Hiển thị các bài đăng có nhãn murakami. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn murakami. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 18 tháng 8, 2025

When the Night is Over

Alice Munro có một truyện ngắn tên là Gấu trèo về qua núi. Truyện này nằm trong tập Ghét, thân, thương, yêu, cưới được dịch và in ở Việt Nam cách đây gần 10 năm rồi, hồi bà mới đoạt giải Nobel. Mặc dù đã đọc vài tập khác của bà và ca ngợi bà hết lời, tôi mới chỉ đọc tập này gần đây thôi, chính xác là sau khi đọc một cuốn gì đó quá dày, tôi muốn thoát ra, thay đổi không khí đọc cái gì đó ngăn ngắn, tôi nghĩ truyện của Munro sẽ phù hợp. Điều kỳ lạ là tôi không thấy Munro thấm thía như trước nữa. Có thể không phải tập này kém hơn so với các tập kia - nó vẫn được coi là một tập truyện tiêu biểu của bà - có thể chỉ là do tôi khác đi. Nói ngay tôi không bị ảnh hưởng bởi scandal liên quan tới vụ bà đối xử với con gái mình. Đó là một cách ứng xử không chấp nhận được, nhưng tôi luôn tách bạch văn với người. Tập này, tôi chỉ đọc được bốn, năm truyện là thấy đủ và dừng lại; trong số đó tôi chỉ thích truyện được lấy làm tựa cho tập Ghét, thân, thương, yêu, cướiGấu trèo về qua núi. Nhưng thích là thích khi đọc, là thích  cái ấn tượng hai truyện ấy mang đến cho tôi lúc đó, chứ sau thì cũng không nhớ nữa. Nói đúng ra thì tôi nhớ một chút về cái mối tình oái oăm và trò tinh nghịch tai quái của hai cô bé trong Ghét, thân, thương, yêu, cưới, nhưng Gấu trèo về qua núi viết về cái gì thì tôi hoàn toàn không nhớ cho đến khi mở cửa sổ trên máy tính ra và viết những dòng này. Tất nhiên khi bắt tay gõ thì chỉ cần vài cái nhấp chuột đơn giản tôi đã được "nhắc" lại nội dung truyện, biết rằng Trần Ngọc Hiếu đã đăng một bản dịch truyện này trên blog của bạn ấy. Chỉ mong sau này tôi không bị Alzheimer. 

***

Tôi vẫn còn nợ các bạn tôi một lời giải thích về tư duy tiểu thuyết là gì. Số là trong một chuyến đi gần đây, chủ đề tiểu thuyết được đưa ra bàn thảo, và tôi đã trót đưa ra là lời nhận xét là nhà văn X đó có tư duy tiểu thuyết. Gần như vừa nói xong là tôi biết sẽ bị vặn vẹo ngay tư duy tiểu thuyết là gì. Quả thưc như thế, các ông bạn tôi không buông tha cho tôi. Điều bí mật là mặc dù đã đọc nếu không đến số nghìn, thì cũng đã hàng trăm tiểu thuyết rồi, tôi có biết tư duy tiểu thuyết là gì đâu. Hoặc nói đúng hơn, tôi có biết, nhưng diễn đạt cho ra đầu ra đũa thì là một vấn đề khác. Câu buột miệng của tôi cần được giải thích bằng một tiểu luận, các bạn cho tôi khất, nhưng tiểu luận không phải nghề của tôi. 

***

Cái chết là nghề của tôi là tên một tiểu thuyết của nhà văn Pháp Robert Merle, Trần Dần dịch, viết về một trong những cai ngục của một trại tập trung dân Do Thái của Đức Quốc xã. Anh ta không phải là kẻ ác độc. Anh ta chỉ muốn làm tốt nhiệm vụ được giao. Nỗi bận tâm của anh ta là làm thế nào giết được nhiều người nhất mà tốn ít công sức nhất. Anh ta coi việc làm cho người ta chết là một công việc, và vì đó là công việc, và vì anh ta là có thái độ làm việc chuyên nghiệp, nên anh ta tìm mọi cách để nâng cao hiệu suất công việc của mình. Giết bằng súng thì quá tốn đạn, lại còn phải lo cho có đủ người thực hiện việc bắn, mà số người cần phải giết thì quá nhiều. Đó là lý do anh ta nghĩ tới dùng hơi ngạt và lò thiêu.

***

Tôi đang bắt đầu đọc Gia đình bé mọn của Dạ Ngân. Cuốn này ra đời cũng hai mươi năm rồi, tôi có nghe tên nhưng chưa bao giờ chú ý. Gần đây, bạn Lê Hồng Lâm nồng nhiệt giới thiệu trên Facebook nên tôi mua về đọc. Tôi thường đọc khoảng hơn chục cuốn cùng lúc, có cuốn sẽ đọc cho xong, có cuốn bỏ dở nửa chừng, không hẳn vì dở mà vì chưa phải thời điểm thích hợp để nhập vào cuốn đó. Một lý do nữa là tôi thường xuyên rinh sách mới về nhà, cuốn nào mới được mang về cũng nhủ thầm sẽ đọc cho xong mớ này, nhưng cũng thường xuyên chuyện đó không bao giờ xảy ra. Thỉnh thoảng tôi xem lại những tấm ảnh mình chụp sách mới mua post trên FB tầm cách đây chục năm, nhận ra mình mới đọc xong chừng hai, ba cuốn trong đống sách mua hồi đó. Hôm trước gặp Bảo Chân, Chân tặng tôi hai cuốn bạn dịch, rồi nhắc tới cuốn của Khải Đơn và Phan Thúy Hà, thế là tôi lại lọ mọ đặt mua, sách tới nhà hôm qua. Vậy là tôi đọc cuốn của Khải Đơn và Gia đình bé mọn cùng một lúc. Đọc Gia đình bé mọn được mấy mươi trang, chưa thể nói gì về nó, nhưng có sự thú vị trong việc nhặt ra những từ lạ hoặc hiếm dùng: "nôn nang", "ươn yếu", "cụ bị".... "Cụ bị" thì tôi hiểu gần như là "chuẩn bị", còn hai từ kia tôi gặp lần đầu, trong ngữ cảnh có thể đoán lờ mờ nhưng chưa thật sự rõ nghĩa. Sự lấn át của văn học dịch so với văn học trong nước hai chục năm qua, cái hay thì không nói làm gì, nhưng cái dở rõ là làm cho ngôn ngữ ngày càng nghèo đi. Ngôn ngữ phải sinh sôi bởi các nhà văn chứ không phải các dịch giả. Lệ thuộc vào bản gốc, dịch giả dẫu có tài hoa bay bổng cách mấy khó lòng đi khỏi cái khuôn do bản gốc quy định. Ấy là chưa kể đa số bản dịch trên thị trường chỉ ở mức tầm tầm. Đọc tiếng Việt của các nhà văn giỏi vẫn có niềm khoái thú riêng, trước hết là ở cách họ dùng từ, chơi đùa với tiếng mẹ đẻ như thế nào. Nói đi cũng nói lại, ở thì hiện tại, không quá nhiều nhà văn Việt Nam khiến tôi khâm phục về ngôn ngữ. Cuốn của Khải Đơn tôi vừa đọc được ba truyện. Truyện thứ nhất hãy còn mang dáng dấp của một tản văn - trước đây cô cũng ra hai tập tản văn rồi, mà tản văn thì tôi không đọc, nói chung ai viết tôi cũng không đọc, đó không phải văn chương nghiêm túc. Truyện thứ hai và thứ ba trong tập Con rối hát ngoài rừng xa thì đáng chú ý hơn nhiều. Trong cả hai truyện, Khải Đơn tạo được một không khí mập mờ. Liệu đây có phải là không khí chủ đạo cho cả tập hay không thì phải đọc được hết cả tập mới biết. Trong truyện Sâu của biển, chỉ trong vài trang tôi nghĩ Khải Đơn mang đến ấn tượng sâu đậm hơn nguyên cuốn tiểu thuyết đình đám cùng đề tài, Thuyền, của Nguyễn Đức Tùng. Cuốn Thuyền hỏng về nhịp, mặc dù tác giả là nhà thơ. Thuyền được nhiều người ca ngợi vì đề tài, nhưng đề tài (alone) có bao giờ làm nên tác phẩm đâu?

