Hiển thị các bài đăng có nhãn bài-đăng-báo. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn bài-đăng-báo. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 17 tháng 10, 2013

Khi Quý nghỉ chân

Khi Quý nghỉ chân

Có lần trả lời phỏng vấn, Nguyễn Trương Quý nói, anh chọn tản văn vì khả năng càn lướt hiện thực của nó. Không rõ Quý chọn tản văn hay tản văn chọn Quý, mà nhắc đến các cây bút tản văn hiện thời, không thể không nhắc đến cái tên Nguyễn Trương Quý. Quả thực, trong thể loại tản văn, Nguyễn Trương Quý hiển nhiên đã xây dựng được một "thương hiệu". Là chủ nhân của bốn tập tản văn, trong đó có tập tản văn đầu tiên được xây dựng như một tác phẩm concept với một hình tượng chung, một chủ đề nhất quán - Tiếu ngạo xe máy, Nguyễn Trương Quý đã chứng tỏ anh có khả năng dùng tản văn để "càn lướt" hiện thực điệu nghệ như thế nào. Những tính từ thường được dùng để mô tả tản văn của anh là "hóm hỉnh" và "duyên dáng". Tôi thêm chữ "ngoa".

Tuy nhiên, lần này, con người của tản văn ấy đã rời bỏ thể loại quen thuộc, để bước chân sang một địa hạt mới, mà ở đó số tác giả đã nhiều gần bằng số người từng cầm bút! Viết chỉ để có truyện đăng báo thì không khó. Viết để chính bản thân mình hài lòng, để để lại một dấu ấn, thực sự là một thách thức. Tôi chợt nhớ đến gã khổng lồ công nghệ Intel, ông vua sản xuất chip cho máy tính cá nhân, cũng đã chấp nhận thách thức thế nào khi bước chân vào địa hạt chip cho máy tính bảng và điện thoại!

Không khó để nhận ra nhân vật trong truyện ngắn của Quý là ai. Hầu hết họ chính là giới nhân viên văn phòng, trí thức trẻ thành thị từng được (hay bị?) Quý đem ra bóc tách, cười cợt trong các tản văn, đặc biệt trong Ăn phở rất khó thấy ngon. Điểm khác biệt là, nếu trong tản văn, họ xuất hiện như một nhóm người chia sẻ những phong cách, thói quen chung, thì ở đây họ xuất hiện thành những cá nhân, có tên, có gương mặt, có gia đình con cái, có yêu có ghét cụ thể. Họ quen nhau qua mạng, họ ngoại tình, họ lãng đãng, họ vô tâm, họ sỉ diện, họ hèn, họ tinh tế vặt, gỉ gỉ gì gi đi nữa, nhưng nhìn chung thì họ đáng thương. Đã thế, có lần, họ bị còn bị bỏ rơi: Trong "Câu chuyện bắt đầu từ tầng 10", anh nhà văn Mạc Vũ Huân trong một lần tìm tứ cho truyện đã trượt chân lao từ tầng mười xuống, không chết nhưng nằm mắc lửng lơ trong một đám dây nhợ bùng nhùng. Kêu chẳng ai nghe vì phố xá quá ồn, cố tình gây chú ý bằng cách nhổ nước bọt thì cũng bị hai bà ăn bún ngan xơi mất, anh đành nằm trên đống dây gánh chịu tình cảnh bị bỏ rơi. Nếu như anh nằm mãi trên đống dây, thì câu chuyện sẽ mang màu sắc phi thực, kiểu Kafka hay Gabriel Garcia Marquez, nhưng tác giả lại cho anh được xuống đất. Đó là một cú twist dí dỏm. Cách xử lý của Nguyễn Trương Quý trong truyện này cho thấy anh mang được nét hài hước - thế mạnh của anh từ tản văn sang truyện ngắn.

Cái nên mang thì Quý đã mang, còn cái không thì Quý để lại. Ngôn ngữ Quý sử dụng cho truyện ngắn đã có độ tiết chế đáng kể so với tản văn. Nếu như khi viết tản văn, Quý hơi "ngoa" (nhưng đây là nét hấp dẫn của tản văn của anh), thì trong các truyện ngắn, ngôn ngữ của Quý có độ lùi, tỉnh táo, để câu chuyện tự nó được kể, mà tác giả hiếm khi can thiệp vào, bình bình xét xét.
Tôi chú ý đến những câu kết truyện của Quý. Những câu ấy, thay vì kết lại, thì lại hay gợi ra một cái gì đó, rất có thể là một thứ hoàn toàn khác. Ví dụ: "Ngón tay út cong lên dài vút như khiêu khích." (Tiệc Tây); "Dòng xe máy bị tắc lúc nãy giờ rùng rùng chuyển động phía sau." (Chị Xít); "Sân trường ngoài kia ngùn ngụt hơi nóng bốc lên làm những dãy nhà phía xa biến dạng như ảo ảnh." (Đồ án tốt nghiệp); "Có lẽ anh sẽ đi khám da liễu, tình trạng này kéo dài không biết rồi sẽ ra sao." ("Vết đâm"); "Tiếng phát thanh viên dự báo chiều nay bão sẽ về." ("Rừng mái rừng mơ").
Với nhiều người viết khác, tản văn là một quãng nghỉ chân giữa các tiểu thuyết hay truyện ngắn. Với Nguyễn Trương Quý, ngược lại, truyện ngắn có thể lại là một quãng nghỉ chân giữa các tập tản văn. Nhưng cũng có thể, chính tập truyện này lại mở ra một hướng đi hoàn toàn khác. Như những câu kết truyện của Quý. Hay như Intel xông pha vào thị trường máy tính bảng và điện thoại!
   

Thứ Bảy, 28 tháng 9, 2013

Sách đọc cùng con


Nhà văn chủ nhân giải Nobel Văn chương 2006 Orhan Pamuk có lần nói, đại ý, nhà văn là người phải luôn giữ được khả năng nhìn đời qua con mắt trẻ thơ. Có thể nói thêm mà không ngại sai, rằng người lớn, bất cứ ai, làm bất cứ ngành nghề nào, mà giữ được khả năng nhìn đời bằng con mắt hiếu kỳ vô hạn của trẻ con, thì sẽ bớt thiệt thòi. Thật vậy, bất cứ ai từng làm bố làm mẹ, hoặc giả tiếp xúc nhiều với trẻ con, không chóng thì chầy đều mệt nhoài trước khả năng đặt câu hỏi bất tận của chúng. Người lớn thì khác, càng lớn năng lực đặt câu hỏi của chúng ta càng phai nhạt, càng có khuynh hướng chấp nhận sự vật như chúng vốn có. Chúng ta lười nhác, chúng ta ngại ngùng, chúng ta có trăm ngàn lý do để đè nén những câu hỏi lại. Chúng ta nhìn mây bay mà chẳng mấy khi hỏi tại sao nó lại bay được; chúng ta chớp mắt mà chẳng buồn thắc mắc nếu không chớp mắt thì chuyện gì xảy ra. Một vài người hiếm hoi còn duy trì được khả năng này thì trở thành... Newton, hay những tên tuổi tầm cỡ khác!

Trẻ con không ngừng hỏi, và bố mẹ chúng thì không ngừng lúng túng. Đôi khi, không phải ông bố bà mẹ ấy không biết trả lời - trong thời đại của Internet, với vài cú nhắp chuột mọi đáp án đều có thể tìm ra - mà là không biết cách diễn đạt câu trả lời ấy cho vừa đôi tai trẻ thơ. Làm thế nào để trả lời những câu hỏi đại loại như trước khi ra đời thì con ở đâu, hay tại sao bạn Bông lại được ăn đám cưới ba mẹ bạn ấy mà con thì không, hay trước trước nhất thì ai sinh ra con người một cách vừa đơn giản dễ hiểu, vừa không tránh né sự thật, lại vừa dí dỏm? Có một cuốn sách đáp ứng nhu cầu đó: cuốn Tại sao lại thế? - Những câu hỏi lớn của các bạn nhỏ của tác giả người Pháp Charlotte Grossetête.

Đây là một ví dụ: "Làm thế nào để "tạo ra" một em bé? Đầu tiên, bố sẽ nhờ chim của bố gửi vào bụng mẹ một hạt giống bé xíu. Khi tới nơi, hạt giống của bố sẽ gặp hạt giống của mẹ, sự kết hợp ấy tạo thành một quả trứng nhỏ cứ lớn dần, lớn dần lên...rồi trở thành một em bé!".

Cuốn sách được chia thành bốn nhóm chủ đề: Tớ! gồm những câu hỏi xoay quanh bản thân bé; Gia đình tớ gồm những thắc mắc về bố mẹ, anh chị em; Cuộc sống là thế đấy là phần của những thắc mắc đa dạng về cuộc sống, tình cảm yêu, ghét, xấu, tốt, đau khổ, bất công; và phần cuối cùng Thế giới quay, quay với những câu hỏi về Trái Đất và các hành tinh, môi trường, chiến tranh.v.v.

Cuốn sách không ghi lứa tuổi, nhưng chủ đề, cách viết và minh họa, phù hợp cho các bé từ 5 đến 8 tuổi. Các bé có thể đọc một mình, nhưng lý tưởng hơn là ba mẹ đọc cùng con, mỗi ngày một vài câu, hoặc các ông bố bà mẹ có thể tham khảo sách này mỗi khi bị con cái dồn vào thế bí. Dĩ nhiên, không có câu trả lời cho tất cả các câu hỏi của các bé trên đời, nhưng các ông bố bà mẹ có thể nương theo cách trả lời các câu hỏi khác trong sách để tự nghĩ ra cách trả lời con. Sách này được trình bày nhẹ nhõm với nhiều minh họa màu rất duyên. Với các bé thích vẽ, những minh họa trong sách là gợi ý về cách tạo hình đơn giản và về màu sắc.

