Hiển thị các bài đăng có nhãn professor. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn professor. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 11 tháng 6, 2009

The Professor (tiếp theo và hết)

Đoạn trước

Cho dù hết sức mê Mũi Né, bảo rằng nếu có thời gian sẽ ở Mũi Né cả tuần, giáo sư vẫn muốn quay lại Sài Gòn để đi thăm địa đạo Củ Chi. Giáo sư chỉ có ba ngày ở Việt Nam. Giáo sư rất muốn nhìn thấy hệ thống địa đạo lừng danh, muốn hiểu vì sao Mỹ đã thua ở Việt Nam. Giáo sư nói, chỉ có mỗi Việt Nam mày là thắng được Mỹ thôi. Đúng là như thế thật, tôi bảo, nhưng cái giá chúng tao phải trả rất đắt, mày có biết hơn ba triệu người Việt đã ngã xuống trong hai mươi năm chiến tranh không? Mỹ thua trận nhưng chỉ có 58.000 người chết, người Mỹ sang đây nhặt từng bộ xương mang về, còn chúng tao, chúng tao có cả một đất nước tan hoang, có những vết thương không bao giờ hàn gắn, và đến bây giờ, vẫn còn những hận thù không nguôi. Giáo sư bảo đó là một cuộc chiến không cần thiết. Có cuộc chiến nào là cần thiết không hả giáo sư của tôi? Nhân dân có bao giờ cần chiến tranh, chỉ có một số ít người “cần” nó…

Để tránh kẹt xe trong nội thành, tôi chở giáo sư theo đường Nguyễn Văn Linh ra quốc lộ 1A rồi ra đường Xuyên Á, tuy xa hơn tí nhưng không gặp thảm cảnh nhích từng mét một như hôm đi Mũi Né. Đường Xuyên Á khá tốt, nhưng tốc độ cho phép cũng chỉ có 50km/h.

Củ Chi, một vùng quê xanh mướt dần hiện ra trong mắt chúng tôi. Hứng nửa triệu tấn bom trong chiến tranh, Củ Chi đã từng là đất trắng. Tất cả cây cối nơi đây chỉ mọc lại từ sau chiến tranh kết thúc. Đi giữa rừng rậm, tôi hỏi giáo sư nếu mày là lính Mỹ mày có dám đến đây không? Giáo sư lắc đầu, lè lưỡi.
Giáo sư kinh ngạc thật sự khi biết rằng hệ thống địa đạo dài đến 250km, có chỗ sâu đến 10m, gồm 3 tầng, tầng trên cùng để sinh hoạt và chiến đấu, tầng thứ hai dự trữ lương thực và vũ khí, tầng thứ 3 sâu nhất đế tránh bom. Ở tầng dưới cùng, đường hầm có những đoạn eo để lính Mỹ có vào đến đó cũng không thể chui qua được. Nhưng tôi nghĩ, chắc là khó có lính Mỹ có thể vào đến đây mà còn sống sót. Cái nắp hầm trên mặt đất, nếu phát hiện ra cũng khó có thể chui vào, chưa kể nhấc nắp hầm lên sẽ có nguy cơ trúng mìn mà người du kích cuối cùng vào hầm đã cài lại. Còn qua khỏi cửa hầm, nếu không dính đạn cũng rơi vào hầm chông. “Cái hầm chông là điều nhân đạo nhất” (Chế Lan Viên). Hãy thử hình dung một anh lính Mỹ to béo ngắc ngoải không sống mà chưa chết giữa hầm chông!

Sau khi tham quan một số đoạn tiêu biểu của hệ thống địa đạo như hầm chỉ huy, hầm cứu thương, hầm hội họp, bếp Hoàng Cầm .v.v., giáo sư, hẳn lúc đấy bụng đang diễn ra phản ứng phức tạp giữa tôm hùm và trái cây nhiệt đới, đột nhiên hỏi cậu hướng dẫn viên, ngày xưa du kích muốn đi toa-let thì đi đâu, làm bên trong này luôn hay ra ngoài. Tôi thấy giáo sư ngu chi lạ! Ra ngoài để mà ăn kẹo đồng à? Du kích Củ Chi anh hùng gan dạ mưu trí, không lẽ chết vì một lý do lãng xẹt. Cậu hướng dẫn viên, con trai một cựu du kích Củ Chi từng bị thương trong chiến tranh, kiên nhẫn giải thích rằng người ta sẽ đào một ngách nhỏ, sau đó đổ tro vào lấp lại. Tôi biết người ta có thể đào một cái ngách, hoặc một cái lỗ, nhưng không chắc người ta có đủ thời gian lấp lại hay không. Giáo sư sau khi đã được giải thích tường tận, thỏa mãn trèo ra ngoài đi kiếm restroom. Tôi ngồi ở canteen nhấm nháp một que kem Kinh Đô. Lúc sau, giáo sư đi ra, nhìn trước nhin sau rồi thì thào với tôi, chết rồi mày ơi, lúc nãy không để ý tao vào nhầm toa-lét nữ!