***

Nhưng hai tuần qua, tôi không thật sự đọc ra đầu ra đũa cuốn sách nào, ngược lại xem được rất nhiều phim hay. Cái này nhờ ơn bạn Kỳ đã chỉ tôi cách cài app lậu lên TV. Tôi không ưa xem phim trên máy tính, mà ở VN muốn xem được phim hay chỉ có cách xem phim lậu. Nay cài được app lậu lên TV thật là sung sướng. Có một thời gian tôi đăng ký Mubi đàng hoàng, nhưng kho phim của Mubi cũng hạn chế. Nhờ app lậu tôi coi được một loạt phim hay: The Good, the Bad and the Weird; The Dreamers; Lust, Caution (xem lại mà như xem lần đầu), Stand by Me, We Need to Talk about Kevin; The Handmaiden; Oldboy - toàn phim lâu lắc nhưng phim nào cũng hay, mỗi cái hay một kiểu. Xem Stand by Me xong mới biết cậu bé trong phim là diễn viên River Phoenix, anh của Joaquin Phoenix rất nổi tiếng, mỗi tội River Phoneix nổi sớm mà chết cũng sớm, lúc mới 23 tuổi, vì ma túy quá liều.

***

When the Night is Over là một bài hát của Lord Huron. Dạo này tôi nghe ban này nhiều. Bỏ Spotify chuyển qua Apple Music khiến tôi có hứng thú nghe nhạc trở lại. Chất lượng âm thanh của Apple Music tốt hơn mà nó cũng recommend nhạc tốt hơn Spotify. Con AI của Spotify ngày càng lởm. Thời đầu dùng Spotify, tôi cứ nhong nhóng chờ sang tuần để xem nó giới thiệu gì trong mục Weekly Discovery; về sau, nó giới thiệu toàn bài chán oặt, hay có cái kiểu mình thích bài nào thì nó giới thiệu những bản cover lại chính bài ấy, mà kém hơn. Dùng Apple Music, nếu muốn chuyển những playlist đã tạo ở Spotify, có thể dùng một cái app tên là Songshifter. 

***

Là người đọc tiểu thuyết ở thì hiện tại, Việt Nam hay bất kỳ đâu, thể nào ta cũng đọc ít nhất một cuốn của Haruki Murakami. Thật khó mà cưỡng nổi sức hút của tiểu thuyết của ông nhất là những cuốn thời kỳ đầu: Rừng Na uy, Biên niên ký chim vặn dây cót, Kafka bên bờ biển... Về sau, tiểu thuyết ông không còn mới mẻ nữa, tôi nghĩ cũng không sao. Không thể đòi hỏi quá nhiều. Kể cả không còn cuốn hút bởi tiểu thuyết của ông nữa, khi đọc lại những cuốn non-fiction như Mình nói gì khi nói về chạy bộ, hay đọc cuốn mới được dịch của ông, Nghề viết tiểu thuyết, tôi vẫn đồng cảm và quý mến con người nhà văn. Tất nhiên, một phần tôi là người chạy bộ: về chuyện này thì ông truyền cảm hứng ghê gớm. Kể cả không chạy bộ thì cuốn sách về chạy bộ của ông cũng chứa đựng nhiều thứ hay ho và, chắc một số người sẽ thích, hữu ích. Đọc Nghề viết tiểu thuyết, tôi quý ông ở chỗ thành thực và không cao đạo - về chỗ này thì tôi thấy lắm người thành tựu thì chả có gì mà đi đứng nói năng lúc nào cũng như ông kễnh, rất buồn cười. Ông cho ta cảm tưởng là viết tiểu thuyết dễ lắm, ai viết cũng được, có khi tôi cũng thử cầm bút lên mà viết một cuốn. Tôi còn quý ông ở chỗ là ông nói luôn ông là người không yêu nước - về chỗ này thì tôi giống ông, theo ý nghĩa là không có tự hào dân tộc. Tôi luôn thấy tự hào dân tộc là một tình cảm kệch cỡm. Tự hào dân tộc quá lố thì còn ngu xuẩn nữa. 

Murakami còn là người rất chuyên nghiệp và kỷ luật. Ông mô tả cách viết của ông thế này: mỗi ngày ông viết 4-5 tiếng, được đúng 10 trang. Một tháng ông viết 300 trang. 6 tháng ông viết 1800 trang. Nghe dễ không! Bản thảo đầu tiên cuốn Kafka trên bờ biển là 1800 trang, sau đó ông sẽ sữa chữa 4- 5 vòng, mỗi vòng 1 tháng hoặc vài tuần, đưa cho vợ đọc, sửa tiếp, gửi cho biên tập viên, sửa tiếp. Tôi cũng áp dụng cách làm này khi dịch sách. Tất nhiên thì tôi dịch rất ít và cũng lâu lâu mới dịch một cuốn. Nhưng nếu dịch, thì tôi cũng đặt ra chỉ tiêu cho mình mỗi ngày 1-2 trang gì đó, cuốn tuần gấp 3. Nói gì thì nói, dịch là một việc mang tính kỹ thuật hơn, kiểu gì có thời gian thì cũng dịch được, không như viết là công việc đòi hỏi sáng tạo. Đặt ra chỉ tiêu mỗi ngày viết 10 trang mà duy trì suốt 6 tháng đều đặn như thế thì thật kinh khủng.

