Cuộc đời thì ai cũng đọc sách, nhưng dường như có những người, chẳng hạn bác ở trong cái link này, hay bác Orthofer có khả năng đọc nhiều, và viết về sách nhiều, hơn hẳn phần đông nhân loại còn lại.
Tối qua uống bia, mới nhắc đến những người đọc sách nhiều, trong đó có bác Orthofer. Sáng nay thấy bác đi một đường review Cõi người rung chuông tận thế của Hồ Anh Thái. Chẳng mấy khi sách Việt Nam được dịch ra tiếng Tây, mà chẳng mấy khi Tây review sách ta. Thế là hào hứng đọc ngay. Bài đó đây:
http://www.complete-review.com/reviews/vietnam/hoanhthai.htm
Trích trong bài:
"It's a rough and tumble narrative -- pulling one along, but also occasionally frustrating in just how rough the presentation is. (It's unclear how much this has to do with Wayne Karlin's 'adaptation' of the material, and how much with Ho's original.) Compelling, in its own way, and fairly original, it's a bit too much of a mess, too. But certainly an intriguing read, and revealing about a time and place about which very little is available in English. "
Thứ Sáu, 28 tháng 9, 2012
Thứ Bảy, 22 tháng 9, 2012
The Gathering - Họp mặt
Tôi bắt gặp trong The
Gathering của Anne Enright (đã có bản
tiếng Việt là Họp mặt, Phạm Viêm
Phương và Huỳnh Kim Oanh dịch, Nhã Nam & NXB Văn học 2012) những dòng thuộc
loại khốc liệt nhất về tình dục. Khốc liệt, không phải vì nó trần trụi, mà vì
nó cho thấy, trong cái hành động ngỡ như mang hai con người lại gần nhau nhất,
người ta lại có thể ở xa nhau đến mức nào. Với The
Gathering, Enright khẳng định cái chân lý chưa bao giờ cũ: chiều sâu của
văn chương không phụ thuộc vào độ phức tạp của câu văn. Văn, có thể như văn của
Enright trong cuốn này, giản dị mà thẳm sâu; không màu mè, bày trò mà vẫn cuốn
hút; không cố tình triết lý mà vẫn làm người đọc bần thần.
Một đoạn trong The
Gathering:
“Tom had sex with me the night of the wake - as if Liam’s
death had blown all the cobwebs away: the fuss and the kids and the big, busy
job and the late nights spent strenuously not sleeping with other women. He was
getting back to the basics: telling me that he loved me, telling me that my
brother might be dead but that he was very much alive. Exercising his right. I
love my husband, but I lay there with
one leg on either side of his dancing, country-boy hips and I did not feel
alive. I felt like a chicken when it is
quartered.”
Thứ Năm, 20 tháng 9, 2012
Ngày hôm qua, sáng, trưa, chiều, tối
Sáng: Phi ra nhà sách Hà Nội, định mua ít cuốn ELƠIĐĐK gửi
cho các tình yêu xứ Bắc, nhưng chẳng còn cuốn nào. Chẳng hiểu sách bán quá chạy hay nhà sách nhập về quá ít. Dù sao, kết quả đã rõ, các tình yêu xứ Bắc hãy tiếp
tục đợi. The longer the wait the sweeter the love.
Về lại văn phòng, thấy một ông bạn ngồi ở quán café trước
tòa nhà. Làm ly café, được ông bạn của ông bạn hỏi đã giàu chưa. Đáp rằng,
chưa, mà chắc rằng không. Ông này bảo cần phải điều chỉnh, phải tập trung năng
lượng và sức lực vào việc kiếm tiền, cho những thứ linh tinh như viết blog, dịch
sách xuống thang. Suy nghĩ hết một ngày về ý kiến này.
Trưa: Ăn cơm với hai
bạn tre trẻ. Bạn trẻ hơn trong hai bạn bảo đọc RC không hiểu gì. Đúng là truyện
RC không hoàn toàn dễ đọc. Chắc cần có ít trải nghiệm mới đọc được. Có chồng,
có vợ rồi càng hay. Mà hay nhất ở chỗ cái tựa sách có thể thay lời muốn nói,
đóng góp rất tốt cho tình hình trật tự trị an khu phố, giúp nhận được cái bằng
Gia đình văn hóa về treo lủng liểng. Định viết một bài về chuyện đọc và dịch
RC, nhưng chưa có thời giờ. Phải tái phân bổ năng lượng một cách hợp ný.
Chiều: Về nhà, hai bạn Alpha và Pi đã về nhà trước. Ngồi ngắm
hai bạn một lúc trong lúc hai bạn xem ti vi. Tại sao mình có thể ngắm con không
biết chán? Rồi, hỏi vợ, Do you love my children? Vợ trả lời, Who ARE your
children? Đây là một đối thoại rất
Raymond Carver.
Tối: Dạy Pi đánh vần xong thì lăn ra giữa sàn nhà ngủ, đèn
đuốc sáng choang. Mười giờ rưỡi tỉnh dậy, đọc nốt Sông của Nguyễn Ngọc Tư. Người thích măm tiểu thuyết măm cuốn này thấy
thích. Sẽ có đôi lời về Sông sau. Đang trong quá trình tái phân bổ năng lượng.