Ngoại trừ tai nạn nho nhỏ đó, giáo sư rất phấn khởi với chuyến tham quan. Giáo sư nói tao hết sức khâm phục dân tộc mày đã xây dựng được một hệ thống địa đạo tài tình như thế chỉ với một cây cuốc nhỏ. Bây giờ tao hiểu sao Mỹ phải thua ở Việt Nam. Chiến tranh ở nước mày thật sự là chiến tranh nhân dân.
Nghĩ ngợi một hồi, đột nhiên giáo sư hỏi, nhưng sao hồi đó bọn mày xây dựng được một hệ thống địa đạo vĩ đại như vậy, mà bây giờ bọn mày chưa xây dựng được một đường cao tốc tử tế? Giáo sư hỏi câu hỏi khó, tôi không trả lời được. Cũng như tôi đã không trả lời được câu hỏi tại sao có nhân viên một công ty dịch vụ xuất hiện ở của khẩu đề nghị làm giúp visa với giá 100 đô, mà nếu không chịu làm giáo sư chỉ có nước lên máy bay về nước ngay tức khắc.

Buổi tối cuối cùng, giáo sư đến nhà chúng tôi ăn tối. Chúng tôi tặng giáo sư một khăn trải bàn thêu tay xem như là quà cưới cho giáo sư. Sáng hơm sau giáo sư bay đi Melbourne. Ổn định công việc ở Melbourne, giáo sư sẽ phải đón cô vợ mới cưới người Trung Quốc sang. Giáo sư nói bọn Úc thế mà lề mề, visa vợ chồng mà mất đến những ba tháng mới xong. Tuy nhiên tôi tin, cho dù mất ba tháng, giáo sư sẽ không bị bắt chẹt. Như đã từng bị bắt chẹt trên một sân bay lạ.

Thứ Tư, 10 tháng 6, 2009

The Professor (tiếp theo nữa)

Đoạn trước


Nếu vấn đề giao thông và đường sá có mang lại đôi chút phiền toái và mệt mỏi, thì Mũi Né thật sự là món quà tuyệt vời cho giáo sư, một người đã 6 năm chôn thân ở một xứ ướt át lạnh lẽo như Aberdeen và sau đó là Leicester. Đang giữa mùa mưa nhưng may cho giáo sư chúng tôi không gặp phải một cọng mưa nào. Trời nắng to, biển xanh, cát trắng, ngồi nhấm nháp ly mojito trong quán bar bên bờ biển, giáo sư công nhận rằng it’s worth the drive. Buổi tối, tôi chở giáo sư chạy tà tà trên con đường chính ở Mũi Né, hai bên đường resort, quán ăn và spa nằm san sát. Tôi cho giáo sư tự chọn quán nào vừa mắt thì xông vào. Rốt cuộc giáo sư chọn một nhà hàng seafood BBQ tên là Quê Hương. Chính ở trong quán này chúng tôi đã phanh thây con tôm hùm trắng phau, ngọt lừ kể trên. Tôi rất tiếc đã không chụp hình được con tôm hùm này, vì như đã nói, lúc nhớ ra thì đã quá muộn. Con tôm hùm vùng vẫy trong đại dương đã kết thúc cuộc đời oai hùng lừng lẫy trong bao tử chúng tôi mà không có lấy một tấm ảnh để tôm hùm vợ và tôm hùm con hương khói. Đời nhiều khi chẳng biết nói thế nào. Tương lai bao giờ cũng khó đoán định.