***

Thỉnh thoảng tôi thấy một vài nhà văn hồ hởi share lại bình luận về tác phẩm của mình trên Facebook. Thật lòng tôi thấy thương thương. Đã viết ra được tác phẩm, tôi nghĩ nhà văn hãy nên kiêu ngạo một chút. Cái mình cần viết, muốn viết, mình đã viết rồi. Khen, chê, bình luận là chuyện của người khác. Hãy đứng bên ngoài nó. Vả chăng, tôi nghĩ nhà văn không nên lên Facebook, cái chốn ấy chỉ tổ làm hỏng người. Nếu vẫn muốn lên FB, thì hãy tách bạch khỏi thân phận nhà văn của mình. Nếu không lập được một cái profile khác, chí ít đừng nói gì tới văn chương trên ấy. 

***

Tôi đọc xong tập Con rối hát ngoài rừng xa rồi, mất nhiều thời gian hơn dự tính. Cuốn sách hơn 200 trang một chút, gồm 14 truyện ngắn, có truyện chỉ ba bốn trang. Vậy mà đọc khá lâu mới xong. Thứ nhất là không đọc nhanh được. Khải Đơn viết cô đọng và tương đối tiết chế, mắt phải dừng lại ở mỗi câu, chữ lâu hơn. Thứ hai, mỗi truyện đọc xong phải đọc lại một lượt, đâm ra bằng đọc hai cuốn. Nói chung, tôi nghĩ Khải Đơn thành công với tập truyện này, mặc dù đây mới là lần đầu tiên cô thử sức với văn chương hư cấu. Sâu của biển chắc là truyện xuất sắc nhất tập. Tôi cũng thích truyện Khung trời vô cực, nhưng nếu là biên tập viên, tôi sẽ đề nghị cắt gọt đi chút xíu, bớt kể lại, cất bớt thông tin để truyện ép-phê hơn. Nguyễn Ngọc Tư là người rất nghề với thao tác này. Các truyện ngắn của Tư về sau này gần như không thừa từ nào, chi tiết nào.

***

Xem phim Drive My Car xong khiến tôi muốn đọc lại truyện, nhưng tìm khắp nhà không ra tập Những người đàn ông không có đàn bà, thế là đành đặt mua lại. Sách tới hôm qua, tôi đọc lại truyện Drive My Car và hai truyện khác mà đạo diễn có mượn một vài chi tiết đưa vào phim là Kino và Scheherazade. Đạo diễn tên gì không nhớ dựng phim này quá giỏi, từ một truyện không quá đặc sắc như Drive My Car (tôi thấy hai truyện kia còn ấn tượng hơn) mà có thể dựng nên một phim quá đỗi day dứt. Anh diễn viên chính diễn bằng mắt thật xuất sắc, nhất là ở cảnh khi cô vợ ngồi trên người anh vừa làm tình vừa kể chuyện, còn anh nằm ngửa gửi ánh nhìn vào hư vô - không hẳn là bàng quan hay sao nhãng, mà như kiểu vừa tự vấn vừa chất chứa một nỗi bất an đang được kiềm nén. Phim dài ba tiếng nhưng xem có cảm giác qua thật nhanh. 




Thứ Sáu, 18 tháng 12, 2015

Nghe gió hát

Nghe gió hát tức là Hear the Wind Sing, tiểu thuyết đầu tay của Murakami.

Hôm nọ đi công tác, họp hành túi bụi chẳng có thời gian chui vào bất cứ tiệm sách nào. Thường, mỗi khi đến một thành phố, tôi hay bỏ ra môt buổi đi lang thang, chủ yếu ngắm sách chứ dạo về sau không mua mấy, vì nhà cửa chật chội quá rồi. Lần này, bận, nên mãi khi ra sân bay có mới có chút thời gian ngơi. Ghé một tiệm, tính kiếm cuốn The Sympathizer mà không có, mắt lại va phải cuốn của Murakami, đúng ra là hai cuốn, Hear the Wind SingPinball in chung theo kiểu ngược xuôi, mặt này là Hear the Wind Sing, lật mặt kia là Pinball. Sách in đẹp quá, cầm lòng không đậu, đành mua, mặc dù sách ở Sin, đặc biệt tại sân bay, khá đắt. Cùng cuốn ấy nếu nhập về bán tại Fahasa bao giờ cũng rẻ hơn. (Hiện tại Fahasa Nguyễn Huệ đang bán một loạt sách Picador Classic, in rất đẹp, giá chỉ 150 nghìn/ cuốn; rẻ hơn sách nội.)

Hear the Wind Sing là cuốn đầu tay của Murakami. Nội dung như thế nào thì giờ quên mất rồi, nhưng đại khái nhớ chàng viết đơn giản, không chiêu trò màu mè, đọc xong  còn nhiều dư vị. Pinball thì chán hơn nhiều, vì chàng bắt đầu giở trò, những là ngủ với chị em sinh đôi, vừa làm tình vừa nghe Handel và trích dẫn Kant, cùng những tổ chức lễ tang cho một cái bảng công tắc gì đấy. Nói chung là nhảm.

Nhớ nhất từ Hear the Wind Sing, tuy vậy, không phải là câu chuyện hay nhân vật nào, mà chuyện Murakami kể mình đã tìm kiếm phong cách viết văn như thế nào. Đại khái Murakami kể mình viết xong cuốn đầu tay, đọc lại tự thấy chán quá, vì thấy mình viết nhang nhác các nhà văn Nhật khác, thế là chàng vứt, viết lại từ đầu. Lần này, chàng nảy ra ý viết bằng tiếng Anh. Mà tiếng Anh của chàng chỉ ở trình vừa phải, nên chàng chỉ sử dụng những từ đơn giản, viết câu ngắn, không dùng từ hoa hòe hay đặt câu dây cà dây muống. Được vài chương, chàng nhận ra mình  có thể để diễn đạt được điều mình muốn nói bằng những từ và câu đơn giản, vậy tại sao không làm y như vậy bằng tiếng Nhật. Thế là chàng lóc cóc dịch ngược những chương đã viết ra tiếng Nhật, rồi viết tiếp cho xong, thành Hear the Wind Sing. Chàng nhận ra mình đã tìm được phong cách viết cho mình, khác biệt với các tác giả Nhật khác.

