Chủ Nhật, 26 tháng 5, 2013

Fragments No.13

+ Từ dạo đọc xong Những kẻ thiện tâm, tôi có tật hay để ý các nhân vật đọc gì, hay đúng hơn, nhà văn cho nhân vật của mình đọc gì. (Trong Những kẻ thiện tâm, nhân vật chính lúc nào cũng kè kè cuốn L'Éducation sentimentale). Gần đây nhất, trong lúc đọc lại Xe lên xe xuống của Nguyễn Bình Phương, thấy đoạn này rất buồn cười:

" Người đầu tiên xuống mượn sách là chị Thu. Mình nhớ lần ấy chị mượn cuốn Bình minh mưa. Mình ngó chị thắc mắc rằng cuốn sách ấy in từ lâu lắm rồi. Chị Thu bảo chị muốn đọc lại, chị yêu cái ông Pau-tốp-xky đến mê mệt. Mình tìm sách cho chị, phát hiện ra có đến ba bản, một bản cũ, hai bản mới in lại. Mình đưa cho chị bản mới, hơi có chút coi thường. Mình nghĩ người thích Bình minh mưa chắc chắn là loại tâm hồn lãng mạn rẻ tiền. Để kiểm chứng, mình dò lại sổ mượn của chị Thu và thấy mình chính xác. Chị ưa đọc loại tình cảm, hơi đèm đẹp, kiểu Đô-đê, Pút-xkin, Sa-gan, Thạch Lam, Khái Hưng, có dấn thêm chút nữa thì cũng chỉ đến độ bi lụy như Ai-ma-tốp là cùng. Duy nhất có một tên sách lạc khỏi dòng đó, chính là cuốn Miền đất quả vàng."

Trong danh sách kể trên, tôi có trót thích Pút-xkin và Thạch Lam.

Tất nhiên, đây là quan điểm của nhân vật của Nguyễn Bình Phương, còn bản thân NBP có nghĩ thế không thì khó mà biết.

+ Đọc NBP thì đoán NBP thích (và chịu ảnh hưởng) hai người này: W. Faulkner và G.G. Marquez.

+ Phạm Thị Hoài cũng có lần "tẩn" Pau-tốp-xky trong Thiên sứ

"Hai cuốn sách quyết định bộ mặt tinh thần của cả một thế hệ. Con đẻ của thế hệ ấy, không thành những Ruồi Trâu thì thành Pavel Kortshagin, đi dứng, nói năng, tư duy, sống và yêu đương trong bộ đồng phục tinh thần may sẵn, hiệu Voynich hay Ostrovsky. Có vài mẩu tinh thần khác phụ thêm, tạo cảm giác nào đó như thể phong phú và sinh động trong khuôn khổ, đại loại “Jane Eyre”, mélodrame lâm li hậu hĩnh, “Nam tước Phôn Gôn-rinh”, mélodrame lâm li không hậu hĩnh cho lắm, hay Pautovsky – Bông hồng vàng, mélodrame ngọt ngào cố tỏ vẻ anti-mélodrame thông tục."

+ Vừa đọc lại Xe lên xe xuống, tôi vừa cố hình dung các thao tác của dịch giả nếu dịch cuốn sách sang tiếng Anh. Sẽ có vô số khó khăn và nếu giải ra được thì cũng cần kha khá cước chú! Ví dụ :"Ở miền núi người ta thích lăng-cu-dơ vì xe gầm cao, máy khỏe." Dịch giả, cứ cho là một người Anh hay Mỹ thạo tiếng Việt, có khi google mướt mồ hôi chưa ra chữ "lăng-cu-dơ"; trong khi độc giả Việt thì nhanh chóng luận ra lăng-cu-dơ là Land Cruiser!  Ví dụ 2: "Tàn cuộc nhậu, Trang kéo cả bọn đi hát karaokê." Câu này dịch ra tiếng Anh thì đơn giản, tuy nhiên có lẽ cần chú thích "karaoke: nơi người Việt thường tụ tập ca hát sau khi ăn uống, thường dành cho một nhóm bạn bè. Tuy vậy, một số điểm hát karaoke có thể biến tướng thành nhà thổ." Ví dụ 3: "Các bác đến bốc mộ phải không?".  Cái đoạn bốc mộ, cải mả này, người Việt trong miền Nam chưa chắc đã hiểu, nên ắt dịch giả phải chú thích dài dòng. 

Nói chung, dịch NBP sẽ rất khoai.  

+ Nói vậy, nhưng nhà văn viết trước nhất cho độc giả của thứ tiếng của mình đọc. Nếu gọt lại cho dễ dịch, thì như Eco nói, thứ văn ấy sẽ giống như bữa ăn của các hãng máy bay: ăn thì cũng được, không độc hại gì nhưng vô vị.



Thứ Sáu, 24 tháng 5, 2013

Fragments No.11

+ Về cái chết: 

" Thật tuyệt vời khi hi sinh dưới bầu trời rộng, trong trận xung đột dữ dội, khi ta còn trẻ và thể lực săn chắc, trong âm thanh kèn lệnh chiến thắng; phật lòng hơn, dĩ nhiên, nếu chết vì vết thương sau những đớn đau kéo dài, trong lều quân y viện; còn cay đắng hơn - kết thúc những ngày tàn trên giường của mình, trong sự rền rĩ cảm thông của người thân, dưới những ngọn đèn bị che mờ đi và giữa những lọ thuốc. Nhưng thật hoàn toàn không chịu đựng nổi - chết già và tàn tật trong một làng quê xa lạ không ai biết tới, trên  chiếc giường nhà trọ thông thường, không để lại một ai ở trên thế gian này."  (Hoang mạc Tác-ta, Dino Buzzati).  

