Thứ Năm, 15 tháng 10, 2009

Em làm ơn im đi, được không?

EM LÀM ƠN IM ĐI, ĐƯỢC KHÔNG?

Raymond Carver

I

Khi Ralph Wyman mười tám tuối và lần đầu tiên xa nhà, cha anh, hiệu trưởng Trường tiểu học Jefferson và là người thổi kèn trumpet sô lô trong ban nhạc của Câu lạc bộ Weaverville Elks, dạy anh rằng đời là một chuyện nghiêm chỉnh, một cuộc mạo hiểm đòi hỏi sự mạnh mẽ và chí hướng ở một người trẻ tuổi vừa mới khởi đi, một con đường lắm chông gai, đó là điều ai cũng biết, nhưng cũng nhiều tưởng thưởng, cha Ralph Wyman tin vào điều đó và bảo anh thế.

Nhưng khi ở đại học Ralph mù mờ phương hướng. Anh vừa nghĩ rằng mình muốn trở thành bác sĩ vừa nghĩ mình muốn trở thành luật sư, anh học vài khóa y khoa sơ cấp và vài khóa về lịch sử pháp quyền và luật kinh doanh, nhưng rồi xác định rằng mình chẳng có sự trơ lì cần thiết cho ngành y lẫn khả năng đọc triền miên cho ngành luật, đặc biệt là khi phải đọc về tài sản và thừa kế. Mặc dù thỉnh thoảng anh vẫn đăng ký học các lớp về khoa học và kinh doanh, Ralph học cả các lớp triết học và văn chương và cảm thấy mình như trên ngưỡng cửa của một sự tự khám phá lớn lao. Nhưng điều ấy chẳng bao giờ đến. Chính trong thời gian này, khoảng thời gian sa sút nhất như về sau này anh tự nhận, Ralph tin rằng anh gần như sụp đổ; anh đàn đúm và đêm nào cũng say bét nhè. Anh uống nhiều đến độ tiếng tăm nổi như cồn và mọi người gọi anh là Jackson, theo tên người pha rượu ở quán The Keg.

Rồi, năm thứ ba đại học, Ralph bắt đầu chịu ảnh hưởng của một giáo sư có sức lôi cuốn đặc biệt. Đó là tiến sĩ Maxwell; Ralph không bao giờ quên ông được. Ông đẹp trai, duyên dáng, tầm mới hơn bốn mươi, phong thái tinh tế, giọng nói phảng phất chất miền Nam. Ông đã từng đi học ở Valderbilt, nghiên cứu ở châu Âu, rồi sau cộng tác với một, hai tạp chí văn chương bên bờ Đông. Sau này Ralph sẽ bảo gần như chỉ sau một đêm là Ralph quyết định theo nghề dạy học. Anh bỏ rượu, bắt đầu chú tâm học hành, và chỉ trong một năm được bầu vào Omega Psi, hội thân hữu báo chí toàn quốc; anh trở thành hội viên Câu lạc bộ tiếng Anh; được mời đến dự cùng cây đàn cello mà đã ba năm anh không sờ đến, tham gia nhóm nhạc thính phòng sinh viên vừa mới thành lập; thậm chí anh còn đắc cử chức thư ký của lớp năm cuối. Đúng khi đó anh gặp Marian Ross - một cô gái mảnh mai, xinh xắn với nước da sáng, người đã ngồi cạnh anh trong lớp học về Chaucer.

Marian Ross để tóc dài, thích mặc áo thun cao cổ và luôn đeo một túi xách da dây dài đong đưa trên vai. Đôi mắt cô to, như thâu hết mọi vật vào trong một cái nhìn. Ralph thích đi chơi với Marian. Họ cùng đến quán The Keg và một vài chỗ khác mà mọi người hay đến, nhưng họ không bao giờ để chuyện đi chơi hay chuyện đính hôn mùa hè năm sau len vào chuyện học. Họ là những sinh viên nghiêm túc, và hai bên cha mẹ cuối cùng tán thành chuyện hai người. Mùa xuân, họ cùng đi thực tập tại một trường trung hoc ở Chico, và vào tháng sáu, cùng vượt qua kỳ thi tốt nghiệp. Hai tuần sau họ làm đám cưới ở nhà thờ St James Episcopal.

Đêm trước đám cưới tay trong tay họ nguyện mãi mãi giữ gìn niềm hứng khởi và vẻ bí ẩn của cuộc sống lứa đôi.

Họ lái xe đến Guadalajara hưởng tuần trăng mật, và mặc dù cả hai thấy thích thú khi viếng thăm những nhà thờ đổ nát và những bảo tàng tranh tối tranh sáng cũng như những chiều đi mua sắm, khám phá chợ búa, Ralph thầm kinh sợ với tình trạng bẩn thỉu và sự phóng đãng công khai mà anh nhìn thấy, và muốn nhanh quay về với sự an toàn của California. Nhưng cái cảnh tượng mà anh luôn nhớ và cũng làm anh cảm thấy bất an nhất thì chẳng liên quan gì đến Mexico cả. Đó là một buổi chiều muộn, gần như là tối, Marian đứng chống tay bất động tì lên hàng lan can sắt của căn nhà họ thuê trong khi Ralph đi về từ con đường bụi mù bên dưới. Mái tóc cô xõa dài trước vai, cô không nhìn anh mà nhìn vào cái gì đó xa xăm. Cô mặc váy trắng, choàng khăn màu đỏ tươi quanh cổ, và anh có thể nhìn thấy ngực cô phập phồng sau lớp vải trắng. Anh kẹp một chai rượu vang sẫm, không dán nhãn dưới cánh tay, và cảnh tượng này gợi lên trong Ralph một cái gì đó trong một cuốn phim, một khoảnh khắc hết sức kịch tính mà Marian vào vai thật trọn vẹn còn anh thì không.