Thứ Sáu, 14 tháng 9, 2012
Trả lại tên ông
Với người yêu văn chương, việc tập tùy bút Quê hương tôi của Võ Phiến dưới bút danh Tràng Thiên được phát hành chính thức nhưng lặng lẽ tại Việt Nam vừa là một niềm vui, vừa là nỗi xót xa. Hiện, nó chỉ gây được xôn xao trong một nhóm nhỏ người biết Tràng Thiên là ai, trong khi lẽ ra nó đáng được đón nhận tưng bừng hơn thế nhiều. Một tháng từ ngày phát hành, gần như không có bài điểm sách, giới thiệu sách nào. Mãi đến hôm qua Sài Gòn Tiếp Thị (một tờ mang danh tiếp thị mà lại lấn sân sang cả chính trị, xã hội, triết học, văn học nghệ thuật.v.v. - thật là không đúng đường lối lắm:) mới có bài của Nguyễn Vĩnh Nguyên làm cái việc trả lại tên cho nhà văn.
Đây là toàn bộ bài viết:
Đây là toàn bộ bài viết:
SGTT.VN - Vẫn biết tiểu sử là thứ không cần thiết với trường hợp văn chương này. Nhưng, xin cảm thông. Cũng như với bao bạn đọc "quốc nội" thuộc lứa hậu sinh, nhu cầu minh bạch tiểu sử tác giả một cuốn sách lắm khi là việc làm cần thiết để tránh nguy cơ người đọc trở thành nạn nhân của sự nguỵ tín, mù mờ và thành kiến, ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình tiếp nhận.
Cuốn sách đang được nói đến, là tập tuỳ bút Quê hương tôi, của Tràng Thiên (bản in của Nhã Nam & NXB Thời Đại, 2012).
Trong trang cánh bìa 1 cuốn sách trên có giới thiệu ngắn gọn về tác giả và tác phẩm:
"Tác giả tên thật là Đoàn Thế Nhơn, sinh ngày 20.10.1925 ở Bình Định. Nhà văn nổi tiếng ở miền Nam thời 1954 – 1975. Viết nhiều loại văn: tuỳ bút, truyện ngắn, tiểu thuyết, thơ, tiểu luận, phê bình, đàm thoại…
Quê hương tôi gồm tập Đất nước quê hương in năm 1973 và một số tuỳ bút khác cùng loại".
Từ "manh mối" trên, người đọc thiếu thông tin và hiểu biết về văn học đô thị Sài Gòn trước 1975 có thể có vài "từ khoá" để tìm ra thêm hai dữ liệu thú vị khác:
1/ Từ khoá "Đoàn Thế Nhơn" được Google trả lời rằng, là tên thật của một nhà văn rất quan trọng của văn học miền Nam giai đoạn 1954 –1975 – Võ Phiến. Ông sinh năm 1925, quê Bình Định.
2/ Cũng theo Google: Tràng Thiên là một trong những bút danh của Võ Phiến được ký trên tờ Bách Khoa. Về nguồn gốc của bút danh Tràng Thiên, nhà phê bình Nguyễn Hưng Quốc viết trong phần Vài ghi chú về tiểu sử, cuốn Võ Phiến (xuất bản tại California) như sau: "Trong lãnh vực hoạt động văn học, tại Sài Gòn, Võ Phiến cộng tác với các báo Sáng Tạo, Thế kỷ 20, Văn, Khởi Hành, Mai, Tân Văn… nhưng thường xuyên nhất là tờ Bách Khoa. Cùng với Vũ Hạnh và Nguyễn Hiến Lê, ông là một trong ba cộng tác viên nòng cốt của tờ tạp chí có tuổi thọ cao nhất miền Nam này. Trên Bách Khoa, Võ Phiến, ngoài phần sáng tác và biên khảo, còn đảm nhiệm luôn cả các mục điểm sách, thời sự văn học nghệ thuật; và thỉnh thoảng, phần dịch thuật dưới bút hiệu Tràng Thiên và Thu Thuỷ (Tràng Thiên, thoạt đầu là bút danh của Ban biên tập Bách Khoa, sau, từ khoảng 1964 –1965 giao hẳn cho Võ Phiến)".
Để vừa đảm bảo tính ngắn gọn, vừa bảo vệ cho những ghi chú trên được dễ dàng với mong muốn người đọc sẽ có ít nhiều tò mò nghiên cứu sâu hơn, phần tiểu sử tác giả Võ Phiến xin phép dừng ở đây, như một cách tự giới hạn đáng tiếc, để dành không gian cho tác phẩm.
Tập tuỳ bút Đất nước quê hương của Võ Phiến in năm 1973. Lúc đó, ông đang là giáo sư dạy môn văn chương ở đại học Phương Nam và đại học Hoà Hảo, và là một công chức văn hoá có điều kiện xê dịch, trải nghiệm nhiều vùng miền khác nhau trên đất nước. Cũng nói thêm, đây chỉ là một trong chín tập tuỳ bút rất xuất sắc của ông. Bên cạnh đó, ông có bảy tập truyện ngắn, bốn tiểu thuyết và hàng chục cuốn tiểu luận, tuỳ bút, nghiên cứu giá trị khác.
48 bài tuỳ bút trong Quê hương tôi là một cuộc kiếm tìm, phiêu diêu trong khí quyển văn hoá, lịch sử, đời sống con người, dân tộc Việt Nam và những vùng miền (Huế, Bình Định, Tây Nguyên, Hội An, Sài Gòn…) thông qua những thói ăn, cách nói, nếp ở, trang phục, văn chương truyền miệng…
Tràng Thiên – Võ Phiến dẫn người đọc đi từ câu chuyện độc đáo của chiếc áo dài Việt Nam gợi cảm, "linh động phơi phới" tôn nét đẹp tuyệt mỹ của thân người phụ nữ Việt Nam. Điều đáng nói là từ những năm đầu 70 của thế kỷ trước, ông đã tinh tế chỉ ra những cuộc "cải biên" áo dài chỉ là cái cớ bày tỏ tinh thần phá phách tự do nhất thời ồn ào của thanh niên, chứ không đáng lo ngại về sự "lâm nguy" của thứ trang phục độc đáo truyền thống (Chiếc áo dài, Lại chuyện áo dài).