Cũng là sách dành cho thiếu nhi, cùng do NXB Kim Đồng ấn hành, nếu Tại sao lại thế? Những câu hỏi lớn của các bạn nhỏ nhẹ nhàng và dí dỏm, thì Dokéo - Bách khoa thư thế hệ mới tưng bừng, rộn rã và đầy màu sắc. Nếu cuốn đầu gợi ra những chân trời háo hức, thì cuốn sách thứ hai này mở hẳn ra một bầu trời với vô vàn tinh tú. Dokéo - Bách khoa thư thế hệ mới do NXB Editions Nathan của Pháp biên soạn là một cuốn sách đầy đặn từ hình thức đến nội dung. Với hơn 400 trang in khổ lớn, hàng nghìn tranh ảnh minh họa, cuốn sách phủ qua bảy lĩnh vực: động thực vật, khoa học Trái đất, cơ thể người, khoa học và kỹ thuật, lịch sử, thế giới ngày nay, và nghệ thuật, giải trí, thể thao.

Cụm từ "thế hệ mới" có thể hiểu theo hai cách: dành cho thế hệ mới, thế hệ trẻ em sinh ra từ những năm 2000, mà cũng có thể có nghĩa đây là một cuốn bách khoa được biên soạn theo một cách mới với những thông tin mới. Sách được biên soạn năm 2011, dịch và in tại Việt Nam năm 2013. Cái mới, cái ấn tượng nhất của cuốn này là lượng tranh, ảnh khổng lồ. Trên mỗi trang sách đều có vài chục tranh, ảnh. Kèm theo đó là các hộp chứa thông tin vắn tắt nhưng súc tích, đầy đủ. Tranh ảnh ở đây do vậy vượt lên tính chất minh họa thông thường. Bản thân tranh ảnh đã kể ra một câu chuyện, và phần thông tin bằng chữ viết bổ túc cho câu chuyện đó.

Hiển nhiên, một bộ bách khoa toàn thư, cho dù dành cho trẻ em và cho dù có rất nhiều tranh ảnh, không phải là sách đọc một lần. Có thể hướng dẫn trẻ sử dụng cuốn sách này theo nhiều cách. Chẳng hạn, dùng mục lục ở đầu sách để tìm các chủ đề liên quan, dùng bảng tra cứu theo vần ở cuối sách để tìm hạng mục quan tâm, hoặc dùng những trang đố vui để vừa chơi vừa học. Tuy nhiên, cũng có thể áp dụng mà cách tôi đang dùng với cậu con trai học lớp một của mình: khêu gợi óc tò mò. Tôi để sách trên chiếc bàn thấp, mở sẵn một trang bất kỳ. Cu cậu thấy hình bèn sà vào xem một hồi và bắt đầu hỏi. Khi đó, tôi mới đọc, và giải thích thêm cho con nghe. Thế là, hai cha con có hôm cùng tìm hiểu về khủng long, hôm thì cùng nhau thưởng thức mười hai kỳ công của Hec-quyn trong thần thoại Hy Lạp.

Dokéo dành cho trẻ từ chín tuổi, tuy vậy trẻ từ sáu tuổi có thể đã đọc được một số phần với sự giúp sức của người lớn, còn người lớn cũng có thể đọc được khối thông tin thú vị từ đây, rất tiện cho việc chém gió vỉa hè hay đi thi các cuộc thi kiến thức phổ thông trên truyền hình!

Cũng được biên soạn công phu, tỉ mỉ và sử dụng nhiều tranh ảnh kích thích thị giác như Dokéo, nhưng đi sâu vào một lĩnh vực, là bộ Bách khoa thư lịch sử Kingfisher do Nhã Nam và NXB Từ điển Bách khoa ấn hành. Chính vì đi sâu hơn, nên đây không hẳn là cuốn sách chỉ dành cho trẻ em, mặc dù học sinh từ độ tuổi đầu cấp hai có thể bắt đầu đọc được. Đây là cuốn sách dành cho bất cứ ai quan tâm đến lịch sử.

Bách khoa thư lịch sử Kingfisher thực sự là một cuốn cẩm nang toàn diện về lịch sử. Tất cả những sự kiện trọng đại trong lịch sử loài người từ thời thượng cổ cho đến thời hiện đại đều được tóm gọn trong cuốn sách. Ở mỗi thời đại, mỗi khu vực địa lý, cuốn sách làm nổi bật lên những chân dung tiêu biểu, những mốc thời gian chính cũng như điểm qua về kiến trúc, nghệ thuật và công nghệ của thời đại và khu vực đó. Lật những trang sách này, độc giả sẽ không ngừng kinh ngạc về những gì mà loài người đã làm được, cũng như không tránh khỏi cảm giác bản thân ta nhỏ nhoi thế nào trước bề dày lịch sử đồ sộ của con người. Làm thế nào mà từ năm 2500 TCN người Ai Cập cổ đại đã xây dựng nên những kim tự tháp vĩ đại còn lại cho đến mãi ngày nay? Các đế quốc hình thành, trỗi dậy rồi suy tàn như thế nào, các cuộc chiến tranh nối tiếp nhau ra sao, những gì đã góp phần định hình lịch sử? Câu trả lời nằm giữa trang sách chờ đợi các độc giả trẻ, cả những độc giả không còn trẻ nữa, khám phá.

Về lý do tồn tại của sách giấy trước sách điện tử, nhà văn Anh Julian Barnes viết: "Sách phải trở thành một cái gì đó khiến người ta khao khát hơn, thèm muốn hơn: không phải là hàng xa xỉ, nhưng phải được thiết kế đẹp, hấp dẫn, làm cho ta muốn cầm nó lên, giữ chúng, nghĩ về việc đọc đi đọc lại chúng, và nhiều năm về sau nhớ lại rằng đây chính là ấn bản mà ta lần đầu tiên chạm mặt những gì chứa đựng bên trong." Những cuốn sách như Tại sao lại thế?, Dokéo hay Bách khoa thư lịch sử Kingfisher chính là những cuốn sách như thế: khiến người ta khao khát. Và không nghi ngờ gì, đây là những món quà tuyệt vời của các bậc cha mẹ dành cho con cái, của bất cứ người lớn nào dành cho trẻ em, hoặc giữa các bậc cha mẹ với nhau.

Quan trọng hơn cả, đây là những cuốn sách mà cách đọc hay nhất là cha mẹ đọc cùng con. Chẳng phải đọc sách cùng nhau là một cảnh tượng đẹp hơn nhiều so với cảnh "mẹ ngồi cạo lông chân/ bố ngồi xem chưởng bộ" * còn con thì chúi đầu vào iPad hay sao?

* Lời thơ của Thụ Nho trong cuốn sách tranh Một ngày của bố.

Lâm Vũ Thao

Thông tin về các cuốn sách:

-           Tại sao lại thế? Những câu hỏi lớn của các bạn nhỏ, tác giả Charlotte Grossetête, người dịch Lại Thu Hiền và Khang Anh, NXB Kim Đồng 2012, giá bìa 98.000 đồng;

-           Dokéo - Bách khoa thư thế hệ mới, Nhiều tác giả, Nhiều người dịch, NXB Kim Đồng 2013, giá bìa 330.000 đồng;

-           Bách khoa thư lịch sử Kingfisher, Nhiều tác giả, Nguyễn Đức Tĩnh và Ngô Minh Châu dịch, Nhã Nam và NXB Từ điển Bách khoa 2009, giá bìa 350.000 đồng.


  


Thứ Sáu, 6 tháng 9, 2013

Thuận: Tiểu thuyết với tôi là si mê dai dẳng

* Thuận là tác giả của các tiểu thuyết Made in Việt Nam (2002), Chinatown (2005), Paris 11 tháng 8 (2006), T mất tích (2007)VânVy (2008). Cuộc trò chuyện này được thực hiện nhân dịp cuốn tiểu thuyết mới nhất của chị, Thang máy Sài Gòn (Nhã Nam và NXB Hội nhà văn, 2013), ra mắt tại Việt Nam.

1.      Chúc mừng chị ra tiểu thuyết thứ sáu trong vòng 10 năm. Đó là một tần suất đáng nể ở bất cứ đâu, không chỉ Việt Nam hay Pháp. Trong Made in Vietnam, chị viết :" Nền văn hc ấy đếm được phần lớn là truyện ngắn, phần thứ nhì là thơ, một phần nhỏ nữa là tiểu thuyết và ký sự..." Liệu đây có phải là lý do chị hầu như không viết truyện ngắn và tuyệt đối không làm thơ, mà thay vào đó, gắn bó với tiểu thuyết? Nếu không phải, thì đâu là lý do khiến chị chăm chỉ với thể loại này?

"Tiểu thuyết là nghệ thuật vĩ đại nhất về nhân sinh... Tiểu thuyết biết đến tiềm thức sớm hơn Freud, biết đến đấu tranh giai cấp sớm hơn Marx, nghiên cứu hiện tượng học sớm hơn các nhà hiện tượng học".

Tôi sẽ không nói về tiểu thuyết như thế, như Milan Kundera.

Hơn chục năm trước, trước khi viết Made in Vietnam, tôi đã trải qua mối tình đầu với truyện ngắn mà tới bây giờ hầu như chẳng còn giữ lại kỷ niệm nào ngoài cảm giác dễ dàng : dễ dàng bắt đầu, dễ dàng kết thúc. Có thể vì tạng văn của tôi không hợp với thể loại này, hoặc tôi không muốn hòa mình vào đám đông đồng nghiệp ngày ấy, hay tôi muốn đi tìm một đối tượng sáng tác cởi mở hơn… Tôi không còn nhớ lý do chính xác nào đã khiến tôi chia tay với truyện ngắn, nhưng tôi nhớ tôi đã chia tay một cách quyết liệt : thay đổi bút danh, ném toàn bộ những thứ đã viết vào sọt rác và  không quan tâm khi ai đó nhắc đến mối quan hệ này.

Tiểu thuyết với tôi là một tình yêu lớn. Cũng bởi đó còn là ý muốn của tôiKhi đến với tiểu thuyết, tôi không còn là một cô nàng đôi mươi, ngây ngô tin rằng tình yêu nào cũng lớn, cứ yêu là lớn, cứ yêu là thành tác phẩm.  Trải nghiệm và hiểu biết khiến tôi nhận thức được rằng tình yêu lớn không tự trên trời rơi xuống. Sáu tiểu thuyết, không biết thành công đến đâu, nhưng có thể xác thực tình cảm của tôi dành cho thể loại này. Dù thế nào thì chúng cũng không phải là những truyện ngắn đặt cạnh nhau hay những mảnh suy nghĩ cứ cố kéo dài thành i trăm trang.