Cho dù thế, với một nửa con tôm hùm trong bụng, giáo sư đã dự đoán một tương lai tươi sáng cho ngành du lịch Việt Nam. Đại để ở châu Âu chẳng mấy ai biết Việt Nam chúng mày có bãi biển đẹp thế này, resort oách thế này, tôm hùm ngon thế này. Dân châu Âu phần lớn chỉ biết Thái Lan, Malaysia, Bali. Chúng mày phải quảng cáo cho thế giới biết. Chính phủ mày phải làm một cái gì đó để thu hút thêm du khách. Tôi cười. Chính phủ tao is working on it. Ít nhất trong vòng năm năm qua slogan của ngành du lịch Việt Nam đã đổi những ba lần. Từ Vietnam – a destination for the new millennium”, cho đến “Welcome to Vietnam” rồi bây giờ là “Vietnam – a hidden charm”. Very well hidden, indeed.

Mũi Né thay đổi nhiều chỉ sau một năm. Năm ngoái đến đây, tôi chưa thấy nhiều spa như bây giờ. Trung tâm tắm bùn khoáng tương tự như ở Tháp Bà Nha Trang, cũng như nhà hàng Hoa Viên bia Đức, nơi tôi và giáo sư ngồi uống bia tươi và tưởng nhớ tôm hùm cũng chưa có. Mới nhất và đặc sắc nhất là con đường mới mở từ đầu Mũi Né, xuyên qua đồi cát đến thẳng Hòn Rơm. Đường chạy trên cao uốn lượn theo đồi, trông xuống vịnh Mũi Né đẹp đến nghẹt thở. Chất lượng đường cực tốt, có thể chạy trên 100km/h hết sức nhẹ nhàng. Tuy nhiên, tôi không hiểu vì sao người ta cắm bảng giới hạn tốc độ 30km/h trên toàn tuyến. Trên đường từ Sài Gòn ra Mũi Né, nhiều đoạn đường khá tốt, dân cư thưa thớt, tôi cũng không hiểu tại sao tốc độ giới hạn là 50km/h, khiến cả đoàn xe phải nối đuôi nhau rù rì. Cảm giác những lúc đó thật là tưng tức, y như sau khi bạn uống nước quá nhiều, bụng căng tròn mà không thể nào đi ấy được.

Cho dù hết sức mê Mũi Né, bảo rằng nếu có thời gian sẽ ở Mũi Né cả tuần, giáo sư vẫn muốn quay lại Sài Gòn để đi thăm địa đạo Củ Chi. Giáo sư chỉ có ba ngày ở Việt Nam.

Thứ Ba, 9 tháng 6, 2009

The Professor (tiếp theo)


Giáo sư là người Đức, bạn tôi khi học ở Brisbane. Giáo sư được gán biệt danh “giáo sư” vì anh hành xử như một giáo sư và uyên bác như một giáo sư. Thời đi học, tôi hay lên thư viện trường nghịch internet và nhong nhóng xem có ai quen thì rủ đi uống café. Nếu tôi rủ giáo sư, giáo sư sẽ trước hết liếc nhìn đồng hồ, rồi bảo OK, tao đi được nhưng tao cần phải tìm một bài báo/cuốn sách, nửa tiếng nữa tao sẽ tới. Đúng nửa tiếng giáo sư sẽ tới, gọi một ly gì đó, chuyện trò dăm ba câu rồi giáo sư lại nhìn đồng hồ và bảo, tao phải đi đây, còn phải viết thêm một nghìn chữ cho bài essay vào hôm nay. Tôi nghĩ không có đồng hồ giáo sư sẽ chết mất.

Trước khi học Master ở Úc, giáo sư đã xong Doctoral continental law (hệ thống luật lục địa) ở Đức và đã trợ giảng một số năm. Giáo sư đến Úc vì muốn hoàn thiện tiếng Anh và muốn tìm hiểu thêm về hệ thống common law. Trong khi tôi chật vật lắm mới được điểm 6 hoặc mấp mé 7, thì giáo sư dễ dàng lấy điểm 7 ở hấu hết các môn. Điểm 7 là điểm cao nhất trong thang điểm đại học ở Úc. Sau khi hoàn tất Master ở Úc, giáo sư sang Aberdeen, Scotland để làm thêm một cái Ph.D common law (hệ thống thông luật) rồi trở thành một giáo sư thực thụ tại Leicester, UK. Tổng cộng giáo sư mất mười lăm năm học và nghiên cứu luật trước khi chính thức dạy đại học. Tôi nhớ lúc học luật ở Việt Nam, có những thầy cô chỉ trên tôi ba khóa. Cơm chấm cơm, cháo chấm cháo, nên rõ ràng cơm, cháo chả là cơm cháo gì so với xúc xích, phô-ma.