Có lẽ vì vậy mà, nghe đồn rằng, dịch tiểu thuyết của Murakami ra tiếng Anh khá dễ dàng, vì ông cố tình viết đơn giản, mà cũng còn vì có thể ông tư duy bằng tiếng Anh.

Thứ Năm, 18 tháng 10, 2012

Họ đã nói về tiểu thuyết

"Họ" ở đây không phải là các nhà văn, mà là nhân vật của các nhà văn. Chẳng hạn, hãy đọc đoạn sau đây do nhân vật biên tập viên Komatsu trong 1Q84 nói, để biết trong 1Q84 không phải chỉ có tinh hoàn như có kẻ độc mồm nào từng bảo 1Q84 là "Tinh hoàn truyện":)

"Người đời đa phần không hiểu được giá trị thực sự của tiểu thuyết, nhưng lại không chịu lạc hậu với trào lưu. Hễ thấy có sách được giải trở thành tiêu điểm bàn tán là họ sẽ mua về đọc."

"Tengo à, cậu thử nghĩ xem: bầu trời chỉ có một mặt trăng, độc giả đã thấy không biết  bao nhiêu lần rồi. Phải vậy không? Nhưng trên trời cùng lúc hiện ra hai mặt trăng, cảnh tượng ấy chắc chắn họ chưa tận mắt nhìn thấy bao giờ. Khi cậu miêu tả một thứ gần như tất cả độc giả  đều chưa từng thấy bao giờ trong tiểu thuyết, thì không thể không cố gắng miêu tả cho kỹ lưỡng và chuẩn xác. Chỉ những thứ gần như tất cả độc giả đều từng tận mắt trông thấy mới có thể tỉnh lược, hoặc có thể nói là cần phải tỉnh lược."

Còn đây là lời của nữ tu trong Hiệp sĩ không hiện hữu:

"Nghệ thuật viết truyện là ở chỗ biết rút ra toàn thể phần còn lại của cuộc sống từ cái sự-không-là-gì-cả lĩnh hội được từ nó; nhưng khi trang viết kết thúc, thì cuộc sống lại lên đường, và ta nhận ra rằng những gì mình biết quả là một sự-không-là-gì-cả."

Thứ Năm, 13 tháng 10, 2011

Mình nói chuyện gì khi mình nói chuyện Murakami







Tôi vừa phát hiện ra Haruki Murakami và tôi có vài điểm chung. Ít nhất là hai.

Thứ nhất, nhịp tim của Murakami và tôi tương đương nhau: lúc bình thường khoảng năm mươi. Đó là nhịp tim của một người chạy bộ. Ai đã đọc Tôi nói khi nói về chạy bộ của Murakami đọc câu này của tôi hẳn sẽ ngỡ rằng tôi là một chuyên gia chạy marathon như ông nhà văn người Nhật.  Vì tôi là người hết sức trung thực nên tôi nói ngay: Không phải đâu. Có một thời gian tôi chạy khá đều đặn vào mỗi buổi sáng, nhưng nhiều nhất chừng  5 ki lô mét. Chứ còn Murakami là một tay chạy marathon thực thụ, chưa kể có lần ông còn tham gia một cuộc chạy siêu marathon kinh hồn táng đởm sáu mươi hai dặm tức ngót nghét 100 cây số. Dã man như con ngan, man rợ như con vợ. Chả trách ông có thể viết trường thiên tiểu thuyết, cuốn mới nhất 1Q84 ra tiếng Việt chắc phải trên ngàn trang. Còn tôi thì viết được blog, entry nào dài lắm tầm nghìn chữ. 1Q84 bản tiếng Anh Amazon cho đặt hàng trước giá giảm những 47% so với giá bìa, nhưng nghe đâu tiếng Việt cũng sắp có nên chờ bản dịch tiếng Việt vậy.

Điểm chung thứ hai, Murakami kể chuyện ông mất rất nhiều thời gian chuẩn bị như những bài diễn thuyết bằng tiếng Anh. Cụ thể trước khi bước lên bục ông học thuộc lòng cả bài diễn văn và phải tập dượt bài diễn văn nhiều lần.  Cái này hao hao giống tôi. Với những bài thuyết trình trong phạm vi công ty tôi chỉ cần xem qua trước khi trình bày, tuy nhiên, khi phải thuyết trình bằng tiếng Anh tại các hội nghị quốc tế, để đảm bảo mình có thể nói rõ ràng và lưu loát,  tôi thường tập qua chừng mười lăm đến hai chục lần, có khi còn ghi âm để tự mình nghe lại và canh thời gian.  Sau khi đã tập qua từng đó lần thì tuy không cố ý học thuộc, tôi cũng có thể thuộc lòng cả bài nói. Cũng giống như Murakami, tôi nghĩ sẵn một vài chiêu chọc cười khán giả, nhưng thường tùy tình hình tại buổi trình bày mà tôi ứng biến vài trò mới. Nếu sau một hai phút mà tôi đã làm khán giả cười được tôi sẽ tự tin hơn rất nhiều.

Như có lần tôi nói, Murakami quả có duyên với độc giả Việt Nam khi tác phẩm của ông gần như được dịch trọn vẹn. Nhìn chung, tôi thích tiểu thuyết của ông hơn, vì ông luôn có khả năng tạo dựng ra một thế giới quyến rũ cho các tiểu thuyết của mình.  Văn phi hư cấu ông có hai cuốn đã dịch, cuốn Ngầm, có lần tôi đã nhắc đến, còn cuốn này, Tôi nói gì khi nói về chạy bộ, khiến tôi khâm phục ông với một tư cách khác hơn tư cách nhà văn.  Một khi cuốn sách đã kể về chạy bộ, tất nhiên người đọc sẽ chờ đợi những câu như thế này: “Đích cuộc đua chỉ là một cái mốc tạm thời không có ý nghĩa gì nhiều. Cũng hệt như đời sống của chúng ta. Chẳng phải vì có một cái kết thúc mà tồn tại là có ý nghĩa.” Hoặc thế này, “Chạy đua với thời gian không quan trọng. Điều có ý nghĩa với tôi hơn nhiều giờ đây là tôi có thể vui thú chừng nào, tôi có hoàn tất được hai mươi sáu dặm với cảm giác mãn nguyện không.”   Những câu văn không phải là khó đoán định đối với độc giả biết rằng mình đang đọc sách của một nhà văn kiêm người chạy bộ. Có lẽ tôi trông đợi nhiều hơn  từ một cuốn sách như thế này, cụ thể, tôi mong ông viết nhiều hơn về nghề văn, thay vì chỉ kể hết cuộc chạy marathon này sang cuộc chạy marathon khác. Dẫu vậy, Murakami vẫn là Murakami, và không có quá nhiều người vừa là nhà văn vừa là người chạy bộ. 