Trước khi đi hưởng tuần trăng mật họ đã nhận dạy ở một trường trung học ở Euroka, một thị trấn thuộc vùng chuyên đốn gỗ ở phía bắc tiểu bang. Được một năm, sau khi họ thấy chắc chắn rằng ngôi trường và thị trấn này đúng là nơi họ muốn gắn bó, họ mua một ngôi nhà ở quận Fire Hill. Ralph cảm thấy, mà không cần thật sự nghĩ ngợi nhiều, rằng anh và Marian hiểu nhau một cách hoàn hảo – ít nhất cũng đến mức mà hai con người có thể hiểu được về nhau. Hơn nữa, Ralph cảm thấy anh tự hiểu mình – cái gì anh có thể làm, cái gì không, và anh đang đi về đâu bằng sự tự đánh giá thận trọng chính mình.

Hai con của họ tên là Dorothea và Robert, giờ một đứa đã năm tuổi và một đứa bốn tuổi. Vài tháng sau khi sinh Robert, Marian được mời làm giáo viên tiếng Pháp và tiếng Anh ở một trường trung cấp ngoài rìa thị trấn, còn Ralph vẫn dạy ở trường trung học. Họ tự cho mình là một đôi hạnh phúc, cuộc sống hôn nhân của họ cho đến giờ này chỉ có một trục trặc duy nhất xảy ra lâu rồi, vào mùa đông cách đây hai năm. Kể từ đó họ chưa bao giờ nhắc lại. Nhưng đôi khi Ralph nghĩ về chuyện ấy - thật lòng, anh phải thừa nhận rằng anh nghĩ về chuyện ấy ngày càng nhiều. Những hình ảnh ghê sợ ngày càng hiện lên trong mắt anh, những chi tiết không thể chịu đựng được. Vì anh đinh ninh rằng vợ anh đã từng một lần phản bội anh với một gã tên là Mitchell Anderson.

Nhưng giờ này là một đêm chủ nhật tháng mười một, bọn trẻ đã ngủ say còn Ralph cũng buồn ngủ, anh ngồi trên ghế sofa chấm bài, tiếng ra-đi-ô văng vẳng ra từ nhà bếp, nơi Marian đang là quần áo, và anh cảm thấy hạnh phúc ngập tràn. Anh ngắm nhìn tập bài trước mặt anh một lúc rồi xếp chúng lại và tắt đèn.

“Xong rồi hả anh?” Marian mỉm cười và hỏi khi anh đi vào nhà bếp. Cô đang ngồi trên một cái ghế cao, và cô dựng đứng bàn là dậy như thể cô đang đợi anh.

“Còn lâu”, anh nhăn mặt nói, vứt xấp bài lên bàn bếp.

Cô bật cười – cái cười rạng rỡ, vui sướng - và ngẩng mặt lên đợi được hôn, và anh hôn nhẹ lên má cô. Anh kéo ghế ra và ngồi xuống, ngả người ra sau trên chân ghế và ngắm vợ. Cô lại mỉm cười rồi hạ mắt xuống.

“Anh hơi buồn ngủ”, anh nói.

“Cà phê nhé?” , cô hỏi, chồm người qua và lấy mu bàn tay sờ vào bình pha cà phê.

Anh lắc đầu.

Cô cầm điếu thuốc đang cháy dở trong gạt tàn lên, rít một hơi trong lúc nhìn xuống sàn nhà, rồi đặt điếu thuốc lại trong gạt tàn. Cô nhìn chồng, nét ấm áp tràn gương mặt. Cô cao, vóc người mềm mại, ngực cao, eo thon, và cặp mắt to, tuyệt vời.

“Anh có bao giờ nghĩ về bữa tiệc ấy không?”, cô hỏi, vẫn nhìn anh.

Anh giật mình và ngọ ngoạy trong ghế, và anh nói: “Bữa tiệc nào? Em định nói bữa tiệc cách đây hai, ba năm?”

Cô gật đầu.

Anh đợi, và khi thấy cô không giải thích gì thêm, anh nói: “Có chuyện gì? Sao em mang chuyện đó ra, có chuyện gì thế?”. Rồi tiếp: “Rốt cuộc là đêm đó anh ta hôn em, đúng không? Ý anh là, anh biết anh ta hôn em. Anh ta cố hôn em, hay là không?”

“Em chỉ nghĩ về chuyện đó và em hỏi anh, có thế thôi”, cô nói. “Thỉnh thoảng em nghĩ về chuyện đó”, cô nói.

“Hừm, anh ta đã hôn em, phải không. Thôi nào, Marian”, anh nói.

“Anh có bao giờ nghĩ về đêm hôm ấy không?”, cô hỏi.

Anh nói: “Không hẳn. Chuyện đó lâu rồi, đúng không? Cách đây ba hay bốn năm. Bây giờ em kể anh nghe được rồi đấy. Anh vẫn là anh chàng Jackson ngày xưa mà em từng tâm sự, nhớ không?”. Và cả hai đột nhiên cùng bật cười rồi đột nhiên cô bảo: “Có”. Cô nói, “Anh ta có hôn em mấy cái.” Cô mỉm cười.

Anh biết anh nên cố mỉm cười cùng cô, nhưng anh không thể. Anh bảo: “Thế mà trước đây em bảo là anh ta không hôn em. Em bảo anh ta chỉ choàng tay qua người em khi đang lái xe. Vậy là sao?”

“Sao anh lại làm như thế?” cô lơ mơ hỏi. “Cô đi đâu cả đêm?” anh gào lên, đứng chắn trước mặt cô, chân sũng nước, nắm tay co lại để đánh tiếp. Rồi cô nói: “Em chẳng làm gì cả. Sao anh đánh em?”, cô nói.

“Thế nào mình lại nói đến chuyện này nhỉ?” cô hỏi.

“Em khơi chuyện ra”, anh trả lời.