7 tháng trước khi sang Việt Nam, giáo sư gửi email thông báo ý định và kiểm tra xem tôi có đi đâu trong thời gian đó hay không. Một tháng sau, giáo sư đã mua vé và tôi đã biết chính xác ngày giờ giáo sư hạ cánh. Nửa tháng trước khi đến, tôi đã hoàn tất kế hoạch cho giáo sư tham quan Việt Nam. Trong rất nhiều email qua lại chuẩn bị cho chuyến đi, chúng tôi không mảy may đề cập đến chuyện visa, vì tôi nghĩ đó là chuyện hiển nhiên phải làm trước khi đến bất cứ nước nào. Đúng ra tôi hoàn toàn không nghĩ đến chuyện này và giáo sư cũng hoàn toàn không có bất cứ câu hỏi nào. Thế nên, tôi không biết giáo sư đã quyết định một cách hết sức kém sáng suốt, không đúng tầm giáo sư tí nào: xin visa tại cửa khẩu Việt Nam.

Tôi đến sân bay khi giáo sư vừa hạ cánh. Tôi gọi điện chúc mừng giáo sư, hướng dẫn khi ra ngoài gặp tôi ở chỗ nào. Hai mươi phút sau giáo sư nhắn tin “tao đang chờ lấy visa, mất khoảng 30 phút”. Hơi ngạc nhiên vì không biết rằng visa có thể xin tại cửa khẩu, nhưng tôi vẫn yên bụng ngồi chờ. Đúng 30 phút sau, giáo sư lại nhắn tin “chắc tao còn phải chờ lâu nữa, visa chưa xong”. Bắt đầu hơi nghi ngại, tôi gọi cho giáo sư. Giọng giáo sư vang vang trên điện thoại: “It’s totally unorganised here. I don’t know how much longer I have to wait.”. Tôi an ủi giáo sư mày ráng chờ một chút đi, nhưng nếu gặp rắc rối gì thì gọi cho tao. Thêm khoảng 40 phút nữa, điện thoại tôi rung lên. Tin nhắn của giáo sư: “Big problem. I need an invitation, which I don’t have.” Trời ạ, sao không ai bảo với giáo sư rằng cần phải có một invitation mới có được visa, nếu như thủ tục xin visa tại cửa khẩu quả thật cần phải có một invitation?

Khi đã gặp nhau tại khách sạn Đệ Nhất rồi, giáo sư mới nói tao kiểm tra rất kỹ trên trang web (tôi không hỏi kỹ trang web nào, của đại sứ quán Việt Nam hay một trang khác của UK, nhưng tôi đã yêu cầu giáo sư gửi cho cái link). Trên đó nói chỉ cần mang theo hai tấm ảnh và hộ chiếu. Hồi đó tao đi Malaysia cũng xin visa tại cửa khẩu nhanh lắm nên tao nghĩ Việt Nam cũng tương tự. Giáo sư, tuy là giáo sư rồi mà nhiều khi suy nghĩ thật thơ ngây. Thơ ngây hệt như lúc giáo sư tròn mắt ở Tân Phong, cái ngã ba mà tôi đi lạc, khi quành lại rồi tôi phát hiện ra có mấy hàng trái cây ngon lành ven đường. Nghĩ rằng giáo sư sẽ thích trái cây nhiệt đới vừa tươi vừa rẻ nên tôi dừng lại mua hai ký măng cụt và hai ký chôm chôm nhãn. Em bán hàng vừa khúc khích cười vừa cân măng cụt cho tôi. Em nói măng cụt đây ba ký rưỡi luôn rồi anh lấy luôn nhe. Tôi không khúc khích cười như em, tôi thấy bịch măng cụt chút xíu nên nói với em rằng em tính giỡn chơi anh sao chừng này mà hai ký. Em vẫn khúc khích cười mang một cái cân khác ra và thật là tài tình vẫn bịch măng cụt đó bây giờ vừa đúng hai ký. Không biết em còn một cái cân thứ ba nữa không. Tôi áng chừng chừng đó măng cụt chắc cũng xấp xỉ hai ký thật nên móc tiền ra trả. Em khúc khích cười nhận tiền, còn giáo sư thì tròn mắt. Hai mắt giáo sư tròn như hai cái đít tô.