    Tôi nghĩ là tôi sẽ không bao giờ làm thơ, mặc dù thi ca chắc hẳn là một đối tượng vô cùng   quyến rũ. Cũng như tôi sẽ nói không với kịch, tiểu luận, bút ký… Nói cho cùng thì tôi đã   chọn tiểu thuyết và không thể phản bội nó vì bất cứ một lý do gì. Tiểu thuyết với tôi là một si mê dai dẳng, một trò chơi hấp dẫn khôn nguôi.

2.      Chị nhắc đến Kundera. Kundera cũng là người nói rằng: "Tiểu thuyết cũng từ chối hiện diện như là minh họa lịch sử, mô tả một xã hội, bảo vệ một ý hệ, và lên đường tìm những gì duy tiểu thuyết mới nói lên được."  Chị có chia sẻ quan điểm  này? Theo chị, đâu là điều mà chỉ tiểu thuyết mới nói lên được?

Trong một phỏng vấn mang tên “Đối thoại về nghệ thuật tiểu thuyết”, Kundera nhiều lần nhắc đến “truy tìm bản ngã”. Ông nói: “Bản ngã là gì? Làm sao thấu triệt được cái bản ngã đó? Đây là một trong những câu hỏi cơ bản của tiểu thuyết”.  Nhiều năm sau này, trong tiểu luận “Bức màn”, lại bàn về nghệ thuật tiểu thuyết, Kundera cho rằng tiểu thuyết mang sứ mệnh  “làm hé lộ” những khía cạnh vẫn còn bị che khuất của cuộc sống.

Tôi chia sẻ với Kundera quan điểm rằng tiểu thuyết không chấp nhận “minh họa”, “mô tả” hay “bảo vệ”, dù là minh họa, mô tả hay bảo vệ cái gì đi nữa. Nhưng nếu nói chỉ tiểu thuyết mới khám phá bản ngã và cuộc sống thì e là khiên cưỡng. Tạo sao lại không thể nghĩ rằng các ngành nghệ thuật khác, với ngôn ngữ riêng của mình, cũng mở ra những cuộc truy tìm về cái tôi và hiện thực? Tôi tin là một trong những điều đầu tiên mà người nhạc sĩ, họa sĩ hay thi sĩ đi tìm chính là bản ngã của anh ta, rồi qua đó mà kéo người thưởng thức vào cuộc thám hiểm những cái tôi khác, bao gồm cả căn cước của bản thân họ.

Như thế, vấn đề của tiểu thuyết, theo tôi, vẫn là vấn đề của mọi ngành nghệ thuật: kể lại cái gì không quan trọng bằng cách thể hiện cái đó như thế nào.

Cuối cùng, tôi muốn nói rằng thách thức của một người viết tiểu thuyết nằm ở chỗ anh ta khai thác được đến đâu ngôn ngữ đặc trưng cho ngành nghệ thuật này, vì tiểu thuyết, với chất liệu giản dị và gần gũi là văn xuôi, nhưng lại mang tới cho những ai biết cách sử dụng nó những khả năng vô hạn về cấu trúc, nhân vật và tình huống.

3.      Trong cả sáu tiểu thuyết của chị, chưa bao giờ vắng mặt sự giễu cợt, hoặc trực diện như trong Made in Vietnam hay Paris 11 tháng 8, hoặc kín đáo hơn một chút như trong T mất tích hay Thang máy Sài Gòn. Bao giờ thì chị thôi giễu cợt? Chị có phải là người ưa giễu cợt trong đời thường?

Bao giờ tôi mới thôi giễu cợt? Thú thật là tôi cũng không biết nữa, bởi vì làm sao mà biết được đến khi nào hiện thực vào tay tôi mới thôi u ám, còn tôi thì thôi sợ phải chứng kiến độc giả và tác giả cứ vài phút lại ôm nhau sụt sịt, còn văn chương nói chung thì thôi dầm dề? Thử tưởng tượng nếu T mất tích rồi chồng T ôm mặt khóc, rồi hổn hển ôn chuyện tình Pháp-Việt, lá vàng bay trong gió sông Seine, cà phê thơm đồi Montmartre… Hay thử  tưởng tượng nếu Liên của Paris 11 tháng 8 không xấu xí, lạnh lùng mà duyên dáng, dịu dàng và sang đến Paris rồi vẫn ôm gối mơ lại Hà Nội của Tháp Rùa, chùa Một Cột và Hồ Tây cùng chè sen, hoa sen, hương sen … Cứ tưởng tượng ra như thế thì bạn sẽ biết độc giả có cần một nhà văn tên là Thuận nữa không? hay đọc ai cũng thế mà thôi, hay đọc quảng cáo du lịch cho đỡ đau đầu và phí thời giờ?

Ngoài đời, tôi có phải là người ưa giễu cợt? Có chứ, đối tượng giễu cợt của tôi trong đời thường, rất nhiều khi là chính bản thân tôi.

4.      Ngay cả khi tựa đề chỉ tới Paris hay Sài Gòn thì trong hầu hết tiểu thuyết của chị vẫn có rất nhiều Hà Nội. Tuy nhiên, Hà Nội trong văn chị dường như bị bóc trần, bị châm biếm không thương tiếc. Sống ở nước ngoài nhiều năm liên tục, làm thế nào chị nắm bắt những cái nhôm nhoam của Hà Nội vắt từ thời bao cấp sang Đổi mới nhạy đến thế?

Nội đi vào tác phẩm của tôi như một thực thể chuyển động chứ không phải một sản phẩm đông lạnh nhập kho vào ngày tôi rời Việt Nam. Nhưng để giải thích sự chuyển động đó, có lẽ không thể bỏ qua cái mốc quan trọng là thời bao cấp. Theo tôi, cho Hà nội đã có cả khách sạn Metropole lẫn cửa hàng Louis Vuitton, và không ít người Hà nội sẵn sàng trả tiền triệu để đặt chân vào Nhà hát Lớn, thì tinh thần bao cấp xin cho vẫn là một trong những tinh thần chủ đạo của Hà Nội ngày hôm nay.

Nắm bắt cái nhôm nhoam của Hà Nội như thế nào? Vấn đề không phải cứ sống giữa lòng Hà Nội là đã hiểu Hà Nội. Sống giữa lòng Hà Nội nhưng nhìn Hà Nội qua mắt kính hồng hồng thì thế nào cũng cho ra đời một Hà Nội hồng hồng, mà người Hà Nội khó lòng tìm thấy mình trong đó. Độc giả ngày nay bội thực về các món ngon Hà Nội, mùi hoa sữa Hà Nội, nỗi bâng khuâng Hà Nội, hồ Hoàn Kiếm, đường Thanh Niên, chùa Trấn Quốc… Bạn có công nhận với tôi rằng văn chương dù có rẻ rúng đến đâu cũng không thể bị xếp ngang hàng với lưu bút tuổi xanh hay hồi ký người già? Đương nhiên cũng cần phải nói thêm rằng thông tin thì vô kể, nạp vào đầu là chuyện trẻ con, phân tích lựa chọn thì cần đến kỹ năng, nhưng có lẽ biến chúng thành văn chương mới là công việc của nhà văn. Hà Nội, trong tác phẩm tôi viết, chỉ còn một phần nhỏ là nơi tôi từng sống cả thời thơ ấu, còn phần lớn đã trở thành chủ thể sáng tạo. Phải chăng càng viết là càng phải quên đi câu chuyện của cá nhân mình ?

Paris vào tay Thuận cũng nhôm nhoam không kém. Bạn có thể nói thế. Chỉ có điều cái nhôm nhoam của Paris khác cái nhôm nhoam của Hà Nội. Cái nhôm nhoam của Paris không có mùi bao cấp.

5.      Nhân vật bà mẹ trong Thang máy Sài Gòn là một nhân vật rất ấn tượng. Cả đời, bà diễn hết vai này đến vai khác, đến cả khi chết rồi vẫn diễn vai người chết "như một diễn viên gạo cội" trong một đám tang được dựng như một tác phẩm điện ảnh. Chị đã xây dựng nhân vật này như thế nào?

Thang máy Sài Gòn là tiểu thuyết của những giả thiết. Chỉ sau cái chết bất thường của người mẹ thì cô con gái mới lên đường đi tìm chủ nhân bức ảnh mà mẹ cô vô tình để lại, rồi từ đấy mà tìm hiểu về người mẹ quá cố, một người mà mặc cho hai mươi năm chung sống cùng một mái nhà, đối với cô vẫn là một ẩn số. Cuộc tìm kiếm của cô có thể coi như cuộc tiếp xúc với các bóng ma: nửa thế kỷ trôi qua, nhiều người liên quan đã sang thế giới bên kia, những thông tin mà cô mang lại cho độc giả chẳng hề được đối chứng, nhiều khi chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng và óc phân tích rất đáng gờm của … chính cô.

Chân dung người mẹ được vẽ bởi cô con gái dị kỳ, không hiểu yếu đuối hay mạnh mẽ, tình cảm hay lạnh lùng, nhưng rõ ràng là thiếu vắng hoàn toàn những trường đoạn sáo rỗng về tình mẫu tử nhan nhản trong văn chương không chỉ của Việt Nam. Dưới con mắt của cô con gái, như bạn vừa nhận xét, người mẹ đã dùng cả cuộc đời để diễn, thậm chí nhiều vai cùng một lúc, và vai để đời nhất, hoành tráng nhất lại là vai người chết trong đám tang của chính mình.

Nhưng nếu chỉ mỗi như thế thì cũng chưa có gì đáng bàn lắm. Điều khiến tác giả là tôi cũng không ngờ nổi, ấy là càng viết càng phát hiện ra sự đa nhân cách của nhân vật này : một mặt, đó là một nữ cán bộ khát khao quyền lực ; mặt khác, đó cũng là một người đàn bà có niềm tin mãnh liệt vào tình yêu, dù chỉ là một thứ tình yêu bị ngăn trở mọi bề, mỏng manh và đầy hiểm nguy.