Chuyện người Việt giỏi… chửi xem ra lại có căn nguyên rất "phân tâm học" – ông nhìn thấy cái tích cực trong sự thô bạo (mà đôi khi dưới lớp vỏ rất văn vẻ) của chửi lộn có một sự tự xoa dịu cân não, "không bốc đồng xé rào tiến tới hành động", tránh những "kết quả khốc hại". Nhưng "Chửi là phản ứng can đảm của kẻ yếu", với người Việt thì "chửi được trau dồi thành một nghệ thuật". Và "chửi hay" ở chỗ: "Cái chửi, nó như một cuộc chiến tranh trong đó đạn mã tử được bắn thả cửa, nhưng bắn nhịp nhàng theo điệu nhạc quân hành. Bắn không để giết người mà để xoa dịu cân não mình" (Chửi).
Ở Chửi tục và Không cười, ông chỉ ra hai tính cách của người Việt: "Từ cuộc sống hồn nhiên của dân gian đến cuộc sống có ý thức của triết nhân nghệ sĩ, chúng ta mỗi lúc một nén thêm tiếng cười và nén thêm dục tình. Nỗ lực văn hoá của chúng ta như là một nỗ lực kìm hãm, từ chối cái cười và cái tục" (Chửi tục)…
Cuốn sách được viết với văn phong dí dỏm, tinh tế và vốn tri thức uyên bác, những lập luận đầy sắc sảo, bất ngờ. Trong một cái nhìn, tâm tình cởi mở, tinh thần tự trào cao, người viết đi từ những vấn đề lớn lao như qua thói ăn nếp ở mà giải phẫu tính cách dân tộc được đưa ra "tán" như chuyện vãn buổi trà dư đầy thân thiện gần gũi, những chuyện nhỏ như cái vạt áo dài, ly chè Huế, cái bánh tráng Bình Định lại trở nên hết sức thú vị lớn lao không ngờ, bởi nó ôm mang quá nhiều nghĩa lý của tiến trình bồi tụ văn hoá, tính cách vùng miền. Và phải bản lĩnh văn hoá đến đâu thì người ta mới làm cái công việc khẽ chạm vào một từ trong câu ca dao quê nhà mà đủ sức dẫn người đọc đi xuyên qua bao lớp mù sương lịch sử!
Tràng Thiên, theo Google, là Võ Phiến Nhưng việc sách của Võ Phiến xuất hiện lần này vì lý do gì đó mà phải "né" dưới tên Tràng Thiên, ít nhiều làm cho những độc giả thạo và yêu văn chương của ông cảm thấy bị tổn thương. Biết sao được. Cứ học cái cởi mở độ lượng, tự trào mà đầy quyết liệt của ông trong nhìn nhận và lý giải đời sống, biết đâu, sẽ thấy vẫn có một chút tích cực: rằng, với sự hy sinh để thuận buồm xuôi gió này, sau ông, sẽ còn nhiều, rất nhiều những tên tuổi khác được trả về đúng vị trí của mình trong lịch sử văn học.
Dù tiểu sử hay lịch sử, lắm khi, với những nhà sáng tạo như Võ Phiến, là thứ rất… thứ yếu.
NGUYỄN VĨNH NGUYÊN (CHỌN)
(Đọc Tràng Thiên, Quê hương tôi, Nhã Nam & NXB Thời Đại, 2012)
Chủ Nhật, 9 tháng 9, 2012
Mùa thu nhẩm thơ
Mùa thu, một số người đi tu, một số người điểm hết sách trong thiên hạ, một số người đi câu cá nhưng nhân chẳng thấy con cá nào đớp động dưới chân bèo và cũng không thấy ai thì làm một số việc khoan khoái khác, còn một số người vừa đi trên đường vừa lẩm nhẩm đọc thơ. Thơ, mùa nào chả lẩm nhẩm được, nhưng trong cái mùa khí trời u uất hận chia ly và dường như trên không có những đám mây bay bàng bạc bay đi, người ta vừa dễ hoang mang cái sự khai giảng vừa dễ phóng xe trên phố miệng nhẩm toàn thơ - những thơ đã đọc từ một mùa thu năm nảo năm nào mà hầu như chắc chắn là chẳng phải đọc vào mùa thu - làm sao mà nhớ được ở cái tuổi lòng ai không hồi hộp ngồi trong rạp xiếc đợi màn lên người ta đọc cái gì vào mùa nào. Nhưng nhân mùa thu, cứ tạm cho là thế, nên thơ nhớ được toàn thơ dính líu đến thu.
Nhẩm rằng
Bên cửa ngừng kim thêu bức gấm
Hây hây thục nữ mắt như thuyền
Gió thu hoa cúc vàng lưng giậu
Sắc mạnh huy hoàng áo trạng nguyên
Chữ "huy hoàng" là chữ có chữ ký độc quyền của Xuân Diệu. Ông còn sử dụng chữ "huy hoàng" ở một bài khác:
Huy hoàng trăng rộng, nguy nga gió
Xanh biếc trời cao, bạc đất bằng.