Thứ Hai, 8 tháng 8, 2011

Tên entry dành cho độc giả

Trong buồn ngủ vô vàn tôi đọc Murakami. Đây là một trong ba tập truyện ngắn của Murakami trong số năm cuốn sách tôi được một nữ sĩ xinh đẹp tặng và nằm trong hai chồng sách tôi nhận được cuối tuần vừa rồi.  Nữ sĩ này tôi chưa gặp nhưng tôi chắc chắn nàng xinh đẹp. Tất cả những người tặng sách cho tôi đều đẹp. Tặng một cuốn thì đẹp một lần, hai cuốn đẹp hai lần, ba cuốn đẹp ba lần cứ thế mà nhân lên như bảng cửu chương.  Tất nhiên đẹp nhất là vợ tôi do nàng tuy ít khi trực tiếp tặng sách cho tôi nhưng lại để mặc tôi tự ý mua sách mà không phàn nàn chi. (Câu này thêm vào với mục đích phòng thân.) Mà số sách tôi mua tất nhiên ăn đứt số sách được tặng.  Tôi hay toang hoang nên mọi người cứ tưởng tôi được tặng nhiều lắm. Thật ra mỗi năm tôi chỉ được tặng chừng chín chục cuốn là cao.  Cộng với độ mười cuốn mà một số người hứa tặng mà chưa tặng hay hứa trao đổi sách nhưng trao rồi mà chưa thấy đổi thì mới chẵn trăm. Cũng chẳng là bao. Tuy vậy tôi không than phiền gì vì tôi vẫn chủ trương trọng chất chứ không trọng lượng. Những cuốn tôi tàng trữ trong nhà đều là những cuốn ít nhiều tôi thích và đã đọc hoặc tâm niệm là sẽ đọc lúc này hay lúc khác.

Tôi xin nhắc lại tôi đang đọc truyện ngắn Murakami, nhưng vừa nhắc tới Murakami tôi đã lan man sang chuyện tặng sách. Tôi tự ngưng lại ở đó, vì tôi luôn tự ý thức là mình lan man. Nếu cứ thả dàn tôi sẽ lan man tới chuyện răng khôn mọc dại không chừng. "Thả dàn" viết thế nào cho đúng nhỉ. Chính tả tôi ngày càng tệ. Mà trong cái sự vụ này, cũng như cái sự vụ tra cứu ngữ nghĩa, các từ điển tiếng Việt nước nhà không lấy gì hữu ích cho lắm.  Chẳng hạn có một thời tôi đinh ninh “xao lãng” đúng, “sao lãng” sai, giở từ điển ra lại thấy chấp nhận cả hai, thật chẳng biết đường nào mà lần. Các từ điển tiếng Việt lại còn có một điểm rất đáng yêu là bất cứ khi nào băn khoăn về một từ nào, thì y như rằng từ điển không có từ ấy.  Chẳng bù với từ điển tiếng Anh, ôm một bộ Oxford phiên bản mới nhất cộng thêm một bộ Macmillan dưới gối thì có thể ngủ ngon lành.  Hiện tại tôi rất cần một từ điển từ đồng nghĩa, nhưng chẳng kiếm đâu ra. Có bộ Việt ngữ tinh nghĩa từ điển của Nguyễn Văn Minh soạn cẩn thận, nhưng bộ ấy gần gấp đôi tuổi tôi rồi, mà cũng còn nhiều hạn chế.

Tôi xin nhắc thêm một lần nữa tôi đang đọc Murakami, nhưng một lần nữa tôi lại lan man sang chuyện từ điển. Trong lịch sử văn học có một ông bố của lan man là ông Laurence Sterne, tác giả cuốn Tristram Shandy.  Ông này viết một tiểu thuyết gồm 9 quyển, đến quyển thứ ba vẫn kể chưa xong một vụ sinh đẻ, tại vì ông có tài lèm bèm chuyện nọ xọ chuyện kia.  Cuốn này tôi chưa có, cũng chưa đọc, nhưng tôi biết về nó. Kể ra nếu tôi không tự thú khối người sẽ nghĩ tôi đọc rồi. Thật ra có khá nhiều kỹ thuật để gây ấn tượng rằng ta đã đọc một cuốn sách, và có nguyên một cuốn sách bày người ta cách nói về những cuốn sách chưa đọc. Cuốn đó là How to talk about books you haven’t read. Cuốn này tôi có, và đã đọc ngay khi mới rước về với mục đích nhỏ mọn là học cách nói về những cuốn sách chưa đọc. Thật ra cả cuộc sống và thời gian đều hữu hạn, đọc nhiều hay ít sách xét cho cùng cũng chẳng có nghĩa gì lớn, quan trọng là đọc sách có làm ta vui hay không thôi.

Tôi nhận ra đến đây tôi vẫn chưa nói gì về những truyện ngắn Murakami đang đọc. Murakami kể ra rất có duyên với độc giả Việt Nam. Khối tác giả hoành tráng chả bao giờ hoặc rất ít được dịch ở Việt Nam, hoặc có dịch cũng không mấy người biết, nhưng Murakami chắc chỉ còn mỗi 1Q84 chưa dịch. Tiểu thuyết của Murakami tôi có đủ và đã đọc trọn. Truyện ngắn của ông tôi gặp nhiều lần nhưng cứ lần lữa không mua, phần vì tôi ưu ái tiểu thuyết hơn, phần vì cứ đợi có người tặng.  Murakami là người hâm mộ Raymond Carver và từng dịch nhiều truyện của Carver.  Truyện ngắn của ông có phảng phất hơi của Carver, nhất là những đoạn đối thoại. Tuy nhiên, đọc Carver ta có cảm giác không khí bị dồn nén, lúc nào cũng có cái gì đấy chực chờ nổ tung. Truyện Carver luôn cho ta cảm giác bất an, khi một lời chào tạm biệt cũng nặng nề, mà một dấu chấm câu cũng tiềm tàng nguy hiểm.  Truyện ngắn của Murakami lại cho ta cảm giác không khí loãng ra, đôi khi làm ta khó thở, nhưng phần nhiều là thấy cơ thể mình bị kéo giãn.  Truyện ngắn của Murakami có thể đọc hết truyện này sang ngay truyện khác; nếu không buồn ngủ lắm, tôi có thể đọc một mạch hết một tập, trong khi với Carver, người ta cần nhiều thời gian hơn để “hồi phục” trước khi đọc sang một truyện khác.

Phù, lan man một hồi mới nói được đoạn muốn nói. Tạm thế đi, hôm khác lan man tiếp.
  