6.      Viết xong từ 2010 đến mãi 2013 mới được xuất bản, sự lận đận của Thang máy Sài Gòn có làm chị nản lòng?

Ba năm qua, từ lúc gửi bản thảo đi, các biên tập viên thỉnh thoảng lại đề nghị tôi xẻo một từ, một câu, một đoạn nào đó, còn tôi thì ngồi viết gần xong một tiểu thuyết nữa và dịch rồi xuất bản Thang máy Sài Gòn ở Pháp. Đương nhiên, phải thừa nhận rằng, không ít lần, không ít lời hỏi thăm của người đọc khiến tôi hơi nản lòng. Nhưng có lựa chọn nào khác cho tôi ? Làm sao có thể chấp nhận chia sẻ với độc giả một tác phẩm không còn nguyên lành ?

7.       Cả trong T mất tích lẫn Thang máy Sài Gòn, chị đã để cho nhân vật của mình biến thành những thám tử không chuyên. Bản thân chị đã dịch ít nhất hai tiểu thuyết trinh thám. Có bao giờ chị có ý định sẽ viết tiểu thuyết trinh thám chưa?

Tiểu thuyết trinh thám với mục đích duy nhất là làm độc giả mất ăn mất ngủ vài ngày, chưa bao giờ khiến tôi quan tâm. Có lẽ vì thế mà các nhân vật của T mất tích hay Thang máy Sài Gòn, chỉ được làm những thám tử không chuyên, và thay vì tìm ra những người phải tìm thì lại tìm được một phần của chính bản thân. Trong cuộc điều tra có vẻ là để giết thời gian, người chồng của T bỗng hiểu rằng giống như T, anh ta muốn rời bỏ cuộc sống đơn điệu này, nhưng khác với T, anh ta không đủ dũng cảm để làm một cuộc đời mới. Còn cô con gái trong Thang máy Sài Gòn, hối hả khai quật nửa thế kỷ bị lãng quên, tuy không tìm thấy người tình của mẹ nhưng lại ngộ ra những ngóc ngách khó lường trong tâm hồn mình. Bạn có đồng ý với tôi rằng cứ tìm kiếm đi, không thấy cái này sẽ thấy cái khác, và cuộc đời sẽ nhàm chán làm sao nếu chúng ta chẳng còn hứng khởi nào cho khám phá ?

8.      Nếu gọi tên hai nhà văn Pháp, một trong quá khứ  một ở hiện tại, mà chị ngưỡng mộ hoặc đồng cảm thì đó là ai ? Chị muốn nhìn thấy nhà văn Pháp nào hoặc tiểu thuyết Pháp nào được dịch ở Việt Nam ?

Camus - ngắn gọn, chính xác và bình thản. Houellebecq - sắc sảo, hài hước và khiêu khích. Với tôi, đó là hai cách thể hiện độc đáo cho cùng một đề tài không ngừng được khai thác trong văn chương - sự phi lý của nhân gian.

Nếu các tác phẩm của hai tác giả này được dịch và giới thiệu một cách nghiêm túc và có hệ thống, tôi tin rằng đó sẽ là món quà đẹp cho độc giả Việt Nam.

9.      Và đâu là những cuốn sách mà chị có thể đọc đi đọc lại ?

Từ khi viết văn thì đọc sách của người khác, với tôi, cũng là một cách học. Các tác phẩm của Houellebecq, Camus, Duras, Kundera, Auster, Roth, Muller … đều khiến tôi phải đọc đi đọc lại.

10.    Câu hỏi cuối cùng, chị hình dung thế nào về độc giả của mình ?

Độc giả của tôi có thể khác nhau về giới tính, độ tuổi, công việc… Một số người có thể thích các món mắm. Một số người lại không thể thiếu phó mát và rượu vang. Nhưng tôi tin rằng họ đều có tình cảm đặc biệt dành cho văn chương.

Xin cảm ơn chị về cuộc trò chuyện thú vị này và mong được sớm đọc tác phẩm tiếp theo của chị.

Lâm Vũ Thao thực hiện


(Bài phỏng vấn này đã đăng Tuổi Trẻ Cuối Tuần. Đây là bản đầy đủ.)

Thứ Năm, 1 tháng 8, 2013

Khởi đầu của khởi đầu

 “Theo tôi nhà văn thế nào cũng phải có một lần quyết định, mình sẽ trở thành nhà văn” – Paul Auster nói trong bài trả lời phỏng vấn nhà báo Hungary Lévai Balázs (Thế giới là một cuốn sách mở – Giáp Văn Chung dịch, Nhã Nam & NXB Văn Học, 2009). Từ chỗ là một người mê đọc sách, 16 tuổi Paul Auster đã quyết định trở thành người sáng tạo ra những cuốn sách. Thế nhưng ông chỉ có thể chính thức tập trung viết văn được sau cái chết của cha. Mất mát đó, thật tréo ngoe, có ý nghĩa quyết định với sự nghiệp văn chương của Paul Auster: một mặt nó là chất liệu trực tiếp cho tác phẩm văn xuôi đầu tay của ông, The invention of solitude (Khởi sinh của cô độc); mặt khác, chỉ sau cái chết của cha, nhờ vào món tiền thừa kế mà Auster mới có thể toàn tâm toàn ý viết văn. Quãng đời trước đó, ông phải làm đủ nghề vặt kiếm sống, từ thuỷ thủ, trực điện thoại cho đến dịch, viết điểm sách, được ông thuật lại trong một tác phẩm khác: Hand to Mouth (tạm dịch Tay làm hàm nhai).

Khởi sinh của cô độc (Phương Huyên dịch, nhà xuất bản Trẻ, 2013) là một tác phẩm hồi ký – tự truyện được chia thành hai phần. Phần một, Chân dung một người vô hình, Paul Auster thuật lại ký ức về người cha vừa qua đời; phần hai, Sách của ký ức, gồm những mảnh rời trên nhiều chủ đề. Hai phần gần như rất tách biệt này nối với nhau bằng đường dây của tình phụ tử: Paul Auster với tư cách người con trong phần thứ nhất và Paul Auster (được gọi là A.) với tư cách người cha trong phần thứ hai.

Có một sự khác biệt trong hai mối quan hệ cha – con này. Khi là cha, Paul Auster nhận thấy “cuộc đời của cậu bé có ý nghĩa lớn lao hơn cuộc đời của chính anh; nếu anh cần phải chết để cứu con mình, anh sẽ sẵn lòng chết. Và vì thế trong khoảnh khắc sợ hãi đó anh đã trở thành, một lần và mãi mãi, cha của con anh” (tr.171). Trong khi đó, quan hệ của Paul Auster với cha mình không hoàn toàn là một mối quan hệ suôn sẻ. Ký ức của ông về cha là sự vắng mặt, sự thờ ơ. Cha ông dường như chẳng bao giờ để ý tới con trai mình. “Tôi thành công hay thất bại cũng chẳng có chút mảy may ảnh hưởng nào tới cha” (tr.39). 

Sự cô độc của người cha như xây nên một thành trì vô hình quanh ông, mà Paul Auster – người con, nhất là trong thời niên thiếu, không thể nào phá vỡ được, cho dù người con “không bao giờ ngừng khao khát tình yêu từ cha mình” (tr.31). Nhiều năm về sau, Paul Auster – nhà văn, trong sự cô độc khi đối diện với trang viết, đã thử lý giải về chính cái thành trì cô độc của cha mình ngày xưa. Khi soạn ra những món đồ của người đã khuất, Paul Auster gặp một tấm ảnh (được in tại trang 52). Thoạt nhìn, dễ tưởng rằng đó là ảnh của một nhóm người. Thật ra, đó là ảnh của cha Auster, chụp từ năm góc ghép lại với nhau. Do cách ghép, mắt của năm phân thân không tương tác với nhau, mà mỗi phân thân đều như nhìn vào một khoảng trống rỗng. Auster nhận thấy đó là “tấm ảnh của cái chết, chân dung của người vô hình” (tr.53). 

Nếu như phần Chân dung một người vô hình tuy không được viết theo trình tự thời gian nhưng hãy còn được thuật theo dòng hồi ức, thì phần thứ hai, Sách của ký ức, chỉ bao gồm toàn các mảnh rời. Trong phần này, phóng túng nhưng đầy kiểm soát, Paul Auster chiêm nghiệm về sức mạnh của ký ức, sự cô độc, tính chất ngẫu nhiên của cuộc đời, và nhất là về bản thân sự đọc và sự viết. Chen lẫn là vô số dẫn chiếu đến các tác phẩm khác, từ Nghìn lẻ một đêm tới Kinh Thánh, từ thần thoại Hy Lạp đến chuyện chú bé người gỗ Pinocchio... và những trải nghiệm về quan hệ cha – con giữa tác giả với cậu con trai nhỏ của mình. Hình ảnh “căn phòng”, như một ám chỉ về sự cô độc, lặp đi lặp lại: căn phòng của A., căn phòng của S., căn phòng của Hölderlin, căn phòng của Van Gogh. “Căn phòng không phải là sự tái hiện của nỗi cô độc, mà nó là cốt lõi của chính nỗi cô độc ấy” (tr.225). 

Khởi sinh của cô độc in lần đầu tại Mỹ năm 1982. Từ đó đến nay, trong quãng thời gian hơn 30 năm, Paul Auster đã cho ra đời 16 tiểu thuyết. Những chủ đề thường gặp trong tiểu thuyết của ông là sự ngẫu nhiên, tính bất định, vô thường của cuộc sống, sự truy tìm căn cước… thật ngạc nhiên đều đã xuất hiện trong tác phẩm văn xuôi đầu tay Khởi sinh của cô độc. Chính Paul Auster cũng thừa nhận trong bài trả lời phỏng vấn tạp chí The Paris Review rằng Khởi sinh của cô độc là tác phẩm nền tảng trong văn nghiệp của ông. Với ý nghĩa đó, Khởi sinh của cô độc không chỉ là tác phẩm đầu tay, mà còn mở ra một thế giới: thế giới văn chương ký tên Paul Auster.

