Đầu tiên phải cảm ơn bạn nào đã mách cho tôi bộ Nguyên Ngọc tác phẩm. Lúc trước tôi chỉ bị đọc Đất nước đứng lên và Rừng Xà nu, ngoài ra có đọc Rẻo cao vì tình cờ trong nhà có cuốn ấy. Ngoài ra, chỉ đọc các bản dịch của bác - thường rất mướt và rất mạch lạc. Trong số những người dịch Kundera ở Việt Nam chắc Nguyên Ngọc là người dịch hay nhất:)
Báo và tiểu luận của ông trước đây tôi chỉ đọc rải rác, nên không thật sự chú ý lắm. Đọc bộ tác phẩm này tôi mới biết Nguyên Ngọc viết nhiều và rộng về các đề tài văn học, văn hóa, nghệ thuật xã hội. Và viết rất hấp dẫn. Có nhiều người viết ý tưởng độc đáo, nhưng đọc chán [như con gián]. Còn các bài viết của Nguyên Ngọc không phải lúc nào ý tưởng cũng độc nhưng lúc nào đọc cũng thú [như con tu hú] do cách trình bày rõ ràng, cuốn hút (làm tôi nhớ một người khác, viết sử kinh tế nhưng rất cuốn hút, đó là Đặng Phong). Tôi thích những bài ông viết về văn hóa (như bài Quảng Nam trên hành trình dân tộc), giáo dục, dịch thuật, văn học nói chung và tiểu thuyết nói riêng. Hẳn Nguyên Ngọc rất quan tâm đến tiểu thuyết nên mới dịch Nghệ thuật tiểu thuyết của Kundera và viết tương đối nhiều về tiểu thuyết.
Tuy vậy, bộ sách này dường như chỉ là tập hợp tác phẩm của ông mà không được biên tập một cách thích đáng. Chẳng hạn, một số bài viết người đọc cần biết thời điểm ra đời của nó mới hiểu tại sao vấn đề trong bài được nêu ra, nhưng lại không thấy ghi viết khi nào, đăng lần đầu tiên ở đâu, v.v.. Đặc biệt, có một nhầm lẫn của Nguyên Ngọc, mà lẽ ra phải được nhìn thấy và sửa, vì nó liên quan đến hai bài được xếp khá gần nhau trong tập 2. Ta biết Nguyên Ngọc dịch cả Kundera lẫn Roland Barthes, nên không lạ khi ông hay trích dẫn hai ông này, và cũng không lạ khi ông lẫn giữa hai ông này. Ở bài "Đôi điều về chuyện dịch" (trang 330), ông dẫn Roland Barthes: "tiểu thuyết là một kiểu hình chiếu phẳng của một thế giới cong và nối liền". Liền sau đó, bài "Suy nghĩ nhân đọc thơ dịch của Khương Hữu Dụng", ông lại dẫn y chang câu đó, nhưng lần này người nói là Milan Kundera!
Tóm lại, Kundera hay Barthes, ai nói, giơ tay lên!
Còn theo kiểu Sát thủ đầu mưng mủ thì ta có thể đặt ra thành ngữ mới: Lẩm cẩm như...Nguyên Ngọc tác phẩm.:)
Thứ Bảy, 29 tháng 10, 2011
Thứ Năm, 27 tháng 10, 2011
Chênh vênh trên mép vực
Trong thời đại của nữ quyền, có lẽ tôi không nên và không được nói rằng Nhã Thuyên là một người làm thơ nữ, mà chỉ là một người làm thơ. Nhưng, vì là đàn ông, có lẽ thế, tôi không thể tránh khỏi nhìn ngược về lịch sử để xem có bao giờ một người làm thơ nữ nào ở Việt Nam truy tầm ngôn ngữ quyết liệt riết róng đến thế, đau đáu với chữ đến thế, và nhất là nghĩ nhiều đến thế, nhất thời tôi không nhớ ra (không dám nói là không có.)