Chính vì thế mà sau trọn quãng đời thanh xuân bị gặm mòn ở một pháo đài heo hút, chàng sĩ quan Drogo, khi ấy đã già, yếu, bị tống cổ khỏi pháo đài trong lúc sự kiện chàng chờ đợi mòn mõi suốt ba mươi năm là chiến tranh đang đến gần, đã ngồi thẳng dậy, chỉnh lại quân phục, và mỉm cười chào cái chết. Ít ra thì chàng đã chết một cái chết, tuy không huy hoàng, nhưng rất chỉnh tề. 

Bài học rút ra ở Việt Nam là, với tình hình giao thông như hiện tại, mỗi khi ra đường cần ăn mặc nghiêm chỉnh.

+ Về đọc nhanh hay đọc chậm: 

" Đọc chầm chậm thôi cô bé ạ, cô phải đọc Kipling thật chậm rãi. Cẩn thận xem chừng dấu phẩy ở đâu để cô có thể tìm ra những chỗ nghỉ tự nhiên của câu. Ông ấy viết bằng bút và mực. Tôi tin là ông rời mắt khỏi trang giấy và ngước lên nhiều lần, nhìn đăm đăm qua cửa sổ và lắng nghe tiếng chim, như đa số những người viết cô độc thường làm. Có người viết không biết tên của những con chim, nhưng ông ấy biết. Mắt cô nhanh quá, Bắc Mỹ quá. Cô hãy nghĩ đến nhịp độ cây bút của ông ấy." (Bệnh nhân người Anh, Michael Ondaatje).

Đoạn này là đoạn ông bệnh nhân người Anh nói với cô y tá.

Đọc nhanh có khi làm hỏng việc đọc. Cho nên tôi rất không cảm tình với những ai cổ vũ cho việc đọc nhanh. Đọc chậm một cuốn sách có khi tốt hơn đọc nhanh mười cuốn sách. Vả lại, nếu muốn đọc nhanh, chỉ có cách là đọc nhiều; cũng như muốn bơi nhanh chỉ có cách bơi nhiều. Hay hơn cả là có thể đọc nhanh, chậm tùy ý - cái gì cũng vậy, làm chủ được tốc độ vẫn tốt hơn. Có cuốn sách 500 trang tôi chỉ đọc trong nửa tiếng đồng hồ, vì sau nửa tiếng ấy, tôi biết rằng sách thế này thì vứt đi cho nhanh. 


Thứ Bảy, 18 tháng 5, 2013

Một đời với sách

Bài tiểu luận 'A Life with Books' vốn được Julian Barnes viết cho Tuần lễ các nhà bán sách độc lập, sau được đưa vào làm lời tựa cho tập Through the Windows - Seventeen Essays and a Short Story.

Tôi dịch bài này cho các bạn tôi, những người mê đọc sách, mê mua sách và mê sở hữu sách.



MỘT ĐỜI VỚI SÁCH


Tôi đã sống trong sách, vì sách, do sách và cùng sách; trong những năm gần đây, tôi đủ may mắn để sống nhờ sách. Và chính là qua sách mà lần đầu tiên tôi nhận ra có những thế giới khác bên ngoài thế giới của mình; lần đầu tiên tưởng tượng ra là một người khác thì có cảm giác thế nào; lần đầu tiên chạm trán mối liên kết thân mật sâu xa tạo ra khi giọng nói của nhà văn đi vào bên trong đầu độc giả. Có lẽ tôi đã may mắn khi trong mười năm đầu đời không có sự cạnh tranh của ti vi; và rồi khi cuối cùng nhà tôi cũng có một cái thì nó bị bố mẹ tôi kiểm soát chặt chẽ. Cả hai đều là giáo viên, do vậy lòng quý trọng sách vở chữ nghĩa là đương nhiên. Chúng tôi không đi nhà thờ, nhưng chúng tôi lại đến thư viện.

Ông bà ngoại tôi cũng là giáo viên. Ông ngoại có một bộ Dickens đặt qua đường bưu điện và một bộ Bách khoa toàn thư Nelson gồm hai mươi lăm cuốn bìa đỏ khổ nhỏ. Sách của bố mẹ tôi sang hơn và phong phú hơn. Những năm sau này họ trở thành hội viên của Folio Society[1]. Hồi nhỏ tôi cứ ngỡ nhà nào cũng có sách, rằng như thế là bình thường. Cũng bình thường là việc sách được đánh giá qua độ hữu ích: để học ở trường, để cung cấp và kiểm tra thông tin, và để giải trí trong những kỳ nghỉ. Bố tôi có một bộ sưu tập sách Fourth Leaders của tạp chí Times, còn mẹ tôi có thể thưởng thức một cuốn của Nancy Mitford. Kệ sách của họ còn có những giải thưởng bọc bằng da mà bố tôi giành được tại trường hạt Ilkeston từ năm 1921 đến 1925, hầu hết là cho "Thành tựu toàn diện" hoặc "Xuất sắc toàn diện": The Pageant of English Prose, Poetical Works của Goldsmith, Dante của Cary, Last of the Barons của Lytton, The Cloister and the Hearh của Reade.