Thứ Bảy, 20 tháng 7, 2013

Vẫn cần có tình yêu

Ban công lên trời*  là tập truyện của một nhà văn Ba Lan mà tên tuổi còn khá xa lạ với chúng ta, Tomasz Jastrun, và chủ đề của tập truyện này là tình yêu và tình dục, mà chủ yếu là tình dục – một chủ đề không phải ít người viết nhưng lại là một chủ đề rất dễ khiến người viết sa lầy. Thế nhưng, nếu cái kéo người đọc đến với tập truyện là tình dục, thì cái giữ người đọc ở lại với tập sách là một cái gì đó khó gọi tên. Chất trữ tình hài hước chăng? Hay vẻ lọc lõi và ngây thơ cùng lúc của các nhân vật?  Hay là nét bảng lảng của những sự thật trần trụi được phanh phui, khiến ta vừa thấy khó chịu vừa khoan khoái? Mà cũng có thể tất cả những yếu tố đó lắm chứ?

Ban công lên trời là một cái tựa rất nên thơ, rất dễ cho ta mường tượng ra những chuyện tình đầy mơ mộng. Ta sẽ đúng một nửa: chuyện tình thì có, mơ mộng thì không. Mười bảy truyện trong tập theo một cách nào đó đều là những câu chuyện tình: tình chớp nhoáng, tình qua tin nhắn SMS,  tình qua internet, tình sưu tập, và đặc biệt rất nhiều ngoại tình; nhưng chúng có điểm chung là nhiều thất vọng và lắm phũ phàng. 

Trong các truyện ngắn trong tập này, người ta đến với nhau nhanh chóng, ân ái trong vội vàng, để rồi cái còn lại chủ yếu là những ảo tưởng tan vỡ. Trong “Tên sát nhân và đứa bé”, ảo tưởng bị chôn vùi trong câu nói ơ hờ của người đàn bà từng có cuộc tình rất ngắn ngủi nhưng nồng nhiệt với một người đàn ông lạ trên một chuyến tàu mà kết quả của nó là một đứa bé : “Chồng tôi qua đời cách đây ba năm rồi, trong toa tàu.”  Trong “Bức tranh thay đổi”, người phụ  nữ góa chồng hẳn đã đặt bao nhiêu kỳ vọng trong lần viếng thăm của ông họa sĩ  - tác giả của bức tranh có những thay đổi lạ kỳ treo trong nhà nàng; tuy nhiên, đáp lại những ao ước  nóng bỏng của nàng, ông họa sĩ  lại chỉ đề nghị  mang thuốc vẽ đến để “khôi phục lại bức tranh như cũ” và sau đó “ôm chặt lấy nàng rồi ngủ thiếp đi”. Trong các truyện “Bí mật”, “Tảng băng nóng”, và “Bờ bên kia” , thì ngay  sau những sẻ chia tưởng như không thể nào gần gũi hơn được nữa giữa một người đàn ông và người đàn bà, cái còn lại cũng là một điều gì đó lạnh tanh, ráo hoảnh: họ có thể nhìn nhau như người lạ, hay phát hiện ra mình chỉ là kẻ lấp vào chỗ trống của "bên kia".  Còn trong “Cuộc hẹn hò với bóng tối” thì tất cả lãng mạn, mơ mộng gầy dựng bao lâu qua những tin nhắn điện thoại chíu chít đi về lại bị giết chết bằng tiếng gõ cửa sỗ sàng trong ngày đôi bên hẹn gặp. 

Cách viết về tình dục trong Ban công lên trời có thể khiến người đọc nhớ tới tiểu thuyết Họp mặt của nhà văn Ireland Anne Enright. Nếu như những đoạn mô tả về tình dục trong Họp mặt cho thấy trong cái hành động ngỡ như mang hai con người lại gần nhau nhất, người ta lại có thể ở xa nhau đến mức nào, thì ở Ban công lên trời, người ta đến với nhau đầy khao khát, đầy nhục cảm, nhưng khi buông nhau ra, người ta cảm thấy nhạt nhẽo, toen hoẻn.  Người ta chợt thấy rằng vẫn cần phải có tình yêu. Người đàn ông trong truyện "Dã tràng" sau một ngày hẹn hò mệt nhoài với bao nhân tình, tối về nhà nhìn thấy "hai chiếc máy điện thoại cũng đang ôm nhau nằm ngủ" thì chỉ thèm có một bờ vai để gục đầu vào.

Đọc Ban công lên trời, còn là để thích thú trước những so sánh bất ngờ như thế này: “Thành phố này mà không có cây cối thì nom chẳng khác gì một bà già khỏa thân” , hay “Bó hoa nom như thể mõm con thú dữ vừa mới xé xác con mồi”, hay nhất là thế này: “Chiếc lông vàng, co ro như đứa trẻ đang ngủ phủ mật ong”.

Đọc truyện ngắn, trong chừng mực nào đó, thách thức hơn cả đọc tiểu thuyết. Nếu tiểu thuyết là một thế giới lớn, người đọc chỉ cần chìm được vào thế giới ấy là có thể sống với cuốn tiểu thuyết, thì mỗi truyện ngắn là một thế giới, mà bước ra khỏi thế giới này rồi bước vào thế giới khác ngay chẳng khác gì bật công tắc on - off liên tục rất dễ khiến râu tóc bóng đèn trong  đầu ta  cháy rụi. Tuy nhiên, các truyện ngắn trong Ban công lên trời lại kết nối với nhau thành một thế giới tương đối thống nhất. Do vậy, gần như ta có thể đọc một mạch các truyện mà không e ngại vấn đề "cháy bóng đèn". Nói thế cũng có nghĩa là đây đó các truyện trong tập có sự lặp lại.

* Ban công lên trời, Tomasz Jastrun, Lê Bá Thự dịch, Phương Nam và NXB Hội Nhà Văn ấn hành


Chủ Nhật, 9 tháng 6, 2013

Một đóa hồng cho tri thức



Năm 1980, tiểu thuyết Tên của đóa hồng ra mắt ở châu Âu và ngay lập tức bán được hàng triệu bản. Tuy nhiên độc giả, mặc dù ngưỡng mộ và đắm say cùng cuốn sách, vẫn ngơ ngác không thể nào hiểu mối liên hệ giữa nhan đề và câu chuyện. Ba năm sau, Umberto Eco đã trả lời phần nào câu hỏi đó trong một tiểu luận, được trích dịch và in thành phụ lục của ấn bản tiếng Việt vừa được Nhã Nam và NXB Văn Học phát hành tháng 4-2013.

Những ai kỳ vọng đọc xong tiểu luận này sẽ hiểu được rõ ràng ý nghĩa của tên sách hẳn sẽ thất vọng. Umberto Eco cho rằng lý tưởng nhất, tên của một cuốn tiểu thuyết nên là tên nhân vật chính, chẳng hạn David Copperfield hay Robinson Crusoe, trong trường hợp cuốn sách của ông là Adso xứ Melk. Khi việc đặt tên như thế là không thể về mặt thương mại, ông đã chọn đóa hồng làm tên sách, vì lẽ bông hồng là một biểu tượng đa nghĩa, do đó độc giả không bị lái về một hướng suy diễn duy nhất. Trên thực tế, cuốn tiểu thuyết của Eco quá đồ sộ, quá thông tuệ, quá phức tạp để có thể diễn dịch một chiều, và chính ông đã nói: "Không điều gì làm tác giả một quyển tiểu thuyết phấn chấn hơn khi biết có những cách diễn dịch chính mình không hề nghĩ tới, được độc giả gợi ý" (*).

Lấy bối cảnh một tu viện Ý thế kỷ 14, nơi sở hữu một thư viện thuộc hàng lớn nhất châu Âu thời ấy và là nơi liên tiếp xảy ra những cái chết bí ẩn, Tên của đóa hồng phần nào có dáng dấp một tiểu thuyết điều tra mang hơi hướng Conan Doyle với Sherlock Holmes ở đây là thầy tu William, và cậu chủng sinh Adso là một bác sĩ Watson. Cách dẫn dắt độc giả qua các cuộc điều tra mang lại sức cuốn hút cho cuốn sách, nhưng cái làm cho Tên của đóa hồng khác biệt với một tiểu thuyết trinh thám thông thường là sự uyên bác của nó, hay chính xác hơn, của tác giả. Bản thân là một giáo sư nghiên cứu thời Trung cổ, là nhà triết học và ký hiệu học, Umberto Eco trang bị cho nhân vật thầy tu William ngoài một tư duy logic cần có của một thám tử còn cả những hiểu biết về thần học, ký hiệu học, ngôn ngữ học và các ngành nghệ thuật để sử dụng trong các cuộc điều tra của mình. Nếu một phần của Tên của đóa hồng là điều tra án mạng thì phần kia là các cuộc tranh luận thần học miên man cùng những trình diễn kiến thức lịch sử, kiến trúc... tuy dễ làm nản lòng những độc giả thiếu kiên nhẫn, nhưng trong chừng mực nào đó hấp dẫn hơn các sách giáo khoa về cùng đề tài.

Các vụ án mạng trong Tên của đóa hồng đều liên quan đến thư viện. Nếu như đóa hồng là một biểu tượng đa nghĩa thì thư viện khó có thể là biểu tượng của điều gì khác hơn tri thức. Nói cách khác, các tội ác trong tu viện đều liên quan đến tri thức: tiếp cận và sở hữu tri thức. Thư viện, đối với những người đến tu tập trong tu viện này là một thứ "Jerusalem thiên đường", nhưng chính nó lại "chế ngự họ bằng những hứa hẹn và cấm đoán". Các tu sĩ trên khắp thế giới đến tu viện để nghiên cứu, có người ở đấy đến khi chết vì chỉ ở trong tu viện này họ mới tìm được "những tác phẩm soi sáng việc nghiên cứu của họ". Tuy nhiên, chỉ thủ thư mới có quyền đi lại trong thư viện của tu viện, chỉ thủ thư mới có quyền quyết định cho một tu sĩ mượn một cuốn sách nhất định hay không. Thêm vào đó, bản thân thư viện đã được xây dựng như một mê cung, sẵn sàng cản bước, vây hãm những kẻ đột nhập, khước từ họ tiếp cận tri thức. Tội ác sinh ra từ chỗ khát khao tri thức đối đầu với độc quyền tri thức. Cho dù kẻ thủ ác nhân danh điều gì chăng nữa thì không phải vì thế mà tội - ác - tri - thức sẽ kém kinh tởm hơn so với tội - ác - phi - tri - thức.

