Chủ Nhật, 29 tháng 4, 2012

Lolita trên báo Văn

Truyện ngắn "Con suối mùa xuân" của Võ Hồng đăng trên tạp chí Văn  - Giai phẩm Xuân Ất Tỵ ra ngày 15/1/1965, có một đoạn hai nhân vật trò chuyện về Lolita. Lười gõ lại nên chỉ chụp hình. Click vào hình có thể xem rõ hơn (hy vọng thế).






Nhân đây, trên tienve.org có ý kiến cho rằng Lolita chỉ cao một mét hai lăm, và Dương Tường dịch thành một mét bốn sáu là sai. Nhưng tất nhiên Lolita không thể chỉ cao một hai lăm được. Theo tính toán của các nhân sĩ trên Facebook, Lolita cao 147.32cm.


Hiện tại, chưa thấy có các tính toán về cân nặng cũng như số đo ba vòng của Lolita. Khi nào thấy có, sẽ cập nhật.

Thứ Sáu, 27 tháng 4, 2012

Giấu giấu giếm giếm


Bạn thân mến

Đâu đó Ernest Hemingway có nói rằng ở thời điểm khởi sự nghiệp viết của mình đột nhiên ông nhận ra nên loại bỏ sự kiện trung tâm ra khỏi truyện mình đang viết (sự kiện nhân vật chính treo cổ). Rồi ông giải thích rằng từ quyết định này ông khám phá ra một kỹ thuật kể chuyện mà về sau ông thường xuyên ứng dụng trong các truyện ngắn và tiểu thuyết của mình.  Thực tế, không hề phóng đại khi nói rằng những truyện hay nhất của Hemingway chứa đầy những sự im lặng đầy ý nghĩa; người dẫn chuyện giấu đi các mẩu thông tin, nhưng đồng thời lại trao cho các dữ liệu vắng mặt ấy một hiện diện hùng hồn và dai dẳng trong trí tưởng tượng của người đọc, sắp đặt thế nào để người đọc lấp đầy các khoảng trống bằng các giả thuyết và ức đoán của riêng mình. Tôi gọi kỹ thuật này là “sự kiện ẩn” và muốn nhanh chóng nói rõ rằng mặc dù Hemingway  đặt dấu ấn cá nhân của mình lên kỹ thuật này cũng như sử dụng nó thường xuyên, không hẳn ông là người sáng tạo ra nó, vì đây là một quy trình cũ xưa như chính bản thân tiểu thuyết.

Nhưng sự thật là ít có tác giả hiện đại nào sử dụng kỹ thuật này với cùng mức độ táo bạo như tác giả Ông già và biển cả. Bạn còn nhớ truyện “Những tên giết người” (The Killers), một truyện ngắn tuyệt hảo và có lẽ truyện nổi tiếng nhất của Hemingway? Ở trung tâm câu chuyện là một dấu chấm hỏi to tướng:  Tại sao hai gã ngoài vòng pháp luật mang súng săn cưa nòng ghé vào cái quán ăn nhỏ tên Henry ở chốn đồng không mông quạnh muốn giết tay Thụy Điển Ole Andreson? Và tại sao, khi cậu thiếu niên Nick Adams cảnh báo hắn rằng có hai tên sát thủ đang lùng, tay Andreson bí ẩn này không chịu trốn đi hoặc báo cảnh sát, mà lại bình thản đón nhận số phận của mình? Chúng ta không bao giờ biết chắc. Nếu muốn có câu trả lời cho hai câu hỏi then chốt kia, chúng ta phải tự giải lấy dựa vào vài sự kiện ít ỏi mà người dẫn chuyện khách quan và biết tuốt (omniscent:)) cung cấp: trước khi chuyển tới vùng này, dường như Andreson từng là võ sĩ đấm bốc ở Chicago, ở đó gã từng làm cái gì đó (cái gì đó trật chìa, gã nói) định đoạt số phận gã.

Sự kiện ẩn, hay trần thuật theo lối đục bỏ,  không thể vu vơ hoặc tùy tiện.  Điều thiết yếu là sự im lặng của người dẫn chuyện phải có ý nghĩa, có một ảnh hưởng rõ ràng lên phần hiển lộ của câu chuyện, phải khiến người ta cảm nhận được sự thiếu vắng của nó, và phải khêu gợi lòng hiếu kỳ, sự trông đợi và tưởng tượng nơi người đọc. Hemingway là một bậc thầy vĩ đại về kỹ thuật, như thể hiện rõ trong truyện “Những tên giết người”, một hình mẫu của lối trần thuật kiệm lời.  Văn bản của truyện ấy như chóp một tảng băng, một mỏm nhỏ có thể nhìn thấy được, mà dưới ánh chớp lóe thì gợi ra một thoáng vẻ ngoài của cái khối chi tiết cồng kềnh đỡ bên dưới, và rồi bị giật phắt ngay khỏi tầm nhìn của người đọc. Kể chuyện bằng cách giữ im lặng, thông qua những ẩn ý biến thủ thuật ấy thành một lời hứa hẹn và buộc người đọc chủ động tham dự việc xây dựng câu chuyện bằng những ức đoán và giả định: đây là một trong những phương thức phổ biến nhất mà những người dẫn chuyện thành công trong việc mang lại vẻ sống động cho các câu chuyện của mình, qua đó đem sức thuyết phục đến cho những câu chuyện ấy.

Bạn còn nhớ mẩu thông tin bị giấu đi trong Mặt trời vẫn mọc, theo tôi là tiểu thuyết xuất sắc nhất của Hemingway?  Đúng rồi, cái vụ bất lực của người dẫn chuyện Jake Barnes đó. Chuyện đó không bao giờ được công khai nói tới nhưng dần trở nên rõ ràng - tôi muốn nói là độc