Huy Cận có chữ "song song" cũng thuộc dạng chữ độc quyền như chữ "huy hoàng" của Xuân Diệu. Trong Tràng giang thì:
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
và trong một bài khác
Sầu thu lên vút song song
Với mây hiu quạnh, với lòng quạnh hiu
Nên sau này đọc một bài của Đỗ Hữu thấy có chữ "song song" không khỏi nhớ đến Huy Cận. (Thật ra đọc thơ Đỗ Hữu thì nhớ thêm cả Quang Dũng và Thâm Tâm nữa).
Những câu thơ thu đẹp nhất của Huy Cận là ở trong bài Thu rừng, đặc biệt mấy câu đầu:
Bỗng dưng buồn bã không gian
Mây bay lũng thấp giăng màn âm u
Nai cao gót lẫn trong mù...
Ấy là chuyện nhẩm thơ.
Còn giờ thì đố, trong đoạn mở đầu entry này bổn blog đã thuổng chữ của những tác giả nào?
Nhẩm rằng
Bên cửa ngừng kim thêu bức gấm
Hây hây thục nữ mắt như thuyền
Gió thu hoa cúc vàng lưng giậu
Sắc mạnh huy hoàng áo trạng nguyên
Chữ "huy hoàng" là chữ có chữ ký độc quyền của Xuân Diệu. Ông còn sử dụng chữ "huy hoàng" ở một bài khác:
Huy hoàng trăng rộng, nguy nga gió
Xanh biếc trời cao, bạc đất bằng.
Huy Cận có chữ "song song" cũng thuộc dạng chữ độc quyền như chữ "huy hoàng" của Xuân Diệu. Trong Tràng giang thì:
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
và trong một bài khác
Sầu thu lên vút song song
Với mây hiu quạnh, với lòng quạnh hiu
Nên sau này đọc một bài của Đỗ Hữu thấy có chữ "song song" không khỏi nhớ đến Huy Cận. (Thật ra đọc thơ Đỗ Hữu thì nhớ thêm cả Quang Dũng và Thâm Tâm nữa).
Những câu thơ thu đẹp nhất của Huy Cận là ở trong bài Thu rừng, đặc biệt mấy câu đầu:
Bỗng dưng buồn bã không gian
Mây bay lũng thấp giăng màn âm u
Nai cao gót lẫn trong mù...
Ấy là chuyện nhẩm thơ.
Còn giờ thì đố, trong đoạn mở đầu entry này bổn blog đã thuổng chữ của những tác giả nào?
Thứ Bảy, 8 tháng 9, 2012
Mùa thu đọc sách
Mùa thu, một số người câu cá, một số người tựa cửa nhìn xa, một số người đi làm cách mạng, còn một số người đọc sách. Sách, mùa nào đọc chẳng được, chả cứ mùa thu. Tuy nhiên, sau một mùa hè ngủ đông rất dài, có con gấu chợt tỉnh giấc, và thế là một loạt sách rất đáng bổ sung vào tủ sách ra lò hoặc sắp sửa ra lò vào mùa thu:
1. Quê hương tôi, tập tùy bút của Tràng Thiên tức Võ Phiến, nhà văn miền Nam trước 75 mà tôi thích nhất. So với tập Tùy bút I của NXB Văn Nghệ ở Mỹ mà tôi nhắc tới ở đây, bản in trong nước này chỉ thiếu phần Ly hương, tức những bài viết sau này ở Mỹ.
2. Hồi ký Phạm Cao Củng: tình thực thì tôi chưa đọc cuốn tiểu thuyết trinh thám nào của PCC cả, mà cũng không có ý định đọc, nhưng hồi ký của ông thì đọc ngay. PCC có kiểu kể chuyện hồn nhiên và thành thật. Đọc ông có cái thú như nghe người già kể chuyện đời xưa, mà người già ấy đã có một cuộc đời nhiềau đam mê và sôi nổi nên càng có lắm chuyện để kể. Cuốn này, đàn ông nên đọc hết cả cuốn; còn phụ nữ, nhất là phụ nữ có chồng, nên đọc chương về đời sống tình ái - nhiều bài học hay ra phết. :)
3. Hiệp sĩ không hiện hữu, của Italo Calvino - cuốn này, cùng với Nam tước trên cây và Tử tước chẻ đôi là bộ ba. Sáng nay ở NNTQ tập tạ tay mà lại quên cầm cuốn này về.
4. 1Q84 của Murakami.
5. TCHH của Umberto Eco, bản dịch mới, và The Lord of the Rings nghe đâu cũng sắp ra.
5. Dĩ nhiên là không thể nhắc tới cuốn trong hình dưới đây:)
1. Quê hương tôi, tập tùy bút của Tràng Thiên tức Võ Phiến, nhà văn miền Nam trước 75 mà tôi thích nhất. So với tập Tùy bút I của NXB Văn Nghệ ở Mỹ mà tôi nhắc tới ở đây, bản in trong nước này chỉ thiếu phần Ly hương, tức những bài viết sau này ở Mỹ.