Giáo sư đã mắt chữ O, mồm cũng chữ O nhiều lần từ khi đến Việt Nam. Đêm đầu tiên ở Việt Nam, sau khi đã trả 100 đô để nhận visa và passport, giáo sư được tự do. (Trước đó giáo sư bị buộc phải ở trong khách sạn vì visa chưa có.) Tôi chở giáo sư đi ăn tối. Vừa ló ra đường chính, giáo sư đã ồ lên kinh ngạc khi thấy người và xe lúc nhúc từ mọi hướng. Đến lúc đi trên Hoàng Văn Thụ, đoạn bên hông công viên, giáo sư lại ồ lên khi thấy xe máy và ô tô đan xen vào nhau, chịu không biết làn nào ra làn nào. Giáo sư ồ to hơn khi một chiếc taxi lấn qua mặt tôi từ bên phài đồng thời một chiếc taxi lấn qua từ bên trái. Nhưng đến lúc xe nhích từng mét một trên đường Nguyễn Văn Trỗi, nơi có những lô cốt trơ gan cùng tuế nguyệt bao nhiêu tháng qua, giáo sư chán không ồ à nữa, chỉ van vỉ tôi chở đến một quán ăn nào càng gần càng tốt. Giáo sư chỉ ồ lên một lần nữa khi xe vào Nam Kỳ Khởi Nghĩa, vì lúc đó giáo sư vui sướng phát hiện ra đường này có làn riêng cho xe máy và ô tô. Tôi đã không kể cho giáo sư rằng người ta đã thi công con đường này gần 4 năm qua. Tuy vậy giáo sư cũng kịp nhận xét chính phủ mày phải làm một điều gì đó về giao thông, vì giao thông không trôi chảy thì kinh tế sẽ trì trệ. Tôi cười.

Tôi cười vì tôi không thể khóc. Không khóc khi gặp bạn cũ sau 6 năm. Không khóc ở Ho Chi Minh City. Không khóc trên đường đi Mũi Né.

Lần đầu tiên lái xe đi xa với một con chuột bạch nặng 85 kg, tôi phát hiện ra mình lái xe cũng không tồi và lái xe đường dài cũng không đến nỗi kinh hãi lắm. Tuy vậy tôi cũng sợ vài thứ. Thứ nhất là xe bus. Bus ở đây không phải là loại lô cốt di động thường thấy ở nội thành Sài Gòn mà loại xe chở du khách của các công ty du lịch. Cánh lái xe bus mặc nhiên biến làn bên trái thành làn xe của mình và chỉ chịu đi đúng làn khi có xe từ hướng ngược lại. Thứ hai là các bác OS. OS là diễn đàn otosaigon.com, một diễn đàn chuyên về xe pháo các loại, nếu cần bất cứ thông tin gì về xe cộ, đường sá, đi lại bạn có thể vào đây luôn có người sẵn lòng trả lời cho bạn. Các thành viên OS, như thể hiện trên forum, thường xuyên kêu gọi nhau lái xe an toàn, đúng luật lệ. Họ dán logo otosaigon.com màu cam trên xe để nhận ra nhau.

Sau đây là chuyện tôi “gặp” các bác OS: Lúc tôi ra khỏi Phan Thiết một đoạn, đột nhiên tôi thấy một đoàn bốn, năm chiếc nhấp nha nhấp nháy đèn từ một cây xăng ven đường phóng ra đường chính với tốc độ khá cao. Đoàn xe này khi nhập với dòng xe trên quốc lộ rồi vẫn nhá đèn xi-nhan trái liên tục, có xe còn bật cả đèn khẩn cấp. Ở ngay phía sau họ nhìn tới, tôi quá chóng mặt với tín hiệu đèn không ngừng nhấp nháy bèn chạy chậm hẳn lại cho họ đi khuất mắt cho rồi. Lúc qua khỏi Dầu Giây chút xíu, xe phía trước hơi ùn cả lại. Thì ra có bốn năm chiếc cùng tấp vào lề đường. Tôi vượt lên, nhìn thấy một tốp năm bảy bác đứng quay lưng bên đường, hai tay hẳn là ở phía trước bụng cầm một cái gì đó. Tôi không nghĩ rằng tôi cần phải miêu tả cụ thể hơn họ đang làm gì. Đến lúc đó tôi vẫn chưa biết rằng đây là các bác OS mà tôi vẫn ngưỡng mộ. Chỉ khi, hẳn là sau khi các bác giải quyết tình yêu thiên nhiên xong và đồng loạt qua mặt tôi, một bác bên trái, ba bác bên phải gần như cùng lúc, thì tôi mới choáng váng nhìn thấy logo otosaigon.com trên xe các bác, gồm hai chiếc BMW, một chiếc Mercedes và một Ford Escape. Trừ chiếc Ford Escape, ba chiếc kia đều bật đèn khẩn cấp. Quả là một sáng kiến phi thường!