Thứ Tư, 1 tháng 6, 2011

Thích ai ai thích bây giờ thích ai

Hôm qua nhìn vào những cụm từ khóa tìm kiếm dẫn đến blog này, tôi thấy có cụm từ “những nhà văn yêu thích của LVT.”  Thật là quý hóa quá, bạn nào quan tâm đến độ muốn biết tôi thích đọc những ai. Cứ đà này tôi được The Paris Review phỏng vấn không chừng.  Trong mục phỏng vấn các nhà văn của The Paris Review, đây là câu hỏi hay được lặp lại dưới các hình thức khác nhau.  Nhân đây, tôi quảng cáo bài trích dịch phỏng vấn Calvino được Nhã Nam đăng lại ở đây. Thật ra, nếu đọc blog này thường xuyên thì cũng biết, vì tôi hay ba hoa mà, chứ còn tìm thế kia thì không ăn thua đâu. Nhưng để giúp bạn, tôi viết hẳn một entry cho bạn khỏi nhọc công kiếm tìm:)

Tôi thích Dostoyevsky. Với tôi, Dostoyevsky là nhà văn duy nhất viết từ thế kỷ mười chín mà nay đọc lại vẫn không thấy cũ, theo kiểu từ các giám khảo American Idol hay dùng là vẫn rất “current” và “relevant”. Nói như vậy không phải các tác giả thế kỷ mười chín khác kém hơn Dos, mà chẳng qua tôi không có sức đọc nổi tất cả. Kundera diễn giải luận điểm này trong một tiểu luận trong tập Bức màn hay Cuộc gặp gỡ gì đó.  Đại khái Kundera bảo ai đó chê tranh một danh họa xấu, thì ta chỉ cần đến một viện bảo tàng có bức tranh ấy thì ta có thể thấy ngay người kia chê không có căn cứ.  Tương tự với trường hợp âm nhạc, không mất quá nhiều thời gian để kiểm chứng. Trong khi đó, ông có thể thích Conrad và người khác có thể chê Conrad hết lời, đơn giản vì ông và người kia chỉ đọc một hoặc hai cuốn của Conrad và đấy là những cuốn khác nhau.  Ví dụ muốn so sánh Dos và Lev Tolstoy ai vĩ đại hơn thì phải mất hàng năm trời để đọc trước tác của hai ông, một điều gần như không thể với tuyệt đại đa số người yêu văn học.

Tôi nhắc đến Kundera. Tôi cũng thích Kundera, vì chất trí tuệ và hài hước của ông. Theo tôi hài hước là phẩm chất nổi trội của một nhà văn lớn. Tôi thích Kundera còn để ủng hộ bác blogger nhà bên cặm cụi dịch hết cuốn này đến cuốn kia của bác ấy.:)

Nói chung mỗi lần hỏi tôi có thể cho ra một danh sách khác nhau, nhưng bây giờ ngoài hai bác trên những cái tên sau đây vụt đến trong đầu tôi: Paul Auster, dĩ nhiên, chỉ cần một cuốn The New York Trilogy là đủ để yêu bác cả đời, cho dù những cuốn về sau này của bác chán lắm.  Nếu gặp bác tôi sẽ khuyên bác tạm nghỉ viết đi du lịch vài năm. Paul Auster là dạng nhà văn chỉ cần đọc một câu là có thể thích cả cuốn sách (dại dột chẳng kém vì yêu một má lúm đồng tiền hay một cái răng khểnh mà cưới, không phải cưỡi, nguyên một người phụ nữ), chẳng hạn câu đầu tiên trong The Brooklyn Follies: “Tôi đang tìm một nơi yên tĩnh để chết và người ta giới thiệu Brooklyn với tôi”. Hình như vậy, dịch theo trí nhớ.  Bạn nào đang mượn cuốn này của tôi trả mau! Murakami, tôi biết ở đây có mấy bác chê Murakami sến, tôi cũng công nhận bác ấy có sến nhưng tôi vẫn thích bác ấy vì tôi cũng sến. Văn Murakami chẳng khác một món nộm bắt mắt và ngon miệng, vừa có siêu thực, vừa có hậu hiện đại, thỉnh thoảng có con mèo biến mất và vài màn khẩu dâm rùng rợn, vừa thỏa mãn nhu cầu giải trí lại vừa cho ta cái cảm giác được làm trí thức. Văn thế mà không thích mới lạ.  Coetzee, tất nhiên, tôi thích cách viết hết sức gọn ghẽ và chính xác của  bác này, đặc biệt trong Disgrace Diary of a Bad Year, chứ không phải Giữa miền đất ấy trong đó "down to earth" được dịch thành "sụp xuống đất", và càng không phải Ruồng bỏ. Pamuk, một tất nhiên không được tất nhiên lắm, mấy tiểu thuyết của bác cuốn thì ảm đạm quá cuốn thì thế kỷ mười chín quá, nhưng Istanbul tuyệt và Other Colors càng tuyệt, hic.  Ai nữa nhỉ, Hesse, thật ra chỉ thích Goldmund Câu chuyện dòng sông. Vũ Trọng Phụng, vì trào phúng và luôn hiện đại. Nguyễn Huy Thiệp của những truyện ngắn thời ông chưa bắt đầu viết tiểu thuyết. Nguyễn Khải của Gặp gỡ cuối nămThời gian của người. Thuận của T mất tích và mấy chục trang trong Thang máy Sài Gòn. Đoàn Minh Phượng của Và khi tro bụi và phần nào của Mưa ở kiếp sau. Phạm Thị Hoài của Thiên sứ, Ám thị, Man Nương… Như thế cũng nhiều đấy chứ.

Đầy, nhưng như đã nói, nếu viết entry này cách đây một năm danh sách có thể khác, mà một năm sau càng khác hơn.  
  