2. Hồi ký Phạm Cao Củng: tình thực thì tôi chưa đọc cuốn tiểu thuyết trinh thám nào của PCC cả, mà cũng không có ý định đọc, nhưng hồi ký của ông thì đọc ngay. PCC có kiểu kể chuyện hồn nhiên và thành thật. Đọc ông có cái thú như nghe người già kể chuyện đời xưa, mà người già ấy đã có một cuộc đời nhiềau đam mê và sôi nổi nên càng có lắm chuyện để kể. Cuốn này, đàn ông nên đọc hết cả cuốn; còn phụ nữ, nhất là phụ nữ có chồng, nên đọc chương về đời sống tình ái - nhiều bài học hay ra phết. :)
3. Hiệp sĩ không hiện hữu, của Italo Calvino - cuốn này, cùng với Nam tước trên cây và Tử tước chẻ đôi là bộ ba. Sáng nay ở NNTQ tập tạ tay mà lại quên cầm cuốn này về.
4. 1Q84 của Murakami.
5. TCHH của Umberto Eco, bản dịch mới, và The Lord of the Rings nghe đâu cũng sắp ra.
5. Dĩ nhiên là không thể nhắc tới cuốn trong hình dưới đây:)
Thứ Năm, 6 tháng 9, 2012
Cái sự khai giảng
"Anh kia, sao đi khai giảng về mà mặt anh
chảy ra bí xị vậy hử? Đầu năm học mà tinh thần anh đã xuống thế à?".
"Mẹ ơi, mẹ không biết đâu, ngồi mãi ngoài sân nắng vỡ sọ, cô lại không cho
đi uống nước. Rồi cô hiệu trưởng đọc diễn văn, rồi cô hiệu phó đọc diễn văn, rồi
một bác lãnh đạo lên đọc diễn văn, rồi bố một bạn lên đọc diễn văn, rồi các thầy
cô lên múa hát, rồi có một anh học sinh cũ làm ảo thuật chán phèo. Rồi tụi con
nhìn các cô thả bóng bay, rồi chờ mẹ đón về". "Ô thế các anh không được
thả bóng bay à?". "Mẹ ơi, mẹ không biết gì cả. Toàn là các cô thả,
năm nào chả vậy".
Trên đây là status trên
FB của một bà mẹ có con đi học. Tôi nhảy vào bình luận, đây có thể là tứ cho một
truyện ngắn xuất sắc, kiểu truyện Raymond Carver:) Tít truyện có thể là Sao con không được thả bóng bay? Hay Tại sao các cô thả bóng bay?. Vầng, ai
đã đọc tập truyện mới nhất của Raymond Carver mới được phát hành ở Việt Nam, Em làm ơn im đi, được không? do bổn blog chuyển ngữ,thì có thể nhận ra đây
là phong cách đặt tít tiêu biểu của Carver: mang một câu trong truyện, đặc biệt
là câu hỏi, ra làm tít. :)
Cách đây ba năm, khi tôi
chưa có bạn nhỏ nào đi học, tôi có dịp dự lễ khai giảng một trường trung học ở
một quận TPHCM. Lần ấy tôi thay mặt công ty trao quà cho trường trong ngày khai
giảng. Từ hàng ghế khách, tôi có thể quan sát toàn cảnh buổi khai giảng, đặc biệt
thú vị là quan sát các bạn học sinh, ngồi ngay ngắn thành hàng, thả hồn lên
trời cao khi các thể loại diễn văn đang được đọc.
Có vài điều thú vị, cũng
có thể không thú vị lắm, có thể nhận ra ở mọi buổi khai giảng ở bất cứ trường
nào đó là ngày khai giảng là ngày của diễn văn. Nhìn vào mật độ diễn văn ở lễ
khai giảng, tưởng cũng nên ngạc nhiên tại sao ở nước ta, sính đọc diễn văn như
thế, mà hiếm khi có một diễn văn nào gây thu hút lớn lao đối với đông đảo quần
chúng, kiểu như diễn văn của bà Obama chẳng hạn? Một điều nữa là các trường phải đồng
phục, à nhầm, đồng loạt khai giảng vào ngày 5/9, khi hầu hết các trường đã
đi học từ hai ba tuần trước đó. Có nhất
thiết phải khai giảng vào cùng một ngày không? Và như vậy, có nên định nghĩa lại từ “khai giảng”
khi khai giảng không còn là ngày đầu tiên của năm học mới mà là ngày học sinh xếp
hàng trong sân trường và nghe đọc diễn văn (và không được thả bóng bay)?
Viết đến đây, thì lại đọc
được status của một bà mẹ khác.
“-Hôm
nay khai giảng ở trường em có vui không?
-Không vui lắm mẹ ạ.Con
bị phạt đấy, tất cả bọn con trai bị phạt-Sao thế?-Thì nhiều người
lên nói quá, bọn con đứng mỏi cả chân.Rồi lại còn đọc cái thư rât dài của ông
Dương Chí Khang hay Vương Văn Giang nào í, bọn con chả hiểu gì, thèm nói chuyện
quá, quay ra nói chuyện với nhau, thế là cả bọn bị phạt.”
Vầng, hoàn toàn có thể là
tứ cho một truyện ngắn xuất sắc khác. Lần này là truyện của Azit Nexin.
Thứ Ba, 4 tháng 9, 2012
Raymond Carver - Một tiểu sử văn chương (trích)
Những đoạn dưới đây trích trong bài Biographical Essay của giáo sư William L. Stull tóm tắt cuộc đời và sự nghiệp của Raymond Carver. Bài này nguyên bản tiếng Anh khoảng 8.500 từ, tôi dịch ra tiếng Việt khoảng 9.500 từ. Tôi dịch trọn bài này đã lâu, nay đọc lại thấy nhiều sai sót. Tuy nhiên, không có thời gian chỉnh sửa, nên tôi chỉ post lại ở đây một số đoạn trích nhằm cung cấp thêm thông tin cho những ai quan tâm đến nhà văn viết truyện ngắn của Mỹ được đánh giá là hay nhất từ sau Hemingway và được gọi là Chekhov của người Mỹ.