Trong lúc đọc Rìa vực, tập thơ mới nhất của Nhã Thuyên (NXB Giấy Vụn 2011), tôi luôn tự hỏi cái gì khiến tập thơ mỏng manh này lại tiềm tàng nhiều hiểm nguy như vậy. Tự hỏi rồi tự trả lời: vì chất chứa nhiều suy nghĩ quá. Với những bài như “24 nảy”, “Trôi trong xứ mặt trời”, tên bài thơ đã báo hiệu bất ổn đã đành, ngay cả trong những bài thơ anh anh em em, ta cũng không được bình an: Vừa mới “Em chiêm bao gương mặt anh, anh đứng đó, im lặng như một trò chơi không bao giờ kết thúc…. Em chiêm bao lời anh, những lời lặp lại, những lời hôn mãi vành tai áp vào cỏ lẩy bẩy xanh trong tiếng sấm ràm rạp” hãy còn rất mực hiền lành thì ngay sau đã miên man như lên đồng “Em chiêm bao cơ thể anh, cơ thể đã ôm siết em, em chiêm bao cơ thể anh, em chiêm bao cơ thể anh, chiêm bao cơ thể anh” để rồi “Chúng ta im lặng mãi như một trò chơi không bao giờ kết thúc trong giấc ngủ đã cũ lời anh chỉ còn là tiếng thở khô và lạnh của khuôn ngực nơi quả tim đã bị thời gian và bàn tay hoen ố móc rỗng” (bài “Hiện hữu anh”) - những “khô”, “lạnh”, “móc rỗng” kia khiến ta không khỏi rùng mình. Còn mùa thu, mùa truyền thống của mơ mộng, mùa dễ say người vì những cảm xúc có độ tuổi nghìn năm, thì trong thơ Nhã Thuyên đã thành như thế này: “im! đừng nhìn chiếc lá- nó đang cần hấp hối một mình. sao giết được nỗi khuya khoắt nhớ nhung? mùa thu, trời quá rộng: cành cây thốt tên nhau gió úp mặt dưới lá kinh hoàng. không hiểu đã làm gì tiêu rụi những những xanh.” Thôi, thế là tàn đời một mùa thu!
Rìa vực có rất nhiều thơ về thơ, thơ về viết, thơ về ngôn ngữ. Nhiều đến mức gần như đậm đặc. Gần như bài nào cũng có thể trích ra được những câu, những chữ , trực tiếp hoặc gián tiếp, Nhã Thuyên suy tư về đề tài này. Dù không nên trích ra quá nhiều nhưng không thể không nhặt ra những câu như “thơ/đi đến cùng/nhưng đi đâu” (bài “Tiếng nói”), hay “Tôi là Thơ. Một sự đi không mong đến” (bài “Trôi trong xứ mặt trời”), hay “Mãi không đi hết miệng chén tôi trong xứ Chén/ Muốn viết? Phải bất chấp cả lố bịch. Sẵn sàng nhập vai con rối mặt hề/ Tôi truy tôi. Tôi ruổi ngày đang bỏ chạy” (bài “24 nảy”) để thấy Nhã Thuyên nặng lòng với thơ, với chữ như thế nào.
Thơ, vốn chẳng bao giờ quá nhiều độc giả. Trong số không quá nhiều độc giả ấy tôi ngờ rằng cũng không nhiều người sẵn lòng lao qua cái hàng- rào- an-toàn- chữ Nhã Thuyên dựng lên chỉ để mon men trên rìa vực; tuy nhiên, nếu chấp nhận phiêu lưu với Nhã Thuyên, ta sẽ thấy chênh vênh rìa vực là một cảm giác không phải không thú vị, và nhất là nếu chẳng may trượt chân rơi xuống vực thì ta cũng biết rằng : “ở đáy vực có thể còn thơ dành cho kẻ cần đến, giác mút thơ hút chặt không cho ta trượt ngã và bật khỏi vòng xoáy tít của trò chơi lộn nhào” (bài “Trôi trong xứ mặt trời”).
Thứ Ba, 25 tháng 10, 2011
Muôn thu ngơ ngác đứng bên đời..
Hai bài thơ của Joseph Huỳnh Văn trích trong tập Thơ Joseph Huỳnh Văn (Giấy Vụn 2011). Câu thơ trên, Muôn thu ngơ ngác đứng bên đời, có lẽ tiêu biểu cho giọng thơ của Joseph Huỳnh Văn trong tập này.
Vô Đề 1
Trời xanh ngập ngừng như muốn nói
Ngàn năm ấp úng dáng mây trôi
Lòng tôi e có chi muốn hỏi
Muôn thu ngơ ngác đứng bên đời...
Tôi Ngồi Rất Vắng Bóng Tôi
Tôi ngồi nhuộm máu sân liêu
vì em trầm tụng kinh chiều khóc tôi
tôi ngồi đắm đuối không thôi
vì em thắp nến chờ tôi hiện về
tôi ngồi đâu?
tỉnh hay mê?
Chao ôi, ai cột tóc thề trong mưa
tôi ngồi xế bóng thu xưa
vì em liều với nắng mưa theo người
Tôi ngồi, đợi tóc xanh tươi
sáng rất hiu hắt, ai
cười hắt hiu...
tôi ngồi rất vắng bóng tôi
-------------
Ké một "bài thơ" của bạn Pi làm nhân dịp Pi đòi mở máy lạnh còn Alpha đòi mở quạt: "Máy lạnh là bạn của con, còn quạt là bạn của Alpha, còn ai là bạn của ba?"