Cô lắc đầu. “Em không biết cái gì khiến em nghĩ về chuyện ấy nữa.” Cô mím môi và chăm chú nhìn sàn nhà. Rồi cô đứng thẳng người lại ngẩng nhìn lên. “Anh, nếu anh cất cái bàn là quần áo này cho em, em sẽ pha một đồ uống gì nóng nóng. Rượu rum pha bơ . Anh thấy sao?”

“Được”, anh nói.

Cô vào phòng khách bật đèn rồi cuối xuống nhặt một cuốn tạp chí trên sàn. Anh ngắm hông vợ dưới cái váy len kẻ ô. Cô lại trước cửa sổ và đứng đó nhìn ra đèn đường. vuốt tay xuống váy rồi nhét áo vào trong. Anh tự hỏi không biết cô có tự hỏi mình rằng liệu anh có đang ngắm cô không?

Sau khi dựng cái bàn là quần áo vào trong góc cửa, anh ngồi xuống, và khi cô vào bếp, anh hỏi: “Này, đêm hôm đó giữa em và Mitchell Anderson còn diễn ra chuyện gì nữa?”

“Không có gì cả”, cô đáp. “Em đang nghĩ về chuyện khác”.

“Chuyện gì?”

“Về các con, về cái váy mà em muốn mua cho Dorothea vào Lễ phục sinh tới. Và em đang nghĩ về buổi lên lớp ngày mai. Sinh viên hiểu thế nào về chàng Rimbaud đẹp trai”, và cô bật cười. “Em không có ý gieo vần đâu, thật đấy, Ralph, và thật đấy, chẳng có chuyện gì khác xảy ra đâu. Em xin lỗi em đã nói gì về chuyện đó.”

“Được rồi”, anh nói.

Anh đứng dậy, tựa vào tường bên cạnh tủ lạnh nhìn vợ xúc đường cho vào hai cái cốc và khuấy rượu rum lên. Nuớc bắt đầu sôi.

“Em này, bây giờ chuyện đã được mang ra rồi”, anh nói, “và chuyện đó cũng đã cách đây bốn năm, nên anh nghĩ chẳng có lý do gì khiến mình bây giờ không thể nói về chuyện đó được nếu mình muốn. Đúng không?”

Cô nói, “Nhưng chẳng có gì để nói cả”.

Anh nói, “Anh muốn biết”.

Cô nói, “Biết gì cơ?”

“Ngoài chuyện hôn em ra thì anh ta còn làm gì. Chúng mình là người lớn. Mình không gặp nhà Anderson hàng năm rồi còn gì và có thể mình chẳng bao giờ gặp lại họ mà chuyện đó đã xảy ra lâu lắm rồi, nên có lý gì mà mình không thể nói về chuyện đó?” Anh hơi ngạc nhiên về chất lý sự trong giọng của mình. Anh ngồi xuống, nhìn tấm khăn trải bàn rồi ngước lên nhìn vợ. “Thế nào?”, anh hỏi.

“Hừm”, cô cười láu lỉnh, hất đầu sang một bên một cách rất nữ tính, nhớ lại. “Không, Ralph, thật đấy. Thật ra em không nên kể thì hơn.”

“Chúa ơi, Marian. Bây giờ anh nói nghiêm túc đấy”, anh nói, và đột nhiên anh hiểu là anh thật sự muốn thế.

Cô tắt bếp gas, gác tay lên ghế rồi ngồi xuống, gót chân gác lên thanh gác. Cô hơi chồm về phía trước, cánh tay tì lên gối, ngực áp vào áo. Cô gẩy một cái gì đó trên váy rồi ngước lên.

“Anh có nhớ là Emily đã ra về cùng với nhà Beatty, không hiểu sao Mitchell vẫn còn ở lại. Phải nói là đêm hôm ấy trông anh ấy không ổn lắm. Em không rõ, có thể là Emily và anh ấy đang lục đục, nhưng em không rõ lắm. Lúc đó, anh, em, nhà Franklin và Mitchell Anderson vẫn còn ở lại. Cả hội đều đã ngà ngà. Ralph, em không nhớ rõ chuyện diễn ra thế nào, nhưng đột nhiên chỉ mình Mitchell và em tình cờ có mặt trong nhà bếp cùng một lúc, lúc đó chẳng còn tí whistky nào, chỉ còn một chai vang trắng đang uống dở. Lúc đó phải gần một giờ, bởi vì Mitchell nói: “Nếu mình bay trên những đôi cánh khổng lồ thì mình có thể đến kịp trước khi tiệm rượu đóng cửa.” Anh có biết là anh ấy có thể diễn đến mức nào khi anh ấy muốn không? Giọng mềm mỏng, diễn tả bằng nét mặt? Nói chung, anh ta rất ma lanh về chuyện đó. Ít nhất vào lúc đó có vẻ như thế. Và rất say nữa, em có thể thêm. Em cũng say. Đó là một phút bốc đồng Ralph ạ. Em không biết tại sao em làm như thế, đừng hỏi em, nhưng khi anh ấy bảo chúng ta đi nào em đã đồng ý. Bọn em ra phía sau, chỗ anh ấy đậu xe. Bọn em chỉ đi…như thế…thậm chí không mang áo khoác theo, nghĩ rằng chỉ đi một tí teo. Em không biết bọn em nghĩ gì, em nghĩ gì, em không biết tại sao em lại đi, Ralph ạ. Bốc đồng, em chỉ có thể trả lời như thế. Một bốc đồng sai lầm.” Cô ngừng lại. “Đêm hôm đó em có lỗi, Ralph, em xin lỗi. Lẽ ra em không nên làm như thế - em biết điều đó.”

“Chúa ơi!” Cái từ ấy trượt ra khỏi miệng anh. “Nhưng lúc nào em cũng như thế, Marian!” Và ngay lập tức anh biết rằng anh vừa bật ra một sự thật mới mẻ và sâu sắc.