-------------
Trong cuộc sống, trong nghệ thuật và ngay cả trong cái chết, người có nhiều điểm tương đồng, người thầy và người đồng điệu với Raymond Carver là Anton Chekhov. Cũng như Chekhov (1860 - 1904), người đã phải ở đợ đến khi được ông của mình mua về, còn cha có một tiệm tạp hóa nhưng phá sản, Raymond Carver là con của một gia đình lao động nghèo. Cha ông, Clevie Raymond Carver, lái xe hỏa tuyến Arkansas – Washington trong thời kỳ hạn hán những năm 1930. Clevie Raymond Carver sau trở thành thợ giũa cưa trong một trại cưa và là một người nghiện rượu mất năm 53 tuổi. Vợ ông, Ella Casey Carver, người không xa lạ gì với nạn bạo hành gia đình, phụ giúp thu nhập gia đình bằng nghề hầu bàn và bán cửa hàng. Raymond Clevie Carver, tên thân mật là Junior, Frog và Doc sinh ngày 25 tháng 5 năm 1938 ở Clatskanie, Oregon, một thị trấn chuyên đốn gỗ khoảng bảy trăm dân bên bờ sông Columbia. Cả gia đình quay lại Washington năm 1941, và Carver lớn lên ở Yakima, thành phố trung tâm với hai mươi ngàn dân của “Vựa trái cây quốc gia ”, thung lũng trù phú phía đông Cascades.
Carver là đứa con muộn màng của thời kỳ Đại suy thoái, nên khá lâu sau thời kỳ thịnh vượng hậu chiến nhà ông vẫn chưa có toa-lét trong nhà. Bài thơ Shiftless (1986) của ông mô tả điều kiện kinh tế thời thơ ấu của ông: “Những người giàu hơn chúng tôi thì thoải mái... – Những người nghèo hơn chúng tôi thì thảm hại và chẳng làm gì”. Giống như Chekhov, Carver hiểu rõ cuộc sống bấp bênh cực nhọc và nghèo khó nhờ đó ông viết nên những thiên truyện rạng rỡ về sự thấu cảm, hiểm nguy và sự chật vật khẳng định. Nhiều năm sau ông nói về những người lao động và người phục vụ quê kệch vốn làm nên lớp công chúng ngầm của ông: “Họ là nhân vật của tôi. Không bao giờ tôi có thể coi thường họ được.”
[......]
Chekhov hẳn là chia sẻ [với Carver]. Mười chín tuổi ông chuyển từ tỉnh lẻ Taganrog lên Moscow và gánh vác cái gia đình nghèo túng của mình. Mặc dù là sinh viên y khoa chính quy, “Papa Antosha” vẫn kiếm đủ tiền nhờ vào việc viết những hài kịch ngắn cho những tuần báo phổ thông. Trong thư đề ngày 10 tháng 5 năm 1986, ông đề ra những hướng dẫn cho cái mà các nhà phê bình bảo thủ một thể kỷ sau gọi là truyện mini: “(1) không nhiều lời về chính trị - kinh tế - xã hội”; (2) khách quan xuyên suốt; (3) mô tả nhân vật và sự vật một cách chân thật; (4) cực ngắn; (5) táo bạo và tránh khuôn sáo ; (6) nhiệt thành.” Làm việc dưới những điều kiện tương tự với “trách nhiệm gắn chặt và thường xuyên bị phân tán”, Carver tìm thấy ở Chekhov sự tương hợp về châm ngôn làm việc, và trong những năm 1960 và 1970 ông tái sáng tạo ra truyện ngắn theo phong cách Chekhov. Trong quá trình này ông đã đặt nền tảng cho sự hồi sinh của chủ nghĩa hiện thực trong những năm 1980. Không lâu sau khi Carver qua đời, tiểu thuyết gia Douglas Uner nhận định: “Về mặt văn chương, truyện của Carver hiện hữu như một hình mẫu cho sự phục sinh của truyện ngắn”.
Ít ai sẽ phản đối nhận định của Carver về Chekhov rằng “Chekhov là nhà văn viết truyện ngắn vĩ đại nhất trong lịch sử”. Cũng không ai nghi ngờ đánh giá của Charles May đưa ra trong tác phẩm A Chekhov Companion (1985) rằng Raymond Carver là nhà văn đương đại mang chất Chekhov nhiều nhất. Với tư cách là nghệ sĩ và tư cách con người, cuộc sống cả hai có nhiều nét tương đồng. Bi kịch là sự tương đồng ấy hội tụ trong năm 1988 khi Carver theo chân Chekhov sớm vướng vào căn bệnh tiêu biểu của thời đại mình. Trong trường hợp của Chekhov căn bệnh đó là lao phổi, khiến ông qua đời ở tuổi bốn mươi bốn. Trong trường hợp của Carver đó là chứng ung thư phổi. Nhà văn từng tự mô tả mình là “điếu thuốc có thân người đính kèm” mất vào ngày 2 tháng 8, hai tháng sau sinh nhật thứ năm mươi. Hai năm trước đó tiểu thuyết gia Robert Stone đã gọi Carver “nhà văn Mỹ viết truyện ngắn xuất sắc nhất kể từ Hemingway”. Phát biểu tại lễ tang của Carver ngày 22 tháng 9 ở New York City, ông còn ca tụng Carver hơn thế nữa. Mượn lời từ chính một bài tiểu luận của mình về Chekhov, Stone gọi Carver là “người hùng nhận thức”.