Là một nhà phê bình văn học đồng thời là một tiểu thuyết gia, Umberto Eco không ngần ngại áp dụng những quan điểm về lý thuyết văn học của mình vào cuốn sách. Lấy ví dụ, nhịp điệu. Tên của đóa hồng có những trang viết dài và tỉ mỉ về tôn giáo, kiến trúc, thư mục học...Nhà xuất bản đầu tiên của Umberto Eco từng đề nghị lược bớt nhưng ông từ chối. Ông quan niệm rằng nếu người nào đó muốn vào tu viện và sống bảy ngày (câu chuyện trong Tên của đóa hồng diễn ra trong bảy ngày), họ phải chấp nhận cuộc sống của nó. Bằng không, họ sẽ không bao giờ đọc hết cuốn sách. Cuốn tiểu thuyết, do đó, có nhịp xám lê thê của đời sống tu viện. Thực chất nó được chia thành bảy ngày, mỗi ngày thành nhiều đoạn ứng với các giờ kinh lễ.

Tên của đóa hồng từng đến Việt Nam năm 1989 qua bản dịch của Đặng Thu Hương. Lần này, Tên của đóa hồng trở lại trọn vẹn hơn qua bản dịch vô cùng công phu, tỉ mỉ của Lê Chu Cầu. Ông đã dày công đối chiếu bản tiếng Anh với bản tiếng Đức và nguyên tác tiếng Ý, bổ khuyết những chỗ tiếng Anh dịch thiếu và dịch cả phần tiếng Latin.

(*) Phụ lục: "Tên sách và ý nghĩa".

(Bài đã đăng Tuổi trẻ cuối tuần)

Thứ Hai, 3 tháng 6, 2013

Goodreads - Một chốn nữa cho sách

Bài viết giới thiệu mạng Goodreads dưới đây đã đăng Tuổi trẻ cuối tuần




GOODREADS – MỘT CHỐN NỮA CHO SÁCH

"Có hai động cơ để đọc một cuốn sách: thứ nhất, là bạn thưởng thức nó; thứ hai, là bạn có thể khoe về nó” (“There are two motives for reading a book; one, that you enjoy it; the other, that you can boast about it [on Goodreads]”. Tôi đọc được câu này của Bertrand Russell trên trang chủ của Goodreads.com (www.goodreads.com), dĩ nhiên, phần ngoặc vuông “trên Goodreads” là Goodreads dí dỏm thêm vào.

Quả thực, Goodreads là chỗ lý tưởng để "khoe" mình đọc sách gì. Nói cách khác, đây là nơi để những người đọc sách chia sẻ với nhau về sách. Ở đây, mọi người có thể đánh giá sách trên một thang điểm từ một tới năm sao, có thể "nhòm" vào tủ sách của nhau để tìm kiếm những gợi ý để chọn sách mà đọc, cũng như có thể thoải mái bình luận về sách. Có hàng nghìn bài bình luận về sách như thế trên Goodreads, từ vài dòng đến vài trang giấy. Rất nhiều bài làm người ta bất ngờ về trình độ, cảm nhận của người đọc. Chưa kể, do không phải viết bình luận để ...đăng báo, nên các thành viên tha hồ tung tẩy trong các nhận định của mình.

Bình luận về cuốn Kẻ ích kỷ lãng mạn của Frédéric Beigbeder, thành viên Tieu Uyen viết: "Kẻ ích kỷ thì có, lãng mạn thì không, hư hỏng thì có, tình cảm thì không. Tinh quái kiểu rẻ tiền thì có, nhưng hay ho thì tuyệt đối không." Còn đây là trích nhận xét về Tuổi thơ im lặng của nhà văn Duy Khán của thành viên Tâm:"Không có một sự trách cứ nào, Duy Khán cứ viết ra tựa như ông vẫn là một đứa trẻ, viết và cảm nhận, và thương, và buồn, và nhớ. Cái nghèo cái đói khổ chẳng bị xoáy sâu vào làm gì, không cố chiếm lấy sự thương cảm của người đọc. Ấy vậy nhưng lại khiến tôi cảm động hơn cả. Mới xót xa làm sao. Giọng văn thật thà, không hoa mỹ, và thiên về văn nói rất sống động. Nhưng nó vẫn đủ đa dạng trong kể và tả, khiến cho tôi càng thêm trân trọng sự giàu có của tiếng Việt."

Là một mạng xã hội dành cho người đọc sách thành lập từ tháng 12-2006, tuy không ồn ào tấp nập như Facebook, Goodreads cũng âm thầm vươn đến con số hơn 12 triệu thành viên tính đến cuối năm 2012, cùng một thư mục hơn 400 triệu đầu sách bằng đủ thứ tiếng, chủ yếu do các thành viên tự đưa lên. Việc kết nối tài khoản giữa Facebook và Goodreads khiến người dùng Facebook dễ dàng chuyển sang Goodreads mà không cần tiến hành thêm bất kỳ thao tác đăng ký nào.

Tương tự Facebook, Goodreads cho phép người dùng kết bạn với nhau, hoặc có thể đánh dấu để theo dõi bình luận sách của các thành viên khác. Khi đó, những hoạt động của các thành viên trong danh sách bạn bè hoặc danh sách những người bạn theo dõi, ví dụ như đánh giá, bình luận, thêm đầu sách vào kệ sách.v.v. sẽ hiện lên trang chủ của bạn hoặc được gửi đến email. Nhờ vậy, bạn có thể biết, ai đang đọc gì, nhận xét của họ về một cuốn sách như thế nào. Từ đó, bạn có thêm thông tin tham khảo để quyết định nên đọc một cuốn sách nào đó hay không.

Một trong những tính năng thú vị nhất của Goodreads là, khi đánh giá đủ một số đầu sách nhất định, Goodreads sẽ bắt đầu giới thiệu sách cho người dùng. Goodreads có thể giới thiệu sách dựa trên thể loại hay dựa theo kệ sách của bạn. Ví dụ, nếu bạn lập một kệ sách "Sách yêu thích nhất" gồm những cuốn bạn tâm đắc nhất, khi đó, Goodreads có thể "nhòm" vào kệ sách này mà giới thiệu cho bạn các cuốn tương tự. Tuy vậy, hiện nay tính năng này của Goodreads chỉ hoạt động đối với các tác phẩm dịch.

Trên Goodreads hiện có rất nhiều danh sách để thành viên bình chọn, chẳng hạn, Best books ever (Sách hay nhất mọi thời), Books that everyone should read at least once (Sách ai cũng nên đọc một lần) .v.v. Đã có một vài danh sách dành riêng cho sách Việt. Đáng chú ý, có danh sách Tácphẩm văn xuôi Việt hay nhất, mà những tác phẩm đứng đầu danh sách này hiện tại là Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ (Nguyễn Ngọc Thuần), Dế Mèn phiêu lưu ký (Tô Hoài), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh).

Trang mạng này có vài chục ngàn câu lạc bộ sách để bạn tham gia sinh hoạt, chủ yếu thảo luận bằng tiếng Anh. Nhưng cũng có những câu lạc bộ thảo luận bằng tiếng Việt mà hai câu lạc bộ đông thành viên Việt Nam nhất là A reading club for VietnameseHội thích đọc sách. Hiện tại, số đầu sách Việt trên Goodreads tuy đã khá nhiều, nhưng vẫn khá “lép vế” so với các đầu sách bằng các thứ tiếng khác. Vì vậy, sách Việt cần được góp sức nhiều hơn để quảng bá trên trang mạng này – cùng những thành viên người Việt vẫn đang tích cực bổ sung sách vào thư mục của Goodreads mỗi ngày. Đây là một sân chơi tuy không ồn ào nhưng thật sự có ích, chẳng những cho người đọc mà còn cho tác giả, nhà xuất bản và các công ty sách.


  

Thứ Bảy, 11 tháng 5, 2013

Umberto Eco nói về dịch thuật

Trích dịch một phần lời giới thiệu và chương "Translating from culture to culture" trong cuốn Experiences in Translation (Kinh nghiệm dịch thuật) của nhà văn, học giả Umberto Eco từ bản dịch tiếng Anh của Alastair McEwen, University of Toronto Press, 2009


Mọi lý thuyết có lý và nghiêm ngặt về ngôn ngữ đều cho thấy một bản dịch hoàn hảo là một giấc mơ bất khả. Bất chấp điều này, người ta vẫn dịch. Giống như nghịch lý về chàng Achilles và con rùa. Về mặt lý thuyết, Achilles sẽ không bao giờ đuổi kịp con rùa. Nhưng trong thực tế, chàng bắt kịp. Không có cách tiếp cận triết học nghiêm ngặt nào đối với nghịch lý ấy có thể đánh giá thấp thực tế là, không chỉ Achilles, mà bất cứ ai trong chúng ta, cũng có thể giành phần thắng trước một con rùa ở Thế vận hội.

Người ta dịch trong các hội nghị kinh doanh và trong các phiên họp của Liên hiệp quốc, và, mặc dù nhiều hiểu lầm có thể phát sinh, những con người nói những ngôn ngữ khác nhau có thể đồng ý với nhau về thực tế rằng, ví dụ như, giày nhãn hiệu X rẻ hơn giày nhãn hiệu Y, hoặc Nga không tán thành quyết định ném bom Serbia. Đa số giáo dân Thiên Chúa đọc Phúc Âm qua bản dịch (mỗi nước một ngôn ngữ khác nhau), nhưng tất cả đều tin rằng chúa Giê-su bị đóng đinh trên thập tự giá và thánh Giăng Báp-tít bị chặt đầu chứ không phải ngược lại.