Chủ Nhật, 23 tháng 10, 2011
Cả nể
Đã thành lệ, chiều thứ bảy và chiều chủ nhật là khoảng thời gian most productive của tôi. Tóm lại thì tôi có hai ngày nghỉ cuối tuần, trong hai ngày đó buổi sáng là thời gian dành cho ba cái đuôi, buổi chiều tống ba cái đuôi đi ngủ thì tôi có thời gian yên ổn mà làm việc của mình. Có một project mà tôi làm thêm cả năm nay (ngoài công việc chính) dần sắp đến đoạn kết - project này lấy của tôi khá nhiều thời gian và sức lực đấy là chưa kể tăng thời gian sử dụng máy tính dẫn đến hỏng hóc một số cái trên người. Xong project này tôi phải nghỉ xả hơi một thời gian.
Trong thời gian làm project kia, tôi lại còn cả nể mà làm thêm vài thứ khác. Cả nể cho nên sự dở dang/ Nỗi niềm chàng có biết chăng chàng/ Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc/ Phận liễu sao đà nẩy nét ngang. May tôi không là phận liễu nên không nảy cái nét ngang nào, nhưng, chẳng hạn như chiều nay có một cuộc nhậu vỉa hè hoành tráng, thì trước khi đi tôi phải cố cho xong một cái deadline nho nhỏ.
Chẳng phải tình cờ mà tôi nghĩ đến thơ Hồ Xuân Hương. Nhân là sáng nay đi tìm truyện "Tội ác và trừng phạt" của Nguyễn Huy Thiệp cho bác TV, tôi lôi NHT ra đọc lại. Vì không nhiều thời gian nên vừa hò hẹn với Ms Quế Chi (WC) tôi vừa đọc, hò hẹn xong cũng vừa đọc xong Chút thoáng Xuân Hương - truyện thứ nhất. Xong bất giác cười tủm tỉm. Xuân Hương trong truyện thứ nhất này không hề xuất hiện; người đọc chỉ biết đến nàng thông qua ấm nước vối nàng sửa soạn, hình ảnh một cái bàn thờ được dọn sạch sẽ và một mâm bánh trôi. Người không ra mặt nhưng bóng dáng luôn phảng phất quanh nhà - đích thị là "chút thoáng." Quả nhiên tài tình. "Trong cõi nhân gian này, tất cả mọi sự nghiêm chỉnh cũng là khôi hài, nên có cơ hội cần phải cười ngay, thế nhưng không hiểu tại sao ông không cười được." Đây là câu NHT viết về Tổng Cóc. Hóa ra tôi không phải là Xuân Hương mà là Tổng Cóc!
Trong thời gian làm project kia, tôi lại còn cả nể mà làm thêm vài thứ khác. Cả nể cho nên sự dở dang/ Nỗi niềm chàng có biết chăng chàng/ Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc/ Phận liễu sao đà nẩy nét ngang. May tôi không là phận liễu nên không nảy cái nét ngang nào, nhưng, chẳng hạn như chiều nay có một cuộc nhậu vỉa hè hoành tráng, thì trước khi đi tôi phải cố cho xong một cái deadline nho nhỏ.
Chẳng phải tình cờ mà tôi nghĩ đến thơ Hồ Xuân Hương. Nhân là sáng nay đi tìm truyện "Tội ác và trừng phạt" của Nguyễn Huy Thiệp cho bác TV, tôi lôi NHT ra đọc lại. Vì không nhiều thời gian nên vừa hò hẹn với Ms Quế Chi (WC) tôi vừa đọc, hò hẹn xong cũng vừa đọc xong Chút thoáng Xuân Hương - truyện thứ nhất. Xong bất giác cười tủm tỉm. Xuân Hương trong truyện thứ nhất này không hề xuất hiện; người đọc chỉ biết đến nàng thông qua ấm nước vối nàng sửa soạn, hình ảnh một cái bàn thờ được dọn sạch sẽ và một mâm bánh trôi. Người không ra mặt nhưng bóng dáng luôn phảng phất quanh nhà - đích thị là "chút thoáng." Quả nhiên tài tình. "Trong cõi nhân gian này, tất cả mọi sự nghiêm chỉnh cũng là khôi hài, nên có cơ hội cần phải cười ngay, thế nhưng không hiểu tại sao ông không cười được." Đây là câu NHT viết về Tổng Cóc. Hóa ra tôi không phải là Xuân Hương mà là Tổng Cóc!