[...]
Sinh nhật thứ năm mươi của Carver đến thật nhanh, trong tháng năm ông nhận được môt số danh hiệu. Những vinh dự này gồm một bài ca ngợi về nghệ thuật sáng tạo của Đại học Brandeis, bằng tiến sĩ văn chương danh dự của Đại học Hartford, và được kết nạp vào Viện Hàn Lâm Nghệ Thuật và Văn Chương Hoa Kỳ. Cũng trong tháng năm, Where I’m Calling From (Từ Nơi Mình Đang Gọi), tuyển tập những truyện mới của ông được Atlantic Monthly Press xuất bản. (Tập Elephant - Voi gồm bảy truyện mới nhất của ông ngay sau đó được xuất bản ở Anh ngày 4 tháng 7). Where I’m Calling From nhận được sự chú ý nồng nhiệt từ bờ Đông sang bờ Tây, bao gồm việc lên trang nhất của tạp chí New York Times Book Review. Quan trọng hơn, sự nhìn lại quá trình sáng tác này đã khiến các nhà phê bình đánh giá lại sự nghiệp và tiếng tăm của Carver. Mặc dù được thừa nhận rộng rãi là “một trong những cây bút truyện ngắn xuất sắc nhất của thời đại chúng ta”, ông bị dán cái nhãn “người theo chủ nghĩa tối giản”, một nhãn hiệu phiến diện không đúng với tinh thần tác phẩm của ông. Where I’m Calling From, gồm ba mươi bảy truyện viết trong vòng hai mươi lăm năm, cho thấy cái được gọi là chủ nghĩa tối giản của Carver là không đúng. David Lipsky viết trên tờ National Review (số ngày 5/8/1988) “Carver không phải là người theo chủ nghĩa tối giản mà là người theo chủ nghĩa chính xác”. Các nhà điểm sách trên Washington Post, San Francisco Chronicle và Phụ Trương Văn của tạp chí Times cũng đồng tình. Trên Houston Chronicle số ra ngày 19/6/1988, Roger K. Anderson nhận xét: “Rõ ràng Carver là một bậc thầy. Nhưng giờ đây một tinh thần phóng khoáng mới là cái không thể nhầm lẫn. Đạt được đến mức này có lẽ là đỉnh cao sự nghiệp của ông – một mức độ mới của sự tĩnh lặng.”
[...]
Carver là con một người thợ thủ công, và văn chương của ông phát triển theo những giai đoạn của việc đào tạo một thợ thủ công. Sau khi chuyển gia đình từ Yakima đến Paradise, California, năm 1958, ông ghi danh học trường Chico State College. Ở đó, ông bắt đầu học viết với một người chẳng bao lâu sau sẽ nổi tiếng đó là John Gardner, “nhà văn thật sự” đầu tiên mà ông từng gặp. Trong lời mở đầu cho cuốn On Becoming a Novelist (Về Việc Trở Thành Tiểu Thuyết Gia) của John Gardner, Carver nhớ lại: “Anh đưa cho tôi chìa khóa vào văn phòng của anh. Bây giờ tôi coi món quà đó là một bước ngoặt! Thêm vào đó, Gardner phê bình học trò của mình “sát rạt, từng dòng một”, và dạy cho ông một hệ giá trị “không thể thương lượng được”. Trong số những giá trị này, giá trị về niềm tin là cái mà Carver theo cho đến lúc mất. Cũng như Gardner trong tác phẩm On Moral Fiction (Về Tiểu Thuyết Luân Lý -1978) đã chỉ trích tính “hư vô chủ nghĩa” của chủ nghĩa hình thức hậu hiện đại, Carver cho rằng văn chương vĩ đại là phải kết nối với cuộc sống, khẳng định cuộc sống và thay đổi cuộc sống. Ông viết “trong những truyện hay nhất, nhân vật trung tâm, người hùng cũng là nhân vật “chuyển dịch”, là người mà một điều gì đó xảy ra với anh ta trong truyện làm nên một thay đổi. Một điều gì đó diễn ra và làm thay đổi cái cách nhân vật nhìn chính mình và thế giới”. Từ những năm 1960 đến 1970, ông khuấy động chiều rộng của “ngôi nhà vui” siêu tiểu thuyết do Barth, Barthelme va những người cùng chí hướng dựng nên, thay vì tập trung vào cái mà ông gọi là “những yếu tố căn bản của cách kể chuyện kiểu cũ: cốt truyện, nhân vật, và hành động”. Cũng như Gardner và Chekhov, Carver tự gọi mình là một nhà nhân văn học. Ông khẳng định: “ Nghệ thuật không có nghĩa là tự thể hiện, mà là sự giao tiếp”.