Thứ Sáu, 7 tháng 5, 2010

Không lời A, K & M



A. Còn thiếu The New York Trilogy mẹ bạn Nemo chưa trả. Hy vọng chưa thành bỉm cho Nemo!




K. Còn thiếu Vô tri ơi hỡi Vô tri!


M. Một số tập truyện ngắn đã dịch ra tiếng Việt tôi chưa có, vì tôi ít khi đi mua truyện ngắn. Nhưng nếu có ai tặng tôi hứa không phiền lòng.:)

Thứ Hai, 23 tháng 11, 2009

Từ Ngầm đến Facebook

Điều tôi nhớ nhất khi đọc xong Ngầm của Murakami không phải là bất cứ thứ gì trong cuốn sách, mà là những khó khăn Murakami gặp phải khi thực hiện cuốn sách. Tất nhiên cuốn sách có một thông điệp – sách nào chẳng có một thông điệp, và cách cuốn sách được trình bày cũng lạ - cuốn sách là tập hợp các cuộc phỏng vấn các nạn nhân và những kẻ thực hiện vụ đầu độc hệ thống tàu điện ngầm ở Tokyo bằng chất độc sarin năm nào. Nhưng nhìn chung cuốn này của Murakami đoc không thích lắm, có thể vì những cuộc phỏng vấn có nhiều điểm tương tự nhau quá nên dễ gây nhàm chán. Có cảm giác chỉ cần đọc một phần ba những cuộc phỏng vấn trong đó là đủ. Thêm nữa thì quá nhiều. Chính vì vậy, tôi mới nói rằng cái làm tôi nhớ nhất về cuốn sách không phải là bản thân về cuốn sách mà là về tinh thần tuân thủ pháp luật của người Nhật và điều đó đã gây khó khăn như thế nào cho Murakami trong việc thực hiện cuốn sách.

Nhật Bản cũng như hầu hết các nước phát triển khác coi trọng sự riêng tư và họ luật hóa điều đó thông qua những đạo luật bảo vệ thông tin cá nhân. Luật này quy định những vấn đề như những loại thông tin nào được coi là thông tin cá nhân, trong trường hợp nào thì một tổ chức được phép thu thập thông tin cá nhân, khi thu thập thông tin cá nhân rồi thì phải bảo vệ và sử dụng những thông tin cá nhân đó như thế nào .v.v. Hầu hết các nước có luật bảo vệ thông tin cá nhân đều quy định hồ sơ bệnh nhân là một loại thông tin cá nhân được bảo vệ. Lý do vì sao? Thử tưởng tượng xem con trai bạn dị ứng với đậu phộng, kẻ thù của bạn biết được thông tin này và dùng đậu phộng để khống chế con bạn (cảnh này trong phim gì có Harrison Ford đóng, quên tên). Ví dụ khác bạn bị viêm dạ dày và thông tin đó bị website của bệnh viện công bố. Cô gái bạn đang định tán tỉnh tình cờ truy cập được thông tin đó. Vì sợ lây, cô ta nhất định không cho bạn hôn:) Có thể hình dùng việc lộ những thông tin y tế cá nhân như thế có thể gây thiệt hại cho bạn như thế nào.

Để thực hiện được các cuộc phỏng vấn đối với các nạn nhân của vụ đầu độc tàu điện ngầm, điều trước tiên Murakami cần làm dĩ nhiên là phải tìm ra được những nạn nhân đó. Họ ở đâu trong thành phố Tokyo rộng lớn? Họ không phải là người nổi tiếng như những nhân vật của bạn Cát Khuê để bạn có thể dễ dàng truy tìm họ thông qua các mối quan hệ. Họ là những người bình thường: một thư ký, một nhân viên bán hàng, một người soát vé .v.v. lẫn đâu đó trong ba mươi triệu dân Tokyo. Murakami chỉ có đầu mối duy nhất là danh sách nạn nhân đăng báo vào ngày xảy ra vụ đầu độc, nhưng khi tìm đến các bệnh viện nơi đã cứu chữa các bệnh nhân thì chẳng khác húc đầu vào đá. Hồ sơ về họ được các bệnh viện nhất mực giữ kín: họ tuân thủ luật pháp nghiêm nhặt.

Giả sử ở Việt Nam có một đạo luật tương tự và một chuyện tương tự xảy ra ở Việt Nam (giả định thôi, chứ ở ta không cần chất độc sarin người ta vẫn có thể chết dần chết mòn vì vô khối chất độc khác) và có một nhà văn/nhà báo muốn thực hiện những cuộc phỏng vấn tương tự như cách Murakami đã làm, hẳn là anh ta/cô ta sẽ không gặp những khó khăn tương tự. Có hai lý do chính: thứ nhất, việc thực thi luật ở ta bao giờ cũng là một thách thức lớn; thứ hai, ý thức về sự riêng tư người dân ở nước ta “khác” người dân ở những xã hội phát triển. Tại sao “khác” thì là chuyện khác, và là chuyện dài.

Cách đây vài hôm, có bạn (bạn nào thì tự biết là bạn nào nhỉ) tuyên bố trên Facebook rằng bạn có một nghìn mấy trăm bạn trên đó, vì ai muốn kết bạn, bạn cũng chấp nhận. Bạn nhiều thì cũng được thôi, nhưng nên cài lại chế độ riêng tư, ví dụ bạn thân thì được đọc thông tin nào, bạn mới quen thì được đọc thông tin nào. Tôi chứng minh cho bạn thấy rằng căn cứ vào thông tin của bạn để trên Facebook, tôi có thể dễ dàng lấy mật khẩu yahoo của bạn, mà trình độ IT của tôi phò phạch thôi, có phải ba đầu sáu tay gì!

Khuyến mãi thêm một số tips về bảo vệ mình trong thời đại số. Trình độ IT của bạn này chắc chắn ít phò phạch hơn tôi. Đằng nào bạn đấy cũng đã xong PhD về Computer Science!:)

Thứ Hai, 19 tháng 10, 2009

Ngăn ngắn

Cái truyện của Raymond Carver trong hai post trước là một truyện ngắn dài, chắc không phải ai cũng đủ kiên nhẫn để đọc hết. Cái này tôi ngẫm ra từ tôi: khi lướt web, cái nào dài quá tôi chỉ lướt qua, nếu thấy hay thì đánh dấu rồi quay lại đọc sau, cái nào ngắn mới đọc ngay một lúc. Truyện của Raymond Carver nhìn lướt qua thì chẳng có gì hay cả, vì cốt truyện đơn giản, thậm chí không cốt truyện. Biệt tài của ông là viết thật chính xác về những chi tiết bình thường, vặt vãnh, cái không nói nhiều hơn cái nói ra. Do đó, chỉ khi đọc chậm rãi, đọc kỹ, người ta mới thấy hết cái hay của Carver. Lần đầu đọc Carver, tôi cũng thấy chả có gì thú vị. Nhưng chỉ sau khi đọc kỹ, mới thấy ông thuộc dạng khủng. Haruki Murakami, nhà văn đang rất popular ở Việt Nam hiện nay, là người đã dịch rất nhiều tác phẩm của Carver sang tiếng Nhật, tự nhận chịu ảnh hưởng của Carver, và từng nói rằng Carver có khả năng biến người đọc ông trở thành nhà văn:) Điều này không có nghĩa cứ đọc Carver rồi bạn sẽ trở thành Carver hay ít ra là Murakami:)

Carver được coi là đại diện xuất sắc của trường phái tối giản, nhưng bản thân ông không ưa gì cái danh xưng đó. Trong đời văn của Carver, có một biên tập viên mà ông chịu ơn, cũng là người biên tập truyện của Carver một cách khốc liệt dã man, tàn bạo, có khi cắt hoặc sửa hơn 50% bản gốc của Carver. Ông này tên là Gordon Lish. Chữ tối giản có khi phải gán cho ông này.