Các lý thuyết ngôn ngữ cho rằng không văn bản nào đơn nghĩa, nhưng khi hai hoặc hơn hai biên tập viên của một nhà xuất bản kiểm tra bản dịch của một cuốn tiểu thuyết (hoặc một bài tiểu luận) có những trường hợp mà tất cả họ thống nhất rằng dịch giả phải bị cho nghỉ bởi vì bản dịch của người ấy là không chấp nhận được. Lần nọ, khi biên tập bản dịch tiếng Ý của một tiểu luận viết bằng Anh ngữ, tôi đọc được rằng, trong một quá trình thí nghiệm, "l'ape riuscì a prendere la banana posta fuori dalla sua gabbia aiutandosi con un bastone,", nghĩa là, "con ong dùng vòi để với lấy một quả chuối đặt bên ngoài lồng". Chưa cần kiểm tra bản gốc, tôi đã chắc chắn rằng người dịch đã sai: chắc chắn rằng bản gốc tiếng Anh nói về một ape và - vì chữ ape trong tiếng Ý nghĩa là "con ong" - người dịch nghĩ rằng ape cũng có có nghĩa là "con ong" trong tiếng Anh. Do vậy, cách trước nhất để phân biệt một bản dịch tốt với một bản dịch tồi là cách vẫn được sử dụng bởi các biên tập viên bình thường trong các nhà xuất bản bình thường trong các trường hợp thông thường – dịch thơ thì khác, ấy là các trường hợp bất thường.

Dịch luôn luôn là sự chuyển đổi, không phải giữa hai ngôn ngữ, mà giữa hai nền văn hóa.

Dịch giả phải tính đến không chỉ các quy tắc ngôn ngữ học thuần túy mà, nói rộng ra, là cả các quy tắc văn hóa. Các từ cà phê, café, và caffé có thể coi là các từ đồng nghĩa khi chúng chỉ một loại thực vật nhất định. Tuy vậy, các câu "donnez-moi un café," "cho tôi một cốc cà phê," và "mi dia un caffé" (chắc chắn tương đương nhau về mặt nghĩa, đồng thời là ví dụ tốt về các câu khác nhau chuyển tải cùng một nội dung, và là bản dịch tốt nghĩa đen của nhau) lại không tương đương nhau về mặt văn hóa.

Phát ngôn ở các nước khác nhau, chúng tạo ra những hiệu ứng khác nhau và chúng được dùng để chỉ các thói quen khác nhau. Chúng mang đến những câu chuyện khác nhau. Hãy xem hai câu sau, một câu trong một tiểu thuyết Ý, một câu trong một tiểu thuyết Mỹ: "Tôi gọi một cốc cà phê, uống cạn trong vòng một giây rồi ra khỏi quán;" và " Anh ngồi nửa giờ với chiếc cốc trên tay, nhấp cà phê và nghĩ về Mary." Câu đầu chỉ có thể nói tới một cốc cà phê Ý và một quán Ý, bởi vì không thể uống cạn một cốc cà phê Mỹ trong vòng một giây bởi cả dung lượng lẫn nhiệt độ của nó. Câu thứ hai không thể nói tới một đối tượng Ý (ít ra là với một người bình thường uống một tách expresso bình thường) bởi vì nó tiền giả định một cái cốc lớn đựng dường như cả lít cà phê.

Dù sao đi nữa, đây là một trường hợp mà dịch giả có thể hy vọng rằng thậm chí một bản dịch nghĩa đen cũng đủ để một độc giả nước ngoài hiểu chuyện gì đang xảy ra. Nhưng có những trường hợp ngoắt nghéo hơn. Thoạt nhìn có vẻ dịch oui, monsieur thành Yes, sir, hay sì, signoire là một công việc khá đơn giản. Tuy nhiên nếu dịch một tiểu thuyết Pháp thế kỷ mười chín, liệu chúng ta có dùng sir, hay (signore) mỗi khi bản gốc dùng monsieur? Những người Pháp lịch sự vẫn gọi là tài xế tắc xi là Monsieur, tuy nhiên có vẻ lại là quá lố nếu dùng Sir trong tình huống tương tự, ví dụ, ở New York. Chữ Sir phải được giữ lại khi bản gốc định biểu hiện một quan hệ rất trịnh trọng, giữa hai người lạ, hay giữa cấp dưới và cấp trên, nhưng trong các tình huống thân mật hơn thì dùng Sir có vẻ không thích hợp (nếu không nói là có tính châm biếm). Nói tới một người đi ngang qua, ở New York người ta sẽ nói là that guy, trong khi ở Paris người ta sẽ nói là ce monsieur là (ce mec là thì đã là bỗ bã rồi). Ở Paris hai người hàng xóm cùng bước vào thang máy có thể chào nhau bonjour, monsieur, trong khi trong tiếng Ý câu buongiorno, signore sẽ tạo ra một không khí quá mức trịnh trọng.

Chúng ta có thể nói rằng, vậy thì khi dịch một tiểu thuyết Pháp thế kỷ mười chín, dịch giả Ý nên bỏ tất cả các chữ monsieur xuất hiện trong bản gốc. Tuy nhiên nếu ví dụ ta dịch Bá tước Monte Cristo của Dumas, thì sự hiện diện của những chữ monsieur đó không chỉ mang đến cho câu chuyện không khí của thế kỷ mười chín, mà còn thể hiện các chiến lược đối thoại mang tính quy ước rất thiết yếu nếu độc giả hiểu được các mối quan hệ giữa các nhân vật. Điều này có nghĩa rằng chữ monsieur trong tiếng Pháp không chỉ là một từ vựng mà còn là một hình thức vận động thực tế, ràng buộc với các phong tục của một xã hội. Nếu bản dịch muốn chuyển tải cảm giác của những sự kiện diễn ra vào thời của Bá tước Monte Cristo, có lẽ cần thiết phải dịch tất cả, hoặc gần như tất cả, những chữ monsieur ấy.

Trong các chương đầu của Chiến tranh và hòa bình của Tostoy (viết bằng tiếng Nga), các nhân vật (quý tộc Nga) nói chuyện với nhau khá nhiều bằng tiếng Pháp, như thể đó là ngôn ngữ bình thường của họ. Vì tiếng Pháp là ngoại ngữ đối với độc giả Nga, nó cũng nên là như thế đối với độc giả các ngôn ngữ khác, và mọi bản dịch nên để các câu đó bằng tiếng Pháp. Rõ ràng ý định của văn bản cuốn sách là để cho thấy với giới quý tộc Nga thời đó trò chuyện bằng tiếng Pháp là thời thượng, mặc dù đó là ngôn ngữ của Napoleon, kẻ thù của đất nước họ. Phần còn lại của cuốn sách (trong bản gốc cũng như mọi bản dịch) thông tin cho độc giả về tình hình lịch sử, và làm rõ rằng các câu tiếng Pháp chỉ là các chỉ dấu của trò chuyện lịch thiệp. Một ví dụ, có một lúc Anna Pavlovna nhận xét rằng Công tước Vaxili không biết quý giá trị các con mình và cũng chẳng xứng đáng với họ. Công tước Vaxili bình luận bằng tiếng Pháp: "Lavater aurait dit que je n'ai pas la bosse de la paternité." Anna Pavlovna đáp lại:" Thôi đừng đùa nữa. Tôi đang nói chuyện đứng đắn kia mà." Như vậy văn bản ở đây thể hiện rõ ràng rằng điều mà Công tước Vaxili nói bằng tiếng Pháp không có ý nghĩa mấy, và ngay cả một người đọc không hiểu một chữ tiếng Pháp nào cũng có thể đoán được chuyện gì đang xảy ra.

Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng Độc giả Mẫu mực của những trang này (trong mọi bản dịch) ít nhất phải nhận ra rằng những câu tiếng Pháp này được viết bằng tiếng Pháp (mà không phải là, ví dụ, tiếng Swahili). Nếu cùng một mẩu đối thoại như vậy xuất hiện ở đầu một bản dịch tiếng Hoa bằng những chữ cái Latinh kỳ quặc, hoặc, tệ hơn, bằng ký tự tiếng Hoa, thì độc giả ở Bắc Kinh hiểu gì? Tôi không băn khoăn về việc họ có thể hiểu gì về mặt ngữ nghĩa, nhưng không biết liệu họ có thể nhận ra những nhân vật này nói chuyện bằng tiếng Pháp vì cái kiểu cách trưởng giả hay không. Tôi không biết nếu trong một bản dịch tiếng Hoa, để chuyển tải khía cạnh trưởng giả của các mẩu đối thoại, người ta phải thể hiện nó bằng, cách đây ba mươi năm, tiếng Nga, hay ngày nay, tiếng Anh. Nhưng thể nào đi nữa nó sẽ rõ ràng phản bội một trong những mục đích chính của cuốn tiểu thuyết, tức là, kể một câu chuyện về việc Pháp xâm lược Nga.

Bây giờ ta hãy xem xét một vấn đề hứng thú hơn. Làm thế nào để dịch những chương đầu của Chiến tranh và hòa bình sang tiếng Pháp? Chỉ có hai giải pháp: hoặc (i) giữ nguyên các đối thoại bằng tiếng Pháp mà không cung cấp thông tin gì thêm, hoặc (ii) chú thích rằng "tiếng Pháp trong nguyên bản". Tôi nghĩ rằng - bỏ qua giải pháp (i) và chỉ xem xét giải pháp (ii) - có sự khác biệt giữa cảm giác của một độc giả đối diện với một mẩu hội thoại trong một ngôn ngữ không giống như ngôn ngữ của phần còn lại của cuốn tiểu thuyết, và cảm giác của một độc giả khác không cảm nhận được (bằng thính giác hay thị giác) sự khác biệt đó và nhiều nhất là chỉ nhận được những thông tin bên lề rằng có điều gì đó kỳ quặc trong bản gốc tiếng Nga.