Đầu tiên dưới sự hướng dẫn của Gardner rồi sau đó là Giáo sư Richard C. Day của Humboldt State College, Carver bắt đầu viết truyện. Những truyện đầu tiên, sau này được sửa chữa và đưa vào tập Will You Please Be Quiet Please (Em làm ơn im đi, được không? - 1976) và Furious Seasons and Other Stories (Những mùa dữ dội và những truyện khác - 1977) cho thấy ông đang tìm kiếm giọng điệu của mình dưới ảnh hưởng của những nhà văn đi trước. Truyện xuất bản đầu tiên của ông, Furious Seasons (Những Mùa Dữ Dội - Tuyển, Mùa Đông 1960-1961) là một thử nghiệm kéo dài tính đa thanh của Faulkner. Truyện kế tiếp, The Father (Người Cha – tạp chí Toyon, mùa xuân 1961) một dạng truyện tiết chế kiểu Kafka chưa tới 500 từ. Cũng như các nhà văn khác thuộc thế hệ mình, Carver bị cuốn vào quỹ đạo của Hemingway. Năm 1963, năm ông tốt nghiệp trường Humboldt State, do dự giữa tôn kính và nổi loạn, ông cho đăng cả hai truyện, một truyện bắt chước Hemingway, Pastoral (Truyện Đồng Quê - Western Humanities Review, Mùa đông 1963) và một truyện giễu nhại giải cấu trúc The Aficionados (Toyon, Mùa xuân 1963)
[...]
Carver tìm thấy nhịp điệu của mình. Như Michael Koepf viết năm 1981, “Có một sự trong sáng kiểu Chekhov trong truyện của Carver nhưng cũng có cảm quan kiểu Kafka rằng có gì đó sai lầm kinh khủng đằng sau hậu trường”. Tuy vậy, trong những năm 1960, Carver thực hành những cách thức và phong cách khác. Năm 1963 - 1964 ông học một năm tại Trại viết văn Iowa. (Do thiếu tiền ông đã không thể học năm thứ hai để xong bằng MFA). Năm 1966 ông đăng trên tạp chí December một truyện dài theo phong cách của James Will You Please Be Quiet, Please mà Martha Foley đưa vào trong Những Truyện Ngắn Hay Nhất Hoa Kỳ 1967. Ông thử sức với phong cách văn chương cổ điển (Poseidon and Company – Thần Poseidon và bạn bè, tạp chí Toyon, mùa xuân 1963) và huyễn tưởng (Bright Red Apples - Táo Đỏ Tươi, tạp chí Gato, mùa hè 1967). Ông thử nghiệm phong cách người trần thuật không đáng tin cậy, ngôi thứ nhất kể lại theo phong cách của Sherwood Anderson và khuynh hướng khu vực của Hemingway.
[....]
Chắc chắn rằng đỉnh cao của những năm tháng của con người thạo việc Carver phải là Will You Please Be Quiet, Please? Xuất bản tháng 3 năm 1976 dưới dấu ấn mới của Gordon Lish, tập truyện gồm hai mươi hai truyện nhằm mục đích giới thiệu môt nhà văn “có tầm ảnh hưởng đang tăng” với công chúng. Tập truyện thành công một cách đáng ngưỡng mộ, mang lại cho Carver đề cử National Book Award (Giải thưởng sách quốc gia) năm 1977, cùng năm, tập truyện thứ hai của ông Furious Seasons được nhà xuất bản Capra ấn hành. Nhưng sự thật là cuộc đời bí mật của chính tác giả đã đưa sự nghiệp của ông đến một điểm lặng. Sống tách rời khỏi vợ con, Carver bốn lần phải nằm viện vì nghiện rượu trong thời gian 1976-1977. “Tôi chết dần vì nghiện rượu, tẻ nhạt và đơn giản”, về sau ông nói, “tôi không phóng đại đâu”.
[...]
Tuy nhiên nhìn lại, tập truyện được biết đến nhiều nhất của Raymond Carver thật ra lại là cuốn sách kém tiêu biểu nhất của ông. Với ông, “chủ nghĩa tối giản” thiết yếu của tập What We Talk About When We Talk About Love đánh dấu không phải là một đích đến mà là một bước ngoặt. Sau này ông nói: “Chỉ cần tiến thêm một chút nữa theo hướng ấy là tôi sẽ bế tắc.” Những gì diễn ra trong hai năm sau đó là một khúc quanh nghệ thuật, “một khởi đầu” mà qua đó ông phục hồi và mở rộng những tác phẩm mà ông đã tỉa gọt dưới ảnh hưởng của biên tập viên Lish, “lý thuyết về cắt bỏ” của Hemingway và hứng thú thanh tẩy của chính ông. Hai tập sách nhỏ, Fires và If It Please You thể hiện kết quả của quá trình này. Thêm vào đó, Carver viết hơn chục truyện mới theo một giọng điệu cao hơn, nhiều hy vọng hơn. Truyện đầu trong số này, Cathedral (tạp chí Atlantic Monthly, tháng 9/1981), ông cho là “hoàn toàn khác về quan niệm và phương cách thực hiện so với” những tác phẩm trước của ông
[...]
Cathedral mang lại cho ông đề cử giải Pulizer và Giải của các nhà phê bình sách toàn quốc. Quan trọng hơn, nó đánh dấu sự trưởng thành của ông từ trường học của Godon Lish. Như Jonathan Yardley viết trên Washington Post (4/9/1983): "Những truyện trong Cathedral đã cho thấy rõ rằng Carver đã từ bỏ phong cách tối giản để sang một phong thái rộng mở hơn, bao hàm hơn và rộng lượng hơn." Mặc dù các nhà điểm sách kém sắc sảo hơn mất nhiều năm sau để ghi nhận sự thật này, những ngày thạo việc của Carver đã qua, cũng như khúc đệm xét lại của ông. Với Cathedral, ông tuyên bố sự độc lập của mình với tư cách một bậc thầy. Trong 5 năm còn lại của mình, ảnh hưởng bên ngoài duy nhất đối với tác phẩm của ông là Gallagher và Chekhov.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)