Đầu anh tràn ngập những lời cáo buộc, và anh cố tập trung vào một điểm cụ thể. Anh nhìn xuống bàn tay mình và nhận thấy chúng có cùng cảm giác vô hồn mà chúng từng có cái ngày anh nhìn cô đứng trên ban công. Anh nhặt cây bút chì đỏ chấm bài đang nằm trên bàn lên rồi lại đặt nó xuống.

“Anh đang nghe đây”, anh nói.

“Nghe cái gì cơ?” cô nói. “Anh đang cộc cằn vả trở nên bực dọc, Ralph. Chẳng vì cái gì cả - chẳng vì cái gì, anh à…không có chuyện gì khác cả”, cô nói.

“Tiếp tục đi”, anh nói.

Cô nói, “Rốt cuộc là có chuyện với chúng ta?. Anh có biết là chuyện này bắt đầu như thế nào không? Bởi vì em chẳng biết chuyện này bắt đầu như thế nào.”

Anh bảo, “Tiếp tục đi, Marian”.

“Tất cả chỉ có thế, Ralph”, cô nói. “Em bảo rồi. Bọn em phóng xe đi. Bọn em trò chuyện. Anh ấy hôn em. Em vẫn không rõ tại sao bọn em có thể đi đến ba giờ đồng hồ - hay là bất cứ cái gì mà anh nói là bọn em làm.”

“Kể đi, Marian”, anh nói, anh biết rằng còn nữa và biết rằng anh đã luôn biết điều đấy. Anh cảm thấy nôn nao trong bụng, và rồi anh bảo: “Thôi. Nếu em không muốn kể cũng được. Thật ra anh nghĩ anh chỉ nên biết đến đấy.” Anh thoáng nghĩ rằng nếu anh chưa lấy vợ đêm nay anh đã ở một nơi nào khác làm một việc gì khác, rằng sẽ là một nơi nào đó yên lặng.

“Ralph này”, cô nói, “anh sẽ không giận, phải không? Ralph? Chúng ta chỉ nói chuyện thôi. Anh sẽ không giận, phải không?”. Cô chuyển sang ngồi trên một chiếc ghế bên cạnh bàn.”

Anh nói, “Anh sẽ không giận.”

Cô nói, “Hứa nhé?”

Anh nói, “Hứa.”

Cô châm một điếu thuốc. Anh đột nhiên có mong ước lớn lao được nhìn thấy lũ trẻ, kéo chúng dậy và lôi ra khỏi giường, nặng nề và vẫn còn mê ngủ, giữ mỗi đứa một bên gối, kéo chúng đi cho đến khi chúng tỉnh dậy. Anh chuyển sang chú ý đến một trong những cỗ xe đen nhánh bé tí đặt trên khăn trải bàn. Bốn chú ngựa trắng cũng bé tí tung vó kéo từng cỗ xe đen, người đánh xe ngựa đội chiếc mũ cao vung tay lên, những hòm xiểng được treo trễ xuống từ nóc xe, và một thứ trông giống như cái đèn dầu lủng lẳng một bên, và nếu anh có lắng nghe gì thì đó là nghe từ bên trong cỗ xe đen.

“… Bọn em đi thẳng đến tiệm rượu, em ngồi đợi trong xe cho đến lúc anh ấy đi ra. Một tay anh ấy cầm túi, tay kia cầm một túi ni-lông đá. Anh ấy loạng choạng ngồi vào xe. Em không nhận ra là anh ấy say mèm cho đến lúc bọn em bắt đầu lái về. Em để ý cái cách anh ấy lái. Chậm kinh khủng. Anh ấy gục cả người lên tay lái. Mắt anh ta long lanh. Bọn em tán đủ thứ chuyện chẳng có ý nghĩa gì cả. Em chẳng nhớ nữa. Bọn em nói về Nietzsche. Strindberg. Anh ấy đạo diễn vở Nàng Julie trong học kỳ thứ hai. Rồi cái gì đó về chuyện Norman Mailer đâm vào ngực vợ. Rồi anh ấy dừng lại một lúc giữa đường. Rồi mỗi đứa lấy chai ra nốc một ngụm. Anh ấy nói anh ấy ghét nghĩ đến việc em bị đâm vào ngực. Anh ấy nói anh ấy muốn hôn lên ngực em. Anh ấy đánh xe ra vệ đường. Anh ấy gục đầu vào lòng em…”

Giọng cô gấp gáp, anh ngồi hai tay khoanh trên bàn ngắm nhìn môi vợ. Mắt anh lướt vòng quanh bếp - bếp lò, hộp đựng khăn giấy, bếp lò, tủ ly, lò nướng bánh mì, ngược lại môi của vợ, ngược lại cỗ xe trên khăn trải bàn. Anh cảm thấy một ham muốn lạ lùng dành cho vợ thoáng qua phần bụng dưới của mình, rồi anh cảm nhận được nhịp xóc đều đều của cỗ xe, anh muốn kêu ngừng lại và anh nghe vợ nói: “Anh ấy bảo chúng mình làm chuyện ấy nhé?” Và rồi cô nói: “Em đáng trách. Em là người đáng trách. Anh ấy bảo tùy em quyết định, em có thể làm bất kỳ điều gì em muốn.”

Anh nhắm mắt lại. Anh lắc đầu, cố nghĩ ra những khả năng khác, những kết luận khác. Anh thật sự băn khoăn liệu anh có thể hồi tưởng lại đêm ấy cách đây hai năm và tưởng tượng ra chính anh đi vào bếp đúng lúc họ ra đến cửa, nghe giọng chính mình xúc động mạnh, ồ không, không, em không được đi đâu với gã Mitchell Anderson đấy. Chẳng những hắn say mà hắn còn là một tài xế tồi, và bây giờ em phải đi ngủ để thức dậy với Robert và Dorothea vào buổi sáng và dừng lại! Em phải dừng lại!

