. Các tập Di cảo thơ của Chế Lan Viên (bản in - cái này từng có, cho gái mượn rồi mất luôn);
  11. Đi tìm sự thật biết cười (Umberto Eco)
Tạm thế thôi.  Nhớ ra gì sẽ bổ sung sau.


Thứ Bảy, 13 tháng 11, 2010

Bảy vặt vãnh cho một cuối tuần

  1. Mang tiếng cuối tuần, nhưng cứ bắt đầu bằng giữa tuần trước.  Giữa tuần có chuyến công tác chớp nhoáng Hà Nội, sáng đi chiều về xen kẽ trưa ăn chả cá, ngửi mùa thu Hà Nội phát rồi về.  Tiệm chả cá là cái tiệm gì mà thằng Tây nào bảo là một trong những chỗ nên đến trước khi chết.  Lần này đến là lần thứ hai, thấy chả cá dở hơn xưa, dù cá vẫn nóng và mặt các chị em phục vụ vẫn lạnh:) Anh bạn đi cùng gọi ly đá để uống cùng soda được phát cho một phích đá to vật vã tự phục vụ lấy, nhân tiện, anh phục vụ luôn cho cô gái bàn bên.  Cô kia đi một mình, được gắp đá cho không cảm ơn gì, chỉ len lén nhìn hai anh bên này suốt buổi:)

  2. Trên máy bay từ HN vào SG, chén gần xong cuốn Có được là người của Primo Levi. Cho dù trang 200 cuốn này có một lỗi typo:), thì đây vẫn là một cuốn rất nên đọc, đặc biệt khi đang ngán ngẩm các thể loại tiểu thuyết hoặc Linda Lê:)  Đọc cuốn này để thấy rằng những nỗi đau kiểu nhổ răng:), bị bồ đá, vợ la, cha mẹ rầy, hay thậm chí phải ăn cơm khê:) chẳng có nghĩa lý gì so với bị nhốt vào Auschwitz:)

  3. Sáng thứ bảy mới mở mắt đã nghe bác này gọi, báo bài này đã lên Tuổi Trẻ, nhân tiện nhắc lại vụ rủ rê đi Cà Mau thăm chị này:) Thích thì thích lắm, nhưng tình hình hơi ban-căng, để thử nịnh phù thủy của bạn Alpha xem sao. Cái bài trên Tuổi Trẻ, sao cứ nhè mấy câu duyên duyên mà cắt là sao là sao là sao:) (copyright saurieng).

  4. Sáng thứ bảy uống cà phê với chị này, cho dù tâm hồn chị đang thơ thẩn tận Canada thì chuyện vãn vẫn rất vui. Nghị quyết của buổi nói chuyện là: (i) phải đọc Nhiều cách sống:), (ii) đọc lại Tự của Y Ban để xem đàn ông bị bỉ thế nào, và (iii) tuần sau cho mượn Phạm Thị Hoài đấy nhé.

  5. Cũng sáng thứ bảy, chạy vào nghe chị này giới thiệu sách. Ối trời ơi, người đâu ăn nói dịu dàng dễ nghe, lại còn duyên dáng nữa mới chết chứ.  Vài ghi nhớ từ buổi nói chuyện: (i) gốm vỡ là chữ cái của khảo cổ, (ii) thường nghe nói Sài Gòn ba trăm năm, nhưng thực ra dưới lòng đất Sài Gòn có di tích ba ngàn năm, (iii) nhà khảo cổ giống công an ở chỗ tìm thấy vàng thì sẽ ghi là tìm thấy “kim loại màu vàng”, (iv) mốt đeo bông tai một bên của nam teen ngày nay chả có gì mới mẻ, cách đây 2000 năm đàn ông đã đeo bông tai đá một bên, với điều kiện phải giàu và quyền lực, và (v) chị từng tìm thấy một cái linga to vật vã đến nỗi tất cả đàn ông trong đoàn phải tiu nghỉu, buồn bã vì…tự ti:)