Thứ Sáu, 14 tháng 12, 2012

Tản văn của một người đọc sách


Chúc mừng Nguyễn Vĩnh Nguyên ra sách mới với cái tựa không thể dài hơn: Tản văn Nguyễn Vĩnh Nguyên - Tivi, xe máy, nhạc chế, chày cối, karaoke, tăm xỉa răng và những thứ khác.  Bổn blog có duyên đọc được tập tản văn trước khi nó ra lò, và vì cả nể [cho nên sự dở dang*] nhà sản xuất nên liều mình như chẳng có múa đôi lời giới thiệu sách của bạn. Chẳng may tác giả có không hài lòng chỗ nào cũng xin lượng thứ:)

Tản văn của một người đọc sách

Trong một thế giới ngày càng bị xô lệch bởi internet và các phương tiện nghe nhìn, sự thất thế của sách thể hiện rõ ngay trên… các trang báo! Trong số hàng trăm đầu báo ngày, tuần, tháng trên cả nước, không quá nhiều tờ dành đất và dành sự chăm chút cho sách như Sài Gòn Tiếp Thị - một trong hiếm hoi báo có mục điểm sách nghiêm túc và đầy đặn. Người chủ lực đằng sau nỗ lực đáng quý ấy là tác giả của tập tản văn ta đang cầm trên tay - Nguyễn Vĩnh Nguyên.

Gần như đều đặn hàng tuần, ta đều thấy Nguyễn Vĩnh Nguyên xông pha giữa thế giới sách: khi là vài mẩu tin sách, khi là bài phỏng vấn một tác giả hay dịch giả của một cuốn sách mới ra lò. Nhưng thường hơn cả là các bài điểm sách - rất nhiều trong số đó là bài viết về các cuốn sách nặng ký cả về nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, như Vũ trụ của Carl Sagan, Đường sống của Lev Tolstoy hay Adolf Hitler - Chân dung một trùm phát xít của John Toland.  Để viết từng ấy bài điểm sách, hẳn nhiên Nguyễn Vĩnh Nguyên đã đọc rất nhiều, trải rộng qua nhiều lĩnh vực văn học, văn hóa, lịch sử, địa lý .v.v.

Vì sao lại nói tới một vai trò khác của Nguyên trong lời giới thiệu tập tản văn này? Là vì, cầm tập sách này trên tay - nói chính xác là tiếp xúc với bản thảo của tập sách này trên máy tính - và đọc qua, ấn tượng đầu tiên của người viết bài này là, đây là văn của một người đọc sách rất nhiều - và là dạng đọc có gạch chân, bôi vàng, ghi chú, chứ không phải đọc qua loa. Trong hai mươi lăm bài tản văn trong tập, gần như bài nào Nguyên cũng trích dẫn một cuốn sách nào đó - cho dù đó là khi Nguyên khảo sát cái “tư duy mặt bằng” của người Việt, hay khi anh bình luận truyền thống cà phê quán cóc của dân Sài thành, hay làm một cuộc trò chuyện trên yên xe máy. Các trích dẫn ấy, với một liều lượng vừa phải: không quá nhiều đến nỗi làm bạn đọc hoa mắt, không quá ít để có thể bị rơi vào cảnh vô tình mượn ý người khác, đã mang đến cho tản văn của Nguyễn Vĩnh Nguyên một chút riêng. Chút riêng ấy, thiết nghĩ, là điều quan trọng, nhất là trong thời đại mà hầu như ai cũng có thể viết “tản văn” dưới dạng note trên Facebook hoặc entry trên blog.

Với cái nền đọc vững vàng đó, Nguyễn Vĩnh Nguyên, qua các bài viết trong tập này, đã làm một cuộc khảo sát đời sống văn hóa Việt hiện đại với nhiều phát hiện khá thú vị. Ở quán karaoke, Nguyên nhìn thấy người ta ghé sát vào tai nhau để nói chuyện vì âm lượng quá to cũng là một cách để hóa giải mâu thuẫn (bài “Karaoke, văn và cảnh”).  Lý giải cho “nhạc chế”, Nguyên lần ngược về những ngày đầu tân nhạc và trích dẫn bài “Bài ta theo điệu Tây” của Phạm Duy để chứng minh rằng “nhạc chế” ngày nay, ví dụ bài rất nổi tiếng “ Hà Nội mùa này phố cũng như sông” nhại theo “ Hà Nội mùa này vắng những cơn mưa” là có truyền thống!  Hay ở một bài khác, “Người Việt ngậm tăm”, Nguyên dẫn cả Xa lộ từ điển trên mạng lẫn Freud để truy tận gốc thói quen ngậm tăm của người Việt. 

Chỗ này chỗ khác, người đọc có thể đồng ý hay không đồng ý với Nguyễn Vĩnh Nguyên trong cách anh lý giải, luận bàn văn hóa Việt của thời hiện đại. Tuy nhiên, một điều có thể chắc chắn rằng, những bài viết trong tập sách này sẽ mang lại cho người đọc những giây phút thú vị.

Sài Gòn 24/11/2012
LVT

(LVT tức Lâm Vũ Thao chứ không phải Lâm Văn Thao. Đã viết tắt tên rồi mà bị một số người đổi tên cho nên phải đành "nói lại cho rõ":)


* Thơ Hồ Xuân Hương:
Cả nể cho nên sự dở dang
Nỗi niềm chàng có biết chăng chàng
Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc
Phận liễu sao đà nẩy nét ngang



Thứ Tư, 12 tháng 12, 2012

Trái tim bạc nhược - bức tranh ghép về cuộc đời


Bạn có một bí mật? Tốt. Lời khuyên dành cho bạn là đừng chia sẻ điều đó với bất kỳ ai, kể cả, và nhất là, cho những người bạn yêu thương nhất. Hãy giữ nó lại cho riêng mình, vì chẳng thể lường trước được hiểm nguy nào có thể xảy ra khi bí mật đó được tiết lộ. Thật ra, đây là lời khuyên của một ông bố dành cho cậu con trai mới lấy vợ. Ông bố là Ranz, và cậu con trai là Juan, hai nhân vật trong cuốn tiểu thuyết Trái tim bạc nhược của nhà văn Tây Ban Nha Javier Marías (Lê Xuân Quỳnh dịch, Bách Việt và NXB Phụ Nữ 2010).

Trái tim bạc nhược mở đầu bằng một vụ tự sát trong phòng tắm của một cô gái vừa mới đi hưởng tuần trăng mật trở về - cô gái ấy là vợ thứ hai của Ranz và là bác gái của Juan. Ngay kế đó, thời gian của chuyện kể nhảy hơn bốn mươi năm, đến cuộc đàm thoại giữa hai vị lãnh đạo cấp cao của Tây Ban Nha và Anh - cuộc đàm thoại mà nhờ đó Juan, với tư cách người phiên dịch, quen với Louisa, người sau này trở thành vợ anh. Từ thời điểm đó, thời gian của câu chuyện, qua lời kể của Juan, liên tục xáo trộn, xen kẽ giữa những chuyến đi của Juan. Đến gần cuối sách, Juan mới tìm hiểu được bí mật về cái chết bác gái - và từ đó soi rọi vào đời sống hôn nhân của chính mình.

Với cấu trúc như thế, Trái tim bạc nhược có dáng vẻ của một bức collage - một bức tranh ghép thành từ nhiều bức tranh nhỏ hơn, đính lại với nhau bằng một số chi tiết. Một trong những chi tiết đó là hình ảnh Juan gẩy tàn thuốc lên tấm khăn trải giường mà vợ anh đang nằm. Bố Juan, tức Ranz, cũng đã làm tương tự như thế với người vợ đầu tiên của mình mà hậu quả của hành vi đó cực cùng khốc liệt, không chỉ ở thời điểm hành vi đó diễn ra. Một hình ảnh trở đi trở lại khác ở nhiều chỗ khác nhau trong tác phẩm đó là hình ảnh chỗ dựa: “chúng ta chỉ thật sự cảm thấy có chỗ dựa lưng khi có người khác ở phía sau mình.” Những đoạn viết về chiếc gối trong đời sống vợ chồng cũng có tác dụng đính kết tương tự.

 Trái tim bạc nhược đầy ắp những quan sát tinh tế đến nỗi ta có cảm giác tác giả chẳng bao giờ bị cuộc sống cuốn trôi, rằng cuộc đời tuy có xôn xao đến thế nào chăng nữa thì tác giả vẫn giữ một sự tỉnh táo, một khoảng cách cần thiết để rút ra những đánh giá, nhận xét lạnh lùng và đau đớn nhất. Ở một chương gần đầu cuốn sách, khi nhắc đến những người đến chật quảng trường lớn để tung hô Franco, nhà độc tài đã có công làm cho Tây Ban Nha trở thành một trong những quốc gia lạc hậu nhất châu Âu, Javier Marías cho nhân vật của mình nhận xét rằng những người ấy thực sự yêu mến Franco. Tại sao? “Bởi vì trước đây, suốt mấy chục năm họ đã bị bắt buộc làm việc đó. Yêu mến cũng là một thói quen mà.” Ở một đoạn khác, Javier Marías bình luận về trí tưởng tượng: “Có trí tưởng tượng sẽ tránh được nhiều tai ương, ai tự tưởng tượng ra cái chết của bản thân thì sẽ ít khi tự sát, ai hình dung ra cái chết của người khác thì hiếm khi trở thành kẻ giết người...” Quả đúng như thế.

Có thể nói, Trái tim bạc nhược là một tiểu thuyết về những điều bí mật, nhưng cũng có thể nói đây là một tiểu thuyết về đời sống hôn nhân, là một truyện vụ án, là một cuốn sách mang những ẩn ý về chính trị. Trên hết, đây là một tiểu thuyết về cuộc đời. Dĩ nhiên, đây là một mệnh đề mơ hồ, mang tính “ba phải”, vì bất cứ tiểu thuyết nào, nếu thực sự là tiểu thuyết, cũng đều là cuốn sách về cuộc đời. Sự khác biệt chỉ nằm ở chỗ hời hợt hay sâu sắc, nhàm chán hay giàu tính khám phá - tương tự như danh xưng “người đàn bà hát” vốn chỉ dành cho một số rất hiếm hoi phụ nữ lấy hát làm lẽ sống.

Trái tim bạc nhược đã đoạt nhiều giải thưởng quốc tế, trong đó có giải thưởng rất uy tín IMPAC Dublin - giải thưởng từng được trao cho các tác phẩm như Tên tôi là đỏ của Orhan Pamuk hay Hạt cơ bản của Houellebecq  - vào năm 1997. Trái tim bạc nhược nói riêng cũng như Javier Marías nói chung xứng đáng được độc giả  Việt Nam tìm đọc nhiều hơn.