Anh mở mắt ra. Cô đang lấy tay che mặt và khóc rưng rức.

“Tại sao em làm vậy, Marian?” anh hỏi.

Cô lắc đầu mà không ngẩng lên.

Rồi đột nhiên anh biết hết. Đầu anh căng lên. Cả một lúc lâu anh chỉ có thể nhìn trừng trừng ngờ nghệch vào tay mình. Anh đã biết hết! Đầu anh gầm rú vì cái anh biết.

“Chúa ơi! Không! Marian! Giê-su-ma, lạy Chúa tôi!”, anh nói, bật người ra khỏi bàn. “Chúa ơi! Không, Marian!”

“Không, không”, cô nói, hất đầu ra phía sau.

“Cô đã để cho hắn!” anh gào lên.

“Không, không”, cô nức nở.

“Cô đã để cho hắn! Làm chuyện đó! Đúng không? Đúng không? Làm một cái! Có phải hắn nói vậy không? Trả lời tôi đi! ” anh gào lên. “Hắn ta có ra trong người cô không? Cô có để cho hắn ra trong người cô không khi cô và hắn làm chuyện đó?”

“Nghe em, nghe em này Ralph”, cô nghẹn ngào, “em thề với anh là anh ta không. Anh ta không ra. Anh ta không ra trong người em.” Cô nảy người từ bên này sang bên kia ghế.

“Ôi Chúa! Quỷ tha ma bắt cô đi!” anh rít lên.

“Chúa ơi!” cô nói, đứng dậy, chìa tay ra. “Chúng mình điên hả, Ralph. Chúng mình mất trí chưa? Ralph? Tha lỗi cho em, Ralph. Tha lỗi cho em.”

“Đừng chạm vào tôi! Tránh ra!” anh gào. Anh đang gào.

Cô bắt đầu thở hổn hển, sợ hãi. Cô cố ôm anh lại. Nhưng anh tóm lấy vai cô và hất cô ra.

“Tha lỗi cho em, Ralph. Em van anh, Ralph! cô gào lên.


***

(Phần hai)

Goldmund dịch từ nguyên bản tiếng Anh Will You Please Be Quiet, Please?


Thứ Tư, 14 tháng 10, 2009

Phép thắng lợi tinh thần

Ở một thành phố mà phần lớn thời gian phải bò ở tốc độ 20 đến 25km/h, việc bị phạt vì chạy quá tốc độ trong nội thành quả là một điều khó tin, nhưng rất buồn điều khó tin ấy lại trở thành sự thật. Sự thật này đắng hơn món cocktail Campari Cam mà tôi đã uống trong cái đêm định mệnh ấy:)

Cách đây mấy hôm, sau môt bữa tiệc cocktail nho nhỏ, tôi đang phóng vi vu trên đường về nhà, thì có một chú công an nho nhỏ xông ra giữa đường, rọi đèn vào xe. Phóng quá tốc độ: 69/50km/h. Hỏi chú lỗi này phạt bao nhiêu, chú bảo triệu rưỡi. Mặt đang hơi đỏ đỏ trở nên xám ngoét. Về nhà, giở luật ra tra, thấy quá tốc độ từ 10 đến 20 cây số/giờ thì bị phạt từ 600.000 đồng đến 1.000.000 đồng, mặt bớt xám được tí, vì ít ra sẽ tiết kiệm được 500.000 đồng. Đấy là cái may thứ nhất.

Cái may thứ hai là, nếu chỉ thêm một cây số nữa thôi, thì khung phạt sẽ là từ 1.000.000 đến 3.000.000 đồng, kèm theo giam bằng 30 ngày. Lúc bị thổi, thật ra tôi đang chạy ở tốc độ 73km/h, nhưng tốc độ ghi lại trên máy của cảnh sát là 69km/h.

Lúc chú công an làm biên bản, tôi đứng cách chú mấy mét. Đèn đường vàng, và có lẽ khói bụi nhiều quá, nên chú không phát hiện ra tôi hơi có mùi rượu. Trước đó, tôi có uống một ly cocktail. Campari Cam đã đành là đắng nhưng mà hơi đắng quá! Luật giao thông mới có hiệu lực từ 1/7/2009 quy định đã lái xe thì không được có tí cồn nào. Nếu mà mũi chú công an thính hơn một chút thì đã gay go to. Đấy là cái may thứ ba.

Sáng nay đi nộp phạt ở Công an quận 3, từ lúc vào nộp biên bản đến lúc lấy bằng lái ra, kể cả thời gian sang kho bạc nộp tiền phạt, tổng cộng chỉ mất 35 phút. Lần trước đi nộp phạt ở Công an quận 1 mất nguyên buổi sáng, đấy là chưa kể một đám cò nộp phạt cứ vè vè xung quanh rất bực mình. Công an quận 3 dán hẳn một thông báo to đùng cảnh báo về việc không nên nộp quạt thông qua cò, chắc nhờ vậy mà ở đây không xô bồ như bên Công an quận 1. Bài học rút ra là nếu có dây dưa với cảnh sát, thì hãy chọn dây dưa với cảnh sát quận 3, chứ đừng chơi với các đồng chí quận 1.

Cái may thứ năm là tiền phạt rốt cuộc “chỉ” có 800.000 đồng. Trước đó tôi chắc mẫm phải mất đến một triệu. Như vậy là “tiết kiệm” được 200.000 đồng nữa!

Nhưng mà éo le. Cái đường Điện Biên Phủ to đùng, có 4 làn dành riêng cho ô tô mỗi bên, vậy mà tốc độ cho phép cũng chỉ như những con đường hai làn xe hỗn hợp khác, nghĩa là 50km/h. Thay vì quy định một tốc độ phù hợp hơn, thì các chú công an lại nhăm nhăm rình bắn tốc độ. Những lúc bò ra trên đường, có ai bắt các chú đền phần tốc độ còn thiếu đâu! 