Thứ Năm, 13 tháng 10, 2011
Mình nói chuyện gì khi mình nói chuyện Murakami
Thứ nhất, nhịp tim của Murakami và tôi tương đương nhau: lúc bình thường khoảng năm mươi. Đó là nhịp tim của một người chạy bộ. Ai đã đọc Tôi nói khi nói về chạy bộ của Murakami đọc câu này của tôi hẳn sẽ ngỡ rằng tôi là một chuyên gia chạy marathon như ông nhà văn người Nhật. Vì tôi là người hết sức trung thực nên tôi nói ngay: Không phải đâu. Có một thời gian tôi chạy khá đều đặn vào mỗi buổi sáng, nhưng nhiều nhất chừng 5 ki lô mét. Chứ còn Murakami là một tay chạy marathon thực thụ, chưa kể có lần ông còn tham gia một cuộc chạy siêu marathon kinh hồn táng đởm sáu mươi hai dặm tức ngót nghét 100 cây số. Dã man như con ngan, man rợ như con vợ. Chả trách ông có thể viết trường thiên tiểu thuyết, cuốn mới nhất 1Q84 ra tiếng Việt chắc phải trên ngàn trang. Còn tôi thì viết được blog, entry nào dài lắm tầm nghìn chữ. 1Q84 bản tiếng Anh Amazon cho đặt hàng trước giá giảm những 47% so với giá bìa, nhưng nghe đâu tiếng Việt cũng sắp có nên chờ bản dịch tiếng Việt vậy.
Điểm chung thứ hai, Murakami kể chuyện ông mất rất nhiều thời gian chuẩn bị như những bài diễn thuyết bằng tiếng Anh. Cụ thể trước khi bước lên bục ông học thuộc lòng cả bài diễn văn và phải tập dượt bài diễn văn nhiều lần. Cái này hao hao giống tôi. Với những bài thuyết trình trong phạm vi công ty tôi chỉ cần xem qua trước khi trình bày, tuy nhiên, khi phải thuyết trình bằng tiếng Anh tại các hội nghị quốc tế, để đảm bảo mình có thể nói rõ ràng và lưu loát, tôi thường tập qua chừng mười lăm đến hai chục lần, có khi còn ghi âm để tự mình nghe lại và canh thời gian. Sau khi đã tập qua từng đó lần thì tuy không cố ý học thuộc, tôi cũng có thể thuộc lòng cả bài nói. Cũng giống như Murakami, tôi nghĩ sẵn một vài chiêu chọc cười khán giả, nhưng thường tùy tình hình tại buổi trình bày mà tôi ứng biến vài trò mới. Nếu sau một hai phút mà tôi đã làm khán giả cười được tôi sẽ tự tin hơn rất nhiều.
Như có lần tôi nói, Murakami quả có duyên với độc giả Việt Nam khi tác phẩm của ông gần như được dịch trọn vẹn. Nhìn chung, tôi thích tiểu thuyết của ông hơn, vì ông luôn có khả năng tạo dựng ra một thế giới quyến rũ cho các tiểu thuyết của mình. Văn phi hư cấu ông có hai cuốn đã dịch, cuốn Ngầm, có lần tôi đã nhắc đến, còn cuốn này, Tôi nói gì khi nói về chạy bộ, khiến tôi khâm phục ông với một tư cách khác hơn tư cách nhà văn. Một khi cuốn sách đã kể về chạy bộ, tất nhiên người đọc sẽ chờ đợi những câu như thế này: “Đích cuộc đua chỉ là một cái mốc tạm thời không có ý nghĩa gì nhiều. Cũng hệt như đời sống của chúng ta. Chẳng phải vì có một cái kết thúc mà tồn tại là có ý nghĩa.” Hoặc thế này, “Chạy đua với thời gian không quan trọng. Điều có ý nghĩa với tôi hơn nhiều giờ đây là tôi có thể vui thú chừng nào, tôi có hoàn tất được hai mươi sáu dặm với cảm giác mãn nguyện không.” Những câu văn không phải là khó đoán định đối với độc giả biết rằng mình đang đọc sách của một nhà văn kiêm người chạy bộ. Có lẽ tôi trông đợi nhiều hơn từ một cuốn sách như thế này, cụ thể, tôi mong ông viết nhiều hơn về nghề văn, thay vì chỉ kể hết cuộc chạy marathon này sang cuộc chạy marathon khác. Dẫu vậy, Murakami vẫn là Murakami, và không có quá nhiều người vừa là nhà văn vừa là người chạy bộ.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)