tại vì viết tới đây phải chạy có việc)

Thứ Bảy, 6 tháng 6, 2009

The Professor

Tôi vừa ăn xong con tôm hùm to nhất trong đời tôi đến thời điểm này tại Mũi Né. Nó to đùng, to đoàng, thịt trắng phau, cắn một miếng nước bọ ứa ra, cắn hai miếng muốn xỉu. Tôi chỉ ăn có nửa con thôi mà đã xiểng liểng. Tiếc là tôi chỉ nghĩ đến chuyện chụp hình nó, sau khi nó chỉ còn trơ vỏ. It's 25 minutes too late. Dù sao đi nữa, thì tôi cũng không mang máy ảnh theo trong chuyến đi này. Giáo sư, hay con chuột bạch (hoặc con heo Ghi-nê tùy bạn gọi), là người xơi nửa con còn lại, và giáo sư cũng thừa nhận rằng it was the best lobster he's ever had.

Đây là lần đầu tiên tôi lái xe đi xa đến thế. Hồi nào đến giờ tôi chỉ quanh quẩn tại Sài Gòn. Nhân dịp giáo sư đến thăm Việt Nam, tôi đem giáo sư ra làm vật thí nghiệm. Giáo sư ngáp dài ngán ngẩm suốt ba tiếng đồng hồ đầu tiên trên xe, khi tôi đi mãi mà chưa ra khỏi Dầu Giây. Tôi đã đề nghị với giáo sư xuất phát từ Tân Bình vào lúc 6 giờ, nhưng giáo sư còn choáng với cú sốc visa tại cửa khẩu, không thể dậy quá sớm. Cuối cùng, chúng tôi xuất phát lúc 8 giờ 15 từ khách sạn Đệ Nhất, Tân Bình. Giáo sư đã phải trả 123 đô la Mỹ cho một đêm tại khách sạn 4 sao Đệ Nhất. Tôi thì không hiểu tại sao khách sạn này tên là Đệ Nhất và tại sao nó được mang 4 sao. Tôi không hình dung ra loại du khách nào thì chọn ở khách sạn này, một khách sạn vừa xa trung tâm thành phố, vừa rất trung bình về chất lượng trong khi rất cao cấp về giá cả. Tất nhiên tôi đã không book cho giao sư vào khách sạn này. Việc giáo sư phải ở khách sạn này trong một đêm chỉ là một tai nạn. Cái tai nạn này, cũng như câu chuyện visa, xứng đáng được kể riêng trong một entry khác, nhưng tôi sẽ chỉ làm việc đó sau khi giáo sư đã rời Việt Nam an toàn.

Suốt ba tiếng đồng hồ trên đường từ Tân Bình đến Dầu Giây, giáo sư lộ rõ vẻ ngán ngẩm. Giáo sư bình luận bằng một giọng hết sức giáo sư, mà cũng hết sức giống một người Đức điển hình. Tao nghĩ giao thông ở Trung Quốc là tệ lắm rồi, nhưng nay tao mới biết giao thông ở đây còn hơn nhiều. Thật là vô tổ chức. Nếu mọi người kỷ luật hơn chút xíu, ai cũng tôn trọng phần đường của mình, thì giao thông của bọn mày chắc không đến nỗi tệ như thế này. Ặc ặc giáo sư ơi, nếu chúng tớ cũng kỷ luật như người Đức của giáo sư, chúng tớ đã khác lắm rồi.

Chúng tôi chỉ đi ở tốc độ rùa bò từ Sài Gòn đến Dầu Giây. Từ Dầu Giây trở đi, đường sá quang đãng hơn rất nhiều. Đến một lúc, tôi nhận thấy tôi thấy chỉ có mình xe chúng tôi trên đường, đường rất vắng và rất tốt, có thể chạy hơn 90km/h hoàn toàn thoải mái và nhẹ nhàng. Một lúc nữa thì tôi phát hiện ra đã nhầm vào đường đi Bà Rịa. Có một ngã ba, gọi là ngã Tân Phong mà tôi không để ý. Thay vì rẽ vào hướng đi Mũi Né, tôi lại chạy thẳng. Thế là, tôi phải vòng lại một đoạn khá xa.

Giáo sư là người Đức, bạn tôi khi học ở Brisbane.