Chủ Nhật, 11 tháng 10, 2009

Ngày không đẹp trời và món cháo giò

Cần quá nhiều nhận thức và dũng cảm để dấn thân ra đường trong những ngày trời xám xịt, đầy mưa và đầy gió. Những ngày như thế, tôi thích cuộn tròn trong chăn, nửa thức nửa ngủ nghe tiếng mưa ầm ì, tiếng gió cọ vào cửa kính, tiếng xe rì rào vọng lên từ con đường dưới nhà. Tôi thích nằm mãi, nằm mãi cho đến khi nào bụng tròn căng lên bức bối thì mới lồm cồm bò dậy, nhảy một bước vào toa-nét rồi sau khi nhẹ nhõm cõi lòng nhảy vào giường và tiếp tục tục rúc vào chăn. Nhưng, chao ôi, cuộc đời không phải là giấc mơ và tình người không là bài thơ. Dẫu mưa, dẫu gió, dẫu xám xịt âm u thì con heo con và con chó con (tức là bạn Alpha và bạn Pi) vẫn dậy đúng giờ. Thế rồi sau khi hai bạn ăn sáng xong, vì là cuối tuần nên cụ bà lại bắt cụ ông thắng ngựa chở cụ bà đi siêu thị. Điều an ủi là, sau khi từ siêu thị trở về, mặc cho cụ bà chiến đấu với đống chiến lợi phẩm và mặc cho hai con heo con và chó con nhảy lăng xăng khắp nhà như thổ dân, tôi cũng có thể trèo lên sofa và đọc nốt cuốn sách dang dở. Lần này là Hội hè miên man.

Đôi khi tôi băn khoăn tự hỏi giò của biên tập viên trắng hay đen, cong hay thẳng, dài hay ngắn, có lông hay không lông:)? Vì những thắc mắc biết hỏi ai đấy nên hôm nay trong lúc đọc sách tôi nảy ra một ý hay là mình thử bắt giò về nấu cháo xem sao. Và, đối với một cuốn sách liên kết xuất bản, nếu bắt giò thì phải bắt giò của biên tập viên công ty liên kết, chứ ai lại đi bắt giò biên tập viên nhà xuất bản, vì cho dù là người ngoại đạo thì cũng không khó đoán ra ai là người thực sự làm việc.

Cuốn sách này, kể từ khoảng trang 80 trở đi, được chuyển tải bằng một thứ tiếng Việt gần như hoàn hảo, nên dù có sẵn một ý định khá tiểu nhân trong đầu:) tôi vẫn không bắt được một lỗi gì đáng kể. Dường như kể từ khoảng trang này thì dịch giả đã bắt đầu bắt nhịp được cuốn sách và dứt khoát không thả nó ra nữa! Hoặc cũng có thể kể từ khoảng trang này thì biên tập viên lao lực nhiều hơn:) nên ngôn ngữ nhuần nhị, mượt mà gần như không tì vết. Có một từ tôi không hiểu, đó là từ “phỉ phui” (trang 132). Tôi đoán là từ gốc Bắc, nên đã hỏi cả một người Bắc chính gốc là cụ bà mà vẫn chịu. Trước đó ít trang có từ “phỉ thui”, tôi cũng không hiểu từ này, nhưng dựa vào ngữ cảnh cũng đoán được là một từ chỉ việc khỏi mất may mắn. Bác biên tập viên có vào đây vui lòng giảng giải thêm.

Từ khoảng trang 80 trở về trước có thể nhận thấy một số chỗ còn ngập ngừng, trúc trắc, khó hiểu. Vài ví dụ như sau:

+ “Tôi đem theo cam và hạt dẻ nướng trong túi giấy, và mỗi khi đói lại bóc những quả cam bé như quả quất rồi ném vỏ và nhổ hạt vào lửa khi ăn, cũng như đống hạt dẻ” (trang 24). Trúc trắc bắt đầu từ chỗ “khi ăn…’

+ “Những bà vợ, vợ tôi và tôi cảm thấy, đều được chiếu cố” (trang 27). Cái đoạn “vợ tôi và tôi cảm thấy” nằm ở giữa câu có lẽ quá Tây và làm cho câu khó hiểu hơn.

+ “Ta có thể nhận ra mùa xuân đang đến từng ngày trên rất nhiều cây trong thành phố cho đến một đêm đầy gió ấm bất ngờ mang nó đến vào buổi sáng” (trang 64). Rất khó hiểu vì sao “mùa xuân đến từng ngày” rồi sau đó “một đêm đầy gió ấm bất ngờ mang nó đến vào buổi sáng”.

+ Cụm từ “người đàn bà” được dùng lặp đi lặp lại ở trang 67.

+ Đoạn tả Miss Stein và người tình của bà (trang 27), từ đoạn “bà ta có làn da sẫm…” cho đến “…các cuộc nói chuyện không phải của bà” tôi bị lẫn lộn không biết tả Miss Stein hay tả người tình của bà ấy. (Người tình của Miss Stein là phụ nữ nên mới mọc ra cái sự khó hiểu này!)

Ngoài ra, tôi không hiểu tại sao tên các tác phẩm được nhắc tới trong sách khi thì được chú thích bằng tiếng Việt, khi thì không. Tôi cũng thắc mắc vì sao từ “rượu trắng” được sử dụng chứ không phải “vang trắng”. “Rươu trắng” khiến tôi liên tưởng đến rượu đế ở Việt Nam, thay vì loại rượu ướp lạnh hay uống khi dùng hải sản.

Tôi chưa đến Paris bao giờ nên đọc về Paris trong Hội hè miên man với tôi là một cuộc du lịch thú vị. Thú vị không kém là câu chuyện về Hemingway và các bạn văn của ông. Tôi nhặt ra vài chi tiết mà tôi thích:

+ Hemingway không tin vào tính từ.