Hồi tôi còn nhỏ những tác phẩm này không làm tôi hào hứng chút nào. Chỉ khi chớm có ý thức về tính dục thì tôi mới bắt đầu nghiên cứu kệ sách của bố mẹ (cũng như tủ sách của ông ngoại và ông anh tôi). Tủ sách của ông ngoại chẳng có gì khêu gợi lắm trừ một hai cảnh trong Bhowani Junction của John Master; bố mẹ tôi thì có The Outline of Art của William Orpen trong đó có nhiều minh họa trắng đen hết sảy; nhưng anh tôi thì sở hữu một bản Satyricon của Petronius, là cuốn nóng bỏng nhất trên các kệ sách ở nhà. Người La Mã rõ là sống một cuộc đời náo nhiệt hơn so với đời sống tôi chứng kiến quanh mình ở Northwood, Midllesex. Yến tiệc, nô lệ gái, tình dục tập thể, đủ thứ. Tôi không biết là ông anh tôi có để ý thấy sau một thời gian thì một số trang trong cuốn Satyricon của mình gần như long khỏi gáy không. Thật là ngớ ngẩn vì tôi cứ ngỡ tất cả tác phẩm cổ điển của anh mình đều có nội dung phong tình tương tự. Tôi bỏ ra bao nhiêu ngày tẻ ngắt với những cuốn của Hesiod rồi mới nhận ra rằng không phải là như thế.

Con phố tấp nập ở chỗ tôi có một cửa tiệm mà chúng tôi gọi là "tiệm sách". Thực ra, đó là một cửa hàng bán đồ trang trí và văn phòng phẩm có một phòng ở dưới lầu, phân nửa diện tích dành cho sách. Một số cuốn ở đây khá oách - sách cổ điển của nhà Penguin, tiểu thuyết của Penguin và Pan. Phần nào trong tôi ngỡ rằng đây là tất cả sách có trên đời. Ý tôi là, tôi biết trong thư viện công cộng có những đầu sách khác, rồi sách dùng ở trường thì lại khác nữa, nhưng xét về một thế giới sách rộng lớn hơn thì tôi tưởng những cuốn ở đây khá là tiêu biểu. Thỉnh thoảng, chúng tôi có thể ghé thăm một tiệm sách "thực thụ" ở một khu hay thị trấn khác, thường hóa ra lại là một cửa hàng thuộc chuỗi W.H.Smith.

Nguồn sách duy nhất khác có được là nhờ giành các giải thưởng ở trường (tôi học Trường City of London, khi đó ở trên đê Victoria bên cạnh cầu Blackfriars). Những người đoạt giải được phép chọn sách cho mình, thông thường dưới sự hướng dẫn của cha mẹ. Nhưng dù gì thì đây là một hoạt động thu hẹp lại hơn là mở rộng ra. Bạn chỉ có thể chọn sách trong số những cuốn có trong một phòng trưng bày riêng trong một tòa nhà văn phòng ở South Bank: một nơi vừa hơi bí ẩn vừa hoàn toàn không hấp dẫn. Sau này tôi khám phá ra đó lại là một bộ phận khác của W.H.Smith. Sách ở đây tuyền là những cuốn nặng trịch, giá trị, nhưng có lẽ để trầm trồ hơn là để đọc. Giải thưởng của nhà trường thường có một giá trị nhất định, bạn được chọn một cuốn sách trong khoản đó, nó sẽ biến mất khỏi tầm nhìn của bạn, để tái xuất hiện trong Ngày trao giải của Thị trưởng, khi đó ngài Thị trưởng London, đầy đủ mũ áo trang trọng, sẽ đích thân trao nó cho bạn. Bấy giờ cuốn sách sẽ có một trang được dán vào bìa trong mô tả thành tích của bạn, trong khi bìa vải bên ngoài sẽ được dập phù hiệu trường mạ vàng. Tôi không nhớ lắm những tựa sách mà tôi đã vâng lời bố mẹ chọn. Nhưng năm 1963 khi giành giải Mortimer English tôi đã mười bảy tuổi và phải tự đến cái nhà kho nghiêm túc ấy, ở đó tôi tìm thấy (liệu có thể là hớ hênh của ai?) một cuốn Ulysses. Tôi vẫn có thể nhìn thấy vẻ mặt không tán thành của ngài Thị trưởng khi bàn tay đeo găng bảo vệ của ngài trao cho tôi cuốn tiểu thuyết có tiếng là bẩn thỉu này.

Đến lúc này, tôi đã bắt đầu nhìn sách không chỉ ở công dụng của nó: là nguồn thông tin, hướng dẫn, niềm vui sướng hay tính khêu gợi.Trước hết là có sự háo hức và ý nghĩa trong việc sở hữu. Sở hữu một cuốn sách nhất định - và chọn nó mà không cần ai giúp - là để xác định bản thân. Và sự tự xác định đó phải được bảo vệ về phương diện vật lý. Nên tôi thường bao những cuốn sách yêu thích nhất của mình (sách bìa mềm, chắc chắn như vậy, do hạn chế về tài chính) bằng ni-lông trong. Tuy nhiên, đầu tiên tôi sẽ viết tên mình - với kiểu chữ nghiêng mới luyện được, bằng mực xanh biển, gạch chân bằng mực đỏ - trên mép bìa trong. Tờ ni lông trong sau đó sẽ được cắt sao cho vừa vặn để bao bọc và bảo vệ cả chữ ký sở hữu kia nữa. Một số cuốn này - ví dụ, bản dịch các tác phẩm cổ điển Nga của David Magarshak nhà Penguin - vẫn còn trên kệ sách của tôi.