  6. Chiều thứ bảy, cho hai bạn Alpha và Pi đi khám bệnh. Trong lúc chờ, chén xong cuốn Chàng sumô không thể béo.  Cuốn này mỏng dính, chưa đến trăm trang, khổ sách lại nhỏ nên đọc nhanh chẳng có gì lạ.  Nói ngay là không thích nhé, mặc dù rất thích cuốn cùng tác giả là Nửa kia của Hitler. Dạng như truyện ngụ ngôn, thông điệp rõ ràng rành mạch. Mà tôi chỉ thích những gì mờ mờ ảo ảo, kiểu như áo em trắng quá nhìn không ra, chứ lộ liễu thế kia nhất định không phải taste của mình.

  7. Cuối cùng, Cốm Xanh đã mở cửa trở lại, nên sáng mai Chủ nhật sẽ cho hai bạn Alpha và Pi ra đấy ăn bún ngan và xôi xéo! 

Thứ Sáu, 5 tháng 11, 2010

Cà phê ngon - Ngày đẹp trời


Chú ý, có dấu gạch ngang ở giữa.  Đó là một dấu gạch ngang vô vọng nhằm nối kết hai sự việc không liên quan gì nhau mấy thuộc về hai thời điểm khác nhau: cà phê của thời điểm này, gần 12 giờ đêm một ngày thứ năm, hay chính xác hơn là đêm thứ năm, còn ngày đẹp trời, thuộc về hôm qua, một ngày thứ tư, một ngày Sài Gòn trời không thể đẹp hơn, đẹp đến nỗi dù biết rằng nơi nào đang mưa lũ vẫn không thể không xuýt xoa mà không áy náy, đẹp đến nỗi chỉ muốn nằm lăn ra vỉa hè đường Đồng Khởi cho nắng ruộm vàng thân, đẹp đến nỗi trưa sẵn sàng không ăn cuốc bộ một vòng quanh quận 1, đẹp đến nỗi thấy mình bất lực vì không thể níu giữ lại được những giờ phút ấy, chỉ còn biết âm thầm hít thở, âm thầm ngắm nhìn, âm thầm vui sướng, âm thầm tan ra hòa lẫn với phố phường xe cộ.  Giờ phút ấy Sài Gòn không mùa thu chẳng phải mùa đông - gọi đúng tên phải là mùa lâng lâng - và khi đi trên phố phải kìm nén mình hết cỡ, giẫm chân mạnh hết cỡ bằng không rất dễ bay tuốt lên trời như bong bóng.

[Xong phần đẹp trời, chuyển sang phần cà phê.]

Lâu rồi tôi không uống cà phê về đêm.  Lý do là tôi sống làm việc theo lời khuyên của các bác sĩ nên hạn chế uống cà phê buổi tối nhằm giữ gìn cho làn da trắng như tuyết và mái tóc đen nhưng khung cửa gỗ mun [của tôi, của tôi!].  Như có lần đã nói, đêm - nếu cần chống chọi với kẻ thù mang tên buồn ngủ, tôi thường uống trà đặc.  Nhưng đêm nay chả hiểu vì sao lại thèm cà phê, thế là tự tay nấu nước và pha một phin cà phê bột Highlands nén chặt vừa phải, nước thật sôi, xong pha một ít sữa đặc.  Uống xong ly cà phê thấy lòng phơi phới, nhìn ra bóng đêm mà tưởng là nắng mới, suýt nữa hét lên, may kịp kiềm lại chứ không thì con sẽ khóc toáng và hàng xóm gõ cửa nhà. 

[Đoạn kế tiếp không phải trời đẹp cũng chẳng phải về cà phê - họa may thì về cái gạch ngang.]

Cảm giác hoàn thành tốt một việc cũng tuyệt như cảm giác hưởng thụ một ngày đẹp trời hoặc uống một ly cà phê ngon.  Phải cố lắm mới không hét và phải ghìm mình hết cỡ mới không bay lên.