+ “Mọi thế hệ đều mất mát theo một cách nào đấy, luôn luôn đã và luôn luôn sẽ mất mát”.

+ Văn của Hemingway trong nguyên bản tiếng Anh khá dễ đọc, vì ông không dùng câu hay từ phức tạp. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa viết ra những câu văn đơn giản là một công việc dễ dàng. Hemingway trong cuốn này thú nhận rằng ông thường phải “ngồi trọn một buổi sáng để ra được một đoạn văn”.

+ Hemingway khuyên một người bạn nếu không viết văn được thì hãy chuyển sang viết phê bình!: ):)

+ Scott Fitzgerald, tác giả Gatsby vĩ đại, nghĩ là mình có vấn đề về “kích thước”! :)

Thông tin về cuốn sách: Hội hè miên man, tác giả Ernest Hemingway, Phan Triều Hải dịch từ nguyên bản tiếng Anh Moveable Feast, Nhã Nam và NXB Hội nhà văn 2009, Biên tập viên Nhã Nam: Nhị Linh:)

Thứ Năm, 8 tháng 10, 2009

Nửa tiếng của một ngày đẹp trời

Mùa thu Hà Nội nổi tiếng trong thi ca âm nhạc và trong lòng những người con Nam tiến thương nhớ mười hai hình như dài chỉ mấy tuần. Còn Sài Gòn, từ độ tháng chín, tháng mười đến qua Giáng sinh không thiếu những ngày nắng vàng rộm, mát mẻ như thu, trời đẹp đến nao lòng. Hôm nay là một ngày như thế. Và, để tận hưởng một ngày đẹp trời, không gì bằng rón rén ra phường xin xác nhận giấy tờ.

Cách đây mấy ngày, sau một đống email qua lại với các bạn bên một công ty dịch vụ, tôi quyết định nhấc điện thoại lên: “Này em, anh phải mang lý lịch ra phường xác nhận à?”. Bên kia bảo: “Dạ phải”. Tôi khẽ khọt: “Nhưng, phường có biết mẹ gì về anh đâu mà xác với chả nhận!” (Cái này là câu tôi muốn nói, chứ thật ra trên điện thoại tôi nói câu khác, cùng nội dung nhưng lịch sự nhã nhặn hơn nhiều.) Đầu bên kia: “Dạ, em cũng biết vậy nhưng cái này là thủ tục anh à, không có thì Sở không nhận hồ sơ đâu.” Tôi tặc lưỡi, đằng nào thì cũng phải sao y cái chứng minh nhân dân, đành phải dấn thân ra phường vậy. Thế là hôm nay, trong một buổi sáng mát trong như sáng năm xưa, gió thổi mùa thu hương cố[m]ng mới, tôi ra phường.

Tôi tự nâng cấp lên “phường” cho oai, chứ cái chỗ vùng sâu vùng xa này vẫn còn mang danh “xã”. Lần cuối cùng tôi có việc ra phường cách đây hơn hai năm. Công bằng mà nói, phường này vùng sâu vùng xa, các anh các chị cán bộ có vẻ khá dễ chịu, đại khái hỏi thì trả lời, chứ không đến nỗi mặt đơ như lưỡi cuốc. Duy có điều muốn ký giấy tờ gì có khi phải đợi khá lâu, vì anh chủ tịch/phó chủ tịch có khi bận đi cấy đồng sâu chửa về.

Trụ sở phường hẳn mới xây lại, một tòa nhà hai tầng khang trang thay cho dãy nhà ọp ẹp cách đây hai năm. Đối diện cổng phường là một dãy cửa sổ. Tôi tiến về cửa sổ ngoài cùng bên trái, nơi có biển “Sao y chứng thực”. Phía sau cửa sổ là một cô gái trẻ mặc sơ mi trắng, áo trắng quá nhìn không ra. Cô nhận xấp chứng minh nhân dân photo của tôi sau khi xem qua bản chính, rồi hướng dẫn tôi sang cửa sổ ngoài cùng bên phải để xin xác nhận lý lịch. Bên đó, một anh chàng đang ngồi đọc báo bảo tôi rằng ở đây không có ai anh ơi anh quay lại bên kia đi. Quay lại bên kia, cô gái tỏ ra dễ dãi, thôi anh đưa đây luôn cũng được, anh có đem hộ khẩu theo không? Tôi giật thót người, quên rồi chị ơi. May quá, cô gái này hẳn là nhân viên phường dễ thương nhất trần gian, hay cũng có thể vì trời đẹp mà cô thấy trong lòng thoải mái, chỉ hỏi tôi thường trú hay tạm trú, rồi nhận hồ sơ.

Không có ai khác đang ngồi chờ. Cô nhân viên phường hình như chỉ đang phục vụ cho mình tôi. Cô biến đi đâu đó chừng mười lăm phút, rồi quay lại với xấp chứng minh nhân dân sao y và lý lịch của tôi. Cả thảy mười tờ, mười chữ ký và tôi phải trả mười ngàn đồng. Dòng chữ xác nhận được đóng bằng mộc đỏ chói: “Đ/S thường (tạm) trú tại địa phương”. Đ/S, hẳn không phải là “đông sương” hay “đừng sợ”, mà là “đương sự”.

Tôi biết phường chỉ xác nhận đến thế thôi, chứ chẳng thế nào xác nhận được những thứ tôi khai trong đó, như từng đi học hay làm ở đâu, vì như đã nói, phường có biết [mẹ] gì về tôi đâu. Tôi là dân nhập cư trong thành phố này, hộ khẩu Sài Gòn mới được vài năm. Nếu muốn xác nhận cả những thứ đó, họ sẽ phải yêu cầu tôi trưng ra các bằng cấp, hợp đồng lao động trước đây, và như thế thì có mà chết. Không, tôi chỉ cần con dấu đỏ đỏ của phường. Và khi tôi giao lý lịch cho công ty dịch vụ nộp hồ sơ lên Sở, tôi biết Sở cũng chỉ cần thấy con dấu đỏ đỏ.