Hôm nay viết ngắn thế này thôi. Ý định ban đầu của tôi khi viết entry này là để giới thiệu blog của một bác sĩ với những câu chuyện đau lòng trong ngành y tế, những câu chuyện mà là người Việt Nam chúng ta không lạ lùng gì, nhưng nghe người trong cuộc nói ra vẫn xót xa. Chỉ định giới thiệu blog thôi mà thế nào lại huyên thiên về Raymond Carver!

Btw, vừa đọc xong tập truyện ngắn Những mối tình nực cười của Kundera. Rất thích hai trong số bảy truyện, là Chơi trò xin đi nhờ xeEdouard và Chúa. Phần còn lại hoặc chỉ hơi hơi thích, hoặc có thể không nhận ra ý đồ của tác giả.


Thứ Sáu, 23 tháng 11, 2007

Bài của người khác về Murakami/ Giá vs Lương

*Chẳng biết bạn này là ai nhưng thấy bạn ấy có một cách nhìn hay hay về Murakami. Link đây cho các bạn tham khảo.

*Bài này cũng chẳng biết của ai về giá & lương sau khi xăng tăng lên 13.000đồng/lít.

LƯƠNG – GIÁ

Giá ơi thương ly lương cùng!

Tuy rng khác loi nhưng chung là tin.

Thương nhau lương giá đi lin

Ghét nhau lương giá hai min xa xôi.

Gió đưa cái giá v tri,

Cho lương li chu lời đắng cay.

Giá ơi ta bo giá này:

Giá lên nhanh quá có ngày…chết lương.

Nhiu điu ph ly giá gương

Đồng lương vt giá phi thương nhau cùng.

Người ta đi cy ly công,

Tôi nay đi cy còn trông nhiu b:

Trông cho vt giá…r r,

Lương tăng vùn vt là mê lm ri.

Bc thang lên hi ông tri

Giá lương như thế, dân thi sng sao?

Thứ Hai, 12 tháng 11, 2007

Một dự án dang dở

Chỉ vì Kafka. Chính xác là Kafka bên bờ biển. Tôi chắc rằng chỉ vài ngày nữa thôi, cái tên này sẽ làm xao động làng blog, như chim vặn dây cót đã từng. Đầu tiên là em gái Nhị Linh, với lợi thế mảnh mai của mình đã upperhand làm một chuyến ra đi và trở về khi dân tình hãy còn đang ngơ ngác. Rồi đến cô nàng Saigonese xuýt xoa con chim và mưa cá trên cái bìa. (Hiển nhiên đấy là một cái bìa ấn tượng). Rồi sẽ còn nhiều nhiều nữa, chắc chắn như thế. (Tôi đang nhớ đến bạn Linh, nhà Blog học lừng danh của thời đại chúng ta, cũng như anh 5xu, tên lưu manh xuất chúng của thời đại chúng ta.)

Nếu các bạn yêu quý còn nhớ, tôi đã và đang có một dự định lớn lao. Đó là nghiền bằng hết 7 cuốn truyện Việt Nam mà tôi mua vào một ngày chủ nhật đẹp trời cách đây chưa xa. Tôi đã đọc được ¾ cuốn Bóng đè, trọn cuốn Song song và chừng hai chục trang T mất tích thì thình lình bị quẳng vào tay một quả Kafka bên bờ biển.

Đỗ Hoàng Diệu và Bóng đè, bây giờ tôi mới chính thức đọc cô. Không hiểu vì sao xung quanh cô lại có quá nhiều tiếng ồn ào đến thế. Tôi không thấy văn cô “ghê rợn” như những gì người ta đồn đãi. Những tiếng đồn ấy có lẽ phần lớn chỉ căn vào bề mặt văn bản mà không nhận thấy hoặc cố tình lờ đi những ẩn dụ mà cô cất đi dưới những con chữ vặn vẹo. Vâng, tình thực tôi chỉ thấy cô hay vặn vẹo. Cái vặn vẹo người ta thường có những khi phải ngồi cả ngày trong văn phòng hoặc khi mông phải dán vào ghế trên những chuyến xe đò liên tỉnh. Nếu cô không vặn vẹo có khi chúng ta sẽ có một Đỗ Hoàng Diệu tươi tắn hơn và nhờ đó, ít tiếng thị phi hơn.

Vũ Đình Giang (trong Song song) thì không vặn vẹo, nhưng lại hơi cứng, và vì thế không thật sự đáng tin. Nếu so với một cuốn khác cùng đề tài nổi đình nổi đám của Bùi Anh Tấn (nổi vì đề tài, không phải vì chất lượng), rõ ràng Vũ Đình Giang có một cách tiếp cận giàu chất văn học hơn rất nhiều. Dẫu tôi nhận thấy một chút Kafka và kha khá Dos (Tội ác và trừng phạt) trong Song song, thì tôi cũng không thể không nhận thấy anh rất cố gắng vùng vẫy cho ra một thế giới của riêng mình. Tuy nhiên, anh có vẻ không tin lắm vào cách viết của mình, cho nên cái thế giới của anh cũng không rõ nét lắm.

Chỉ với 20 trang T mất tích đã đọc, tôi đã có cảm giác rằng tôi đang được tiếp cận với hàng Việt Nam chất lượng cao. Thì khốn thay, tôi bị quẳng vào tay một quả Kafka bên bờ biển. Kafka, Murakami, Dương Tường - chừng ấy cái tên cộng lại khiến tôi không thể không lật vài trang. Như một cái bẫy, cả ba đã cuốn tôi đi. Dưới sức nặng của cái chăn dày cộp và trong mùi mưa ẩm mục, tôi chìm vào thế giới của Murakami đến bây giờ vẫn chưa thoát ra được.

Khi chưa thoát ra được thế giới của Murakami, thì đọc tiếp bất kỳ ai cũng là một cực hình. Tôi nghĩ là tôi đã đối xử thật bất công với Thuận, và cả Vũ Phương Nghi nữa. Từ tối hôm qua đến hôm nay, tôi đã nâng lên hạ xuống bao nhiêu lần T mất tích và Chuyện lan man đầu thế kỷ. Vậy là cái dự án vĩ đại của tôi đành dang dở rồi. Ít nhất cho đến khi nào tôi trở về.