Tự xác định mình là một hình thức của điều kỳ diệu. Sau đó tôi dần dần được giới thiệu một hình thức khác: đó là điều kỳ diệu của sách cũ, đã qua sử dụng, không còn mới. Tôi nhớ một hàng Auden bản in đầu trong tủ kính một người láng giềng: một người thực sự quen biết Auden mấy chục năm về trước và thậm chí còn chơi cricket cùng với ông. Những điều này với tôi thật đáng kinh ngạc. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy một nhà văn, hay quen biết ai có quen biết một nhà văn. Có thể tôi đã nghe một hai người nói trên sóng phát thanh, thấy một hai người trên ti vi trong chương trình phỏng vấn "Gặp mặt" của John Freeman. Nhưng mối liên hệ gần gũi nhất của gia đình tôi với Văn chương là sự kiện bố tôi từng học ngôn ngữ hiện đại ở Đại học Nottingham, mà Giáo sư môn đó là Ernest Weekley, vợ ông đã bỏ trốn cùng D.H. Lawrence. Ồ, và mẹ tôi từng nhìn thấy R.D.Smith, chồng của Olivia Manning, trên một sân ga ở Birmingham. Tuy nhiên ở đây lại là những bản sách thuộc sở hữu của một người quen biết với một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất nước còn sống. Hơn thế nữa, những quyển sách này chứa đựng những chữ vẫn còn vang vọng của Auden dưới cái hình thức mà lần đầu tiên nó đến với thế giới. Tôi cảm nhận được điều kỳ diệu này một cách sâu sắc, và muốn có một phần của nó. Do vậy, từ những năm sinh viên, bên cạnh việc là người sử dụng sách, tôi bắt đầu trở thành một người sưu tập sách và khám phá ra rằng chẳng phải tất cả tiệm sách đều thuộc W.H.Smith.

Trong thập kỷ kế tiếp hay đại khái vậy - từ cuối những năm sáu mươi đến cuối những năm bảy mươi - tôi trở thành một kẻ hăng say săn lùng sách, lái xe đến các thị trấn và thành phố của nước Anh trên chiếc Morris Traveller của mình, chất đầy xe những cuốn sách mua với một tốc độ vượt xa bất kỳ tốc độ đọc nào. Đây là thời mà hầu hết thị trấn cỡ vừa nào cũng đều có một tiệm sách cũ lớn, lâu đời, có thể tìm thấy được gần nhà thờ của thành phố; theo như tôi nhớ, bạn thường có thể đậu xe ngay bên ngoài bao lâu cũng được. Một trăm phần trăm tiệm sách này là tiệm sách độc lập không thuộc một chuỗi nào - đôi khi có một hàng sách mới ngay cửa trước; vào các tiệm này ngay lập tức tôi cảm thấy thoải mái như ở nhà. Thoạt đầu, không khí thật khác lạ. Ở đây sách dường như được coi là quý giá và là một phần của một văn hóa tiếp diễn. Đến giờ thì có lẽ tôi ưa sách cũ hơn sách mới. Ở Mỹ những cuốn như vậy được gọi một cách khinh thị là "sách trước đây của người khác", nhưng chính sự tiếp diễn trong sở hữu này là một phần vẻ quyến rũ của chúng. Một cuốn sách giãi bày về thế giới cho một người, rồi một người khác, thế hệ này qua thế hệ khác; những bàn tay khác nhau cầm cùng một cuốn sách và rút ra được đôi chút khôn ngoan đôi khi giống nhau đôi khi khác nhau từ đó. Sách cũ phơi bày ra tuổi tác: chúng có vết ố như người già có da mồi. Mùi của chúng dễ chịu - kể cả khi hôi mùi thuốc lá và (thi thoảng) mùi xì gà. Nhiều cuốn có thể làm rơi ra những vật dậy mùi của một thời: thông báo xa xưa của nhà xuất bản và những thẻ đánh dấu sách cũ mèm- thường cho các công ty bảo hiểm hay xà bông Sunlight.

Nên tôi thường lái xe đến Salisbury, Petersfield, Aylesbury, Southport, Cheltenham, Guidford, chui vào những căn phòng ở mặt sau và những nhà kho khóa kín bất cứ khi nào có thể. Tôi kém thoải mái hơn ở những nơi tỏa mùi của những tòa nhà sang trọng, hay những nơi biết quá rõ giá trị của từng vật dụng rao bán. Tôi thích vẻ lộn xộn dân chủ của những cửa hàng mà ở đó hàng hóa được sắp xếp qua loa và có thể mặc cả. Hồi ấy, ngay cả ở những tiệm bán sách mới, cũng chưa hề có cái kiểu quay vòng nhanh dữ dội mà cách quản lý trung tâm hiện đại áp đặt. Ngày nay, thời gian trung bình trên kệ của một cuốn tiểu thuyết mới bìa cứng - cứ cho là trước hết nó có thể lên kệ - là bốn tháng. Hồi ấy, sách cứ nằm trên kệ cho đến khi có người mua, hoặc khi người ta miễn cưỡng đưa vào một đợt bán giảm giá đặc biệt, hoặc chuyển sang khu sách cũ, ở đó chúng có thể nghỉ ngơi hàng năm trời. Cuốn sách nào mà bạn chưa đủ tiền mua, hay không chắc là bạn thực sự muốn mua, thường năm sau quay lại bạn vẫn thấy còn ở đó. Những tiệm sách cũ cho thấy phán xét của hậu thế thường hóa ra là nghiêm trọng như thế nào. Charles Morgan, Hugh Walpole, Dornford Yates, Lord Lytton, Bà Henry Wood - sách của họ xếp dài hàng thước, chờ thời của mình quay lại. Nhưng rất hiếm khi.

Tôi mua sách với một khao khát mà nhìn lại tôi phải công nhận đó là một dạng quẫn: thì đấy, chứng cuồng thư (bibliomania) có phải lạ lùng gì. Mua sách đương nhiên chiếm hơn nửa thu nhập của tôi. Tôi mua ấn bản đầu của các nhà văn mà tôi ngưỡng mộ nhất: Waugh, Greene, Huxley, Durrel, Betjeman. Tôi mua ấn bản đầu của các thi sĩ thời Victoria như Tennyson và Browning (cả hai tôi đều chưa đọc) vì chúng có vẻ rẻ đáng kinh ngạc. Lằn ranh giữa sách tôi thích, sách tôi nghĩ tôi sẽ thích, sách tôi hy vọng tôi sẽ thích, và sách tôi hiện không thích nhưng nghĩ rằng một ngày nào đó trong tương lai sẽ thích gần như mờ mịt. Tôi thu thập sách King Penguins, sách của nhà Batsford về đồng quê và loạt Nước Anh qua hình ảnh do nhà Collins xuất bản trong những năm 1940 và 1950. Tôi mua các tập thơ mỏng và các bách khoa thư tiếng Pháp bìa da do Larousse ấn hành; truyện tranh và các vật lưu niệm thời Victoria; các từ điển lỗi thời và tạp chí đóng tập từ Cornhill cho tới Strand. Tôi mua một bản Sensation!, ấn bản Bỉ đầu tiên của cuốn Scoop của Waugh. Thậm chí tôi còn bịa ra một hạng mục là Sách Kỳ Cục, để biện minh cho những khoản mua lập dị như Pig-Sticking or Hog-Hunting của Sir Robert Baden-Powell, Physical Energy của Bombadier Billy Well, Guide to the Hand của Cheiro, va Tap Dancing Made Easy của "Isode". Tất cả hãy còn trên kệ sách nhà tôi, hầu như không động đến. Tôi cũng mua những cuốn mà chả có cớ gì để mua cả, kể cả vào thời điểm ấy hay sau này - ví dụ như ba tập hồi ký của Sir Anthony Eden (bản in lần đầu, còn áo, và chắc chắn là người chủ trước chưa đọc.) Có lý do nào trong việc mua cuốn đó đâu? Trường hợp của tôi còn tồi tệ hơn do sự thể tôi là, theo thuật ngữ trong ngành, một tay cầu toàn (completist). Cho nên, ví dụ, vì trót ngưỡng mộ vài vở kịch của Shaw đã xem, thế là rốt cuộc tôi mua hàng chồng tác phẩm của ông, không bỏ qua cả những tập giấy mỏng tối nghĩa bàn về ăn chay. Vì Shaw quá phổ biến, và do đó bản in tác phẩm của ông là rất nhiều, tôi không bao giờ phải mất quá nhiều tiền cho bất kỳ cuốn nào trong bộ sưu tập này. Điều này cũng có nghĩa là, ba mươi năm sau, bớt khoái kiểu cách mô phạm và óc tự ý thức của Shaw, quyết định bán sạch thì tôi chịu lỗ kha khá.

Thi thoảng, có những khám phá thật hấp dẫn. Trong nhà kho của F.Weatherhead & Son ở Aylesbury tôi tìm được một bản của hai khổ đầu bài Don Juan của Byron, in năm 1819 không ghi tên tác giả. Bản in đầu rất hiếm này, đóng gáy vải lam, làm tôi tốn hết 62.5 bảng. Tôi cũng muốn giả vờ (thỉnh thoảng tôi làm thế) rằng là nhờ kiến thức chuyên môn về thư mục Byron mà tôi phát hiện ra ấn bản này. Nhưng như thế thì phải bỏ qua cả dòng ghi chú bằng bút chì của người bán sách bên trong bìa trước ("Khổ I và II xuất hiện ở London tháng Bảy năm 1819 không có tên tác giả lẫn tên người bán trong một cuốn sách khổ bốn (quarto) mỏng"). Cái giá 62.5 bảng do đó chẳng phải là bán hớ; mà nhiều khả năng là, đó là dấu hiệu cuốn sách đã nằm trên kệ hàng thập kỷ.

Tuy nhiên, tôi cũng thường xuyên mắc sai lầm. Ví dụ như, tại sao tôi lại mua của tiệm D.M. Beach ở Salisbury, cuốn Oliver Twist, bản gốc ra dưới dạng hàng tháng do Bentley's Miscellany phát hành lần đầu? Đó là một ý tưởng hay vì tình trạng của chúng hoàn hảo, hình ảnh, bìa và quảng cáo đều còn tốt. Đó là một ý tưởng tồi vì một phần (đầu hoặc cuối) bị lạc mất - lý giải tại sao giá cả của bộ là chấp nhận được. Đó là một ý tưởng lạc quan vì tôi chắc mẩm mình sẽ có thể lùng ra được phần còn thiếu một lúc nào đó trong cuộc đời sưu tầm của mình. Không cần phải nói, tôi chưa bao giờ làm được, và sự ngu ngốc ấy khiến tôi lãng tránh kệ sách của mình trong nhiều năm.

Rồi có những thời khắc khi tôi nhận ra thế giới của sách và sưu tầm sách không hoàn toàn giống như tôi tưởng tượng. Trong khi không xa lạ gì với những trường hợp giả mạo sách nổi tiếng, tôi luôn luôn tưởng rằng nhà sưu tập toàn là những người trung thực và ngay thẳng (tôi cũng từng nghĩ tương tự về những người làm vườn.) Rồi, một ngày nọ, tôi đến tiệm Lilies ở Weedon, Bucks - đó một cuộc gặp có lịch hẹn trước - một tòa lâu đài kiểu Victoria ba mươi lăm phòng đầy nghẹt sách khiến một chuyến ghé thăm cũng mất gần trọn một ngày. Trong khu vực ấn bản đầu tôi tìm thấy một cuốn sách mà tôi đã đeo đuổi hàng năm trời: Vile Bodies của Evelyn Waugh. Nó thiếu áo (chuyện bình thường, vì trước đây ít người mua tác phẩm của Waugh lại không ném áo đi), nhưng tình trạng nguyên vẹn. Giá thấp đến đáng kinh ngạc. Rồi tôi đọc thấy một ghi chú nhỏ bằng bút chì giải thích lý do. Đó là chữ viết kèm chữ ký của Roger Senhouse, chủ nhà xuất bản ở Bloomsburyite, tình nhân cuối cùng của Lytton Strachley. Tôi nhớ dòng chữ đó viết thế này: "Bản in lần hai này được để lại trên kệ của tôi thế vào chỗ bản in lần đầu của tôi". Tôi cực kỳ choáng váng. Rõ ràng, đó không phải là hành động bộc phát. Thủ phạm hẳn đã đến nhà Senhouse cùng bản sách của mình giấu trong người - tôi đoán người này là đàn ông chứ không phải phụ nữ - và rồi xoay xở đánh tráo khi không có ai trong phòng. Đó có thể là ai? Liệu có bao giờ tôi bị cuốn hút vào làm một việc như thế không? (Có, về sau tôi có bị cuốn hút, thế đấy). Và liệu ai đó có thể làm như vậy với tôi và bộ sưu tập của tôi? (Tới giờ thì tôi chưa thấy.)

Gần đây, tôi nghe được một dị bản của câu chuyện này, từ một góc độ khác. Một độc giả gửi cho một tác giả còn sống khá nổi tiếng một bản của một tiểu thuyết thời kỳ đầu của ông ấy (một cuốn mà số phát hành là dưới một nghìn bản), xin chữ ký và kèm cước gửi lại. Sau một thời gian, vị độc giả ấy nhận được một bưu kiện , trong đó có cuốn tiểu thuyết tác giả ký đàng hoàng - ngoại trừ việc ông ta đã giữ lại bản in đầu quý giá và thay vào đó bản in lần thứ hai.

Hồi đó, săn sách thường phải đi rất xa, tích lũy chậm chạp và thường bực dọc; tác dụng phụ là khuynh hướng khi không tìm được thứ bạn cần, bạn sẽ mua tá lả cả đống để chứng tỏ rằng chuyến đi của bạn không lãng phí. Cách thức tích góp này bây giờ không thể làm được nữa, không còn có ý nghĩa nữa. Tất cả cửa tiệm lâu đời, bề bộn, vị trí tuyệt đẹp ấy đã biến mất. Cuốn The Book Browser's Guide to Secondhand và Antiquarian Bookshops của Roy Harly Lewis (ấn bản lần thứ hai, 1982) viết về tiệm D.M. Beach ở Salisbury: "Có một số tiệm sách nằm ở các địa điểm giá trị đến nỗi chủ nhân có thể kiếm được một khoản kha khá bằng cách bán đi rồi làm việc ở nhà... Trong khi giá bất động sản ở Wiltshire không thể đọ nổi với (giả dụ) London, vị trí góc tuyệt vời này trên High Street là một khoản tiền khổng lồ cho bất kỳ tiệm sách nào." Tiệm Beach đóng cửa năm 1999; tiệm Weatherhead (tiệm này có túi giấy in riêng) năm 1998. Tiệm Lilies - vốn có đầy các mẫu vật lạc loài như khuôn thạch cao mặt của John Cowper Powy và 'cái đồng hồ thuộc về những người lắp động cơ cho chiếc tàu nơi Shelley chết đuối' - không còn nữa. Càng lớn, bán càng nhiều thứ, càng dễ bị tổn thương, dường như ấy là quy luật.

Với Internet, công cuộc sưu tầm đã thay đổi hoàn toàn. Tôi đã mất hơn chục năm mới tìm được bản in đầu của Vile Bodies với giá 25 bảng. Ngày nay, chỉ cần 30 giây trên abebooks.com hai tá bản in đầu tình trạng và giá cả khác nhau sẽ hiện ra (bản đắt nhất, với áo hiếm nhất, có giá từ 15.000 đến 28.000 bảng.) Khi tiểu thuyết gia người Anh tuyệt diệu Penelope Fitzgerald mất, để tưởng niệm bà tôi quyết định mua các bản in đầu (có áo) bốn tiểu thuyết cuối cùng của bà - bốn cuốn làm nên sự vĩ đại của bà. Việc này tất tần tật còn tốn ít thời gian hơn so với việc ngày nay tìm chỗ đậu xe ở nơi tiệm Beach từng tồn tại. Và mặc dù tôi có thể huyên thuyên về sự Lãng mạn và Khả năng cầu may của Khám phá - và đúng là có sự lãng mạn - cách mua bán cũ không tiết kiệm cả về thời gian lẫn tiền bạc.

Tôi bớt là người sưu tầm sách (hay, có lẽ, kẻ sùng bái sách) sau khi in cuốn tiểu thuyết đầu tiên. Có lẽ, ở một tầng ý thức ngầm nào đó, tôi quyết định rằng vì bây giờ mình đã sản xuất ra những bản in đầu của chính mình, mình ít cần của người khác hơn. Thậm chí tôi còn bắt đầu bán sách, điều mà có thời là chuyện không tưởng tượng nổi. Nhưng việc này không làm giảm tốc độ tích lũy sách của tôi: tôi vẫn mua sách nhanh hơn mức tôi có thể đọc. Nhưng một lần nữa, điều này có cảm giác hoàn toàn bình thường: thật là kỳ cục chừng nào nếu xung quanh bạn chỉ có đủ sách để bạn đọc trong phần còn lại của cuộc đời . Và tôi vẫn gắn bó sâu sắc với những cuốn sách in và tiệm sách thực thụ. Áp lực hiện tại lên cả hai là to lớn. Cuốn tiểu thuyết gần đây nhất của tôi giá 12.99 bảng trong một tiệm sách, mua trên mạng khoảng nửa giá đó (kể cả cước), và phiên bản Kindle chỉ có 4.79 bảng. Có vẻ không có câu trả lời về mặt kinh tế học. Tuy vậy, may thay kinh tế học chưa bao giờ hoàn toàn kiểm soát cả hành vi đọc lẫn hành vi mua sách. John Updike, gần cuối đời, đã trở nên rất bi quan về tương lai của sách in:

Vì còn ai, trong tương lai không tưởng tượng nổi ấy
Khi tôi chết, sẽ đọc? Trang giấy in
Chỉ là sự kỳ lạ ngắn ngủi của một nửa thiên niên kỷ...

Tôi lạc quan hơn, cả về việc đọc lẫn về sách. Sẽ luôn luôn có những người không đọc sách, những độc giả tồi, những độc giả lười biếng - họ luôn luôn tồn tại. Đọc là một kỹ năng đa số nhưng là một nghệ thuật thiểu số. Tuy nhiên không gì có thể thay thế mối tương thông chính xác, phức tạp, tinh tế giữa tác giả vắng mặt và độc giả có mặt và bị mê hoặc. Tôi cũng không nghĩ là công cụ đọc sách điện tử sẽ hoàn toàn thay thế sách giấy - ngay cả khi nó chiếm ưu thế về số lượng. Trên tay bạn mỗi cuốn sách có cảm giác và trông khác nhau; mỗi lượt tải về cho Kindle có cảm giác và trông hoàn toàn như nhau (mặc dù có lẽ công cụ đọc sách điện tử một ngày nào đó sẽ có chức năng mùi, bạn có thể bấm vào đó và cuốn tiểu thuyết Dickens bản điện tử của bạn đột nhiên tỏa mùi giấy ẩm ướt, mùi vết ố và mùi nicotine). Sách phải cố chứng minh sự tồn tại của mình - tiệm sách cũng vậy. Sách phải trở thành một cái gì đó khiến người ta khao khát hơn, thèm muốn hơn: không phải là hàng xa xỉ, nhưng phải được thiết kế đẹp, hấp dẫn, làm cho ta muốn cầm nó lên, giữ chúng, nghĩ về việc đọc đi đọc lại chúng, và nhiều năm về sau nhớ lại rằng đây chính là ấn bản mà ta lần đầu tiên chạm mặt những gì chứa đựng bên trong. Tôi không có thành kiến với công nghệ mới; chỉ có điều sách trông như thể chứa đựng kiến thức, trong khi công cụ đọc sách điện tử trông như thể chứa đựng thông tin. Các giải thưởng ở trường của cha tôi ngày nay vẫn còn trên kệ, chín chục năm sau khi ông đoạt giải. Tôi thà đọc thơ của Goldsmith dưới dạng này hơn là đọc trên mạng.

Nhà văn và con người đam mê nghệ thuật người Mỹ Logan Pearsall Smith từng nói: "Một số người nghĩ rằng đời là quan trọng, nhưng tôi thích đọc hơn." Lần đầu đọc thấy câu này, tôi nghĩ đó là một câu nói khôn ngoan; bây giờ thì tôi thấy câu đó - cũng như nhiều câu cách ngôn khác - là sai và cạn. Đời và đọc không phải là những hoạt động riêng rẽ. Sự phân biệt là giả tạo (cũng giống như khi Yeat tưởng tượng ra sự lựa chọn của nhà văn giữa "hoàn thiện cuộc đời hay tác phẩm"). Khi bạn đọc một cuốn sách lớn, bạn không thoát khỏi cuộc đời, trái lại bạn càng cắm sâu hơn vào đó. Có thể có một cuộc đào thoát hời hợt - sang những đất nước, tục lệ, cách nói khác - nhưng việc bạn làm về căn bản là nâng tầm hiểu biết của bạn về những tinh tế, các nghịch lý, niềm vui, nỗi đau và những sự thật của cuộc đời. Đọc và đời không tách biệt mà cộng sinh với nhau. Và dành cho khám phá này, có, và vẫn còn, một biểu tượng hoàn hảo: sách in.

 Julian Barnes








[1] Folio Society: Nhà xuất bản chuyên in sách chất lượng cao, thật đẹp.

Thứ Ba, 14 tháng 5, 2013

Góp thêm một vài ý kiến về việc đọc

Nhờ đọc Mr. Tin Văn mà biết được tập tiểu luận của Barnes, sau đó nhờ giang hồ mà ngay lập tức có sách để đọc. Lời tựa của cuốn này, A Life with Books, đối với dân ghiền đọc sách và ghiền mua sách, đọc hẳn nhiên là sướng, vì thấy thằng cha này giống mình quá. Cái thể loại ấy, thể loại ghiền đọc và ghiền mua sách, có nhiều điểm giống nhau, vì thế kể lể một hồi sẽ ra những chuyện giống nhau.

Alberto Manguel, người từng đọc sách cho Borges nghe, là một tay ghiền sách thứ thiệt. Trong A History of Reading, Manguel kể chuyện thời dậy thì, ông mò mẫm trong bách khoa toàn thư các mục từ liên quan đến sex như masturbation, penis, vagina, prostitution.v.v. Rồi khi cha ông bất ngờ bước vào phòng thì ông giật mình vì tưởng cha biết mình đọc gì. Nhưng khi phát hiện rằng cha chẳng biết mình mò mẫm gì trong bộ bách khoa toàn thư ấy, ông rất sướng. Ông kể mình đã tiếp tục hoàn thiện việc giáo dục giới tính bằng cách đọc tiểu thuyết, trong số đó có The Conformist của Alberto Moravia và, đoán xem, Lolita của Nabokov!


Julian Barnes cũng thế, mò được cuốn sách của ông anh, Satyricon của Petronius, thấy nhiều hình mình họa rất nóng thì khoái quá, tưởng mấy cuốn cổ điển La Mã khác cũng thế, sau mất mấy ngày vọc Hesiod mà chẳng tìm được gì mới sáng ra.


Phần kế tiếp sẽ rất hấp dẫn, vì tôi sắp sửa tự thú những cuốn sách nào là thầy giáo dục giới tính cho tôi:)  Đầu tiên là Timur và đồng đội, vì có cảnh Timur hôn lên má một cô bạn gái. Hồi lớp tám có thích một cô bạn kia, thế là đem cuốn này cho mượn, cốt để cho cô ấy đọc được đoạn đó. Sau đó là, nặng đô hơn nhiều, Người tình của Chatterley phu nhân, và Ngôi nhà của những hồn ma của Isabel Allende! Sau này thì đọc được một cuốn non-fiction quên tựa bằng tiếng Anh, đâm ra  cả từ vựng về lĩnh vực này cũng trở nên "hoàn toàn". :)


“Books are finite, sexual encounters are finite, but the desire to read and to fuck is infinite; it surpasses our own deaths, our fears, our hopes for peace.” ― Roberto Bolaño


+ Cập nhật về tình hình bầu chọn tác phẩm văn xuôi Việt.


Chủ Nhật, 12 tháng 5, 2013

Fragments No. 2

+ Số người đọc sách đã không nhiều lắm, ấy vậy mà họ lại còn ghét nhau.

+ Đọc tập essay của Julian Barnes, có bài viết về dịch Bà Bovary của Flaubert sang tiếng Anh thật thú. Bắt gặp trong bài này một câu, JB trích của người khác, "Translation is a business that sensible people should best avoid." Quả chỉ có người hâm hâm mới lao đầu vào dịch thuật, he he.

+ Một thách thức nữa đối với người dịch: làm sao dịch được cảm giác có từ cái nhìn? Cái nhìn ở đây không phải là cái nhìn theo nghĩa quan điểm, mà cái nhìn tức là cái nhìn. Ý là cái nhìn vật lý. Giả dụ, văn của Coetzee nổi tiếng là tinh, gọn. Điều này thể hiện ở cả cách ông dùng chữ: phần lớn là chữ ngắn, có một hoặc hai âm tiết. Nhìn vào một trang sách của Coetzee trong nguyên bản tiếng Anh, người đọc ngay lập tức cảm nhận được yếu tố này. Làm sao bản tiếng Việt chẳng hạn chuyển tải được cảm giác đó, chưa bàn tới vấn đề ngữ nghĩa?

+ On the dotted line: cụm từ này trong Lolita từng gây tốn bao bút mực. Trong Slow Man của Coetzee, khi định cưa chân Paul, bác sĩ hỏi: " I am not going to ask you to sign on the dotted line, but do we have your consent to proceed?"  Trong văn cảnh này thì sign on the dotted line chỉ có thể là ký giấy (đồng ý cưa chân).

+ Trong Hermit in Paris (Ẩn sĩ ở Paris) của Calvino có câu này về Paris thật hay: ""Paris is like a giant reference work, a city which you can consult like an encyclopedia" . Paris là một tác phẩm tham khảo khổng lồ, một thành phố mà bạn có thể tra cứu/ tham khảo như một bách khoa toàn thư.