Thật ra, nếu muốn biết tôi thường trú ở đâu, một bản photo hộ khẩu là đủ. Còn nếu Sở tin tôi, thì cũng chẳng cần bản sao hộ khẩu làm gì, tôi chẳng có lý do gì để bịa nơi cư trú khi tôi cần đăng ký làm nhân viên của một văn phòng đại diện cả. Nhưng tôi biết Sở dứt khoát phải nhìn thấy xác nhận của phường, một xác nhận thật ra là vô nghĩa, mới an tâm. Nói chung, hệ thống hành chính của chúng ta thích xoay quanh những con dấu tròn và đỏ, mà để đóng bừa hoặc làm giả, thật ra chẳng khó khăn gì. Nhưng con dấu thì được tin, còn con người thì không.

Cho dù hôm nay nhờ có cô nhân viên phường dễ thương mà việc đi xác nhận không mất thời gian lắm, tổng cộng chỉ khoảng nửa tiếng, nhưng mất nửa tiếng của một ngày đẹp trời để làm một công việc vô nghĩa thì có vô nghĩa không?

Thứ Ba, 6 tháng 10, 2009

Tôi định có một ngày nào thật thảnh thơi

“Tôi định có một ngày nào thật thảnh thơi
Leo lên trời
Ỉa.

(Nguyễn Đức Sơn)

Tôi đọc mấy câu này lần đầu tiên hồi lớp 4, lớp 5 gì đó. Chả là ngày xưa chả có gì chơi nên ngoài giờ học tôi mặc sức lục lọi tủ sách của ba, trong đó, còn sót lại mấy cuốn tạp chí miền Nam trước 75. Mấy câu kia của Nguyễn Đức Sơn tôi đọc được trong một cuốn Văn hay Phổ Thông rách bìa. Mấy câu thơ kì dị kia giống như một phát đạn nã vào đầu óc trẻ con khi đó. Có lẽ, nó quá đặc biệt nên khó quên. Nó bám đâu đó trong bộ nhớ của tôi cho dù mãi về sau này tôi vẫn không thật sự chú tâm tìm hiểu về tác giả mấy câu thơ trên. Cho đến hôm qua, cụ thân sinh của cụ thân sinh ra bạn Alpha (cụ này bảy mấy mà vẫn lướt nét ầm ầm) gửi cho tôi một cái link, tôi mới biết Nguyễn Đức Sơn, cùng với Bùi Giáng, từng được coi là kỳ nhân thi sĩ ở miền Nam trước đây. Thú vị hơn, Nguyễn Đức Sơn là người Đơn Dương, đồng hương với tôi.

Bài viết về Nguyễn Đức Sơn được post ở đây (post thứ hai). Trong bài còn có nhắc một người tên là Nguyễn Văn Xô. Tôi biết người đó là ba của một người bạn tôi hồi cấp một, nhưng tôi cũng chỉ biết ông là thợ giày như trong bài viết có nói đến. Trong khi, hình như ông cũng là người trong làng văn nghệ trước đây.

Dưới đây là một số bài thơ của Nguyễn Đức Sơn:

Nhìn Con Tập Lật

Nắm tay lật úp đi con
Co thân tròn trịa như hòn đá lăn
Muốn cho đời sống không cằn
Tập cho quen mất thăng bằng từ đây

Nói Thật

Ở ăn với mẹ mày nhiều
Có trưa hộc máu có chiều trào cơm
Có đêm quẫn trí sôi đờm
Sáng ra cuộc sống quá nhờm con ơi
Ru con cha rống thấu trời
Oan khiên tan ở giữa đời cho mau

Mai Kia

Mai kia tan biến hận thù
Giữa đêm sao chiếu mịt mù phương đông
Cha về ôm cả biển sông
Duỗi chân duỗi cẳng nằm không một đời
Cho con cha hứa một lời
Duổi mây thiên cổ rong chơi tối ngày
Thu nào tóc bạc oà bay
Có con chỉ trỏ mới hay tuổi già
Cúi hôn trời đất đậm đà
Cha tan theo bóng trăng tà vạn niên

Rơ Miệng Con

Nằm yên thôi chớ vùng vằng
Để cha rơ miệng con bằng mật ong
Bẻ luôn cái lưỡi cho cong
Nói năng lấp liếm mới hòng người nghe

Đêm thăm bạn sắp đẻ ở Di Linh


Sắp đẻ ở Di Linh cây cối chào chị
Sắp đẻ ở hư không rừng và chị ôm nhau hát
Tôi giấu mặt đi ven hồ lạnh giá
Căn nhà gỗ phần mộ thanh xuân
Những ván thông dày đặc gỗ quan tài
Của tóc của chị của tình nhân
Của dương cầm bỏ phế đúng một năm
Sắp đẻ ở Di Linh cô đơn hùng dũng
Chị thu mình như một con mèo mun
Chị thu mình như một vũ nữ Ba Lan
Chị thu mình như một đĩa hát cũ
Oh my tormented heart
Buổi chiều chết trên cây thánh giá
Hãy quên tôi như một mũi tên
Hãy quên tôi như một loài chim đêm
Anh đưa chị về đây để tự vận
Chị thổ huyết ba lần tôi chứng kiến
Khi rừng già thấp xuống thấp xuống
Buổi sáng chị tắm sương mù
Buổi chiều chị đốt cỏ để hong đời chị
Hiu hắt như đời tôi chị đứng lên
Hai mươi bảy năm tuột mất thanh xuân
Ôi nắng vàng dòng thác Gougah
Rừng và chị ôm nhau hát
Sẽ đẻ ra một đứa con
Rừng và chị ôm nhau chết .

***

Thêm tư liệu và thơ Nguyễn Đức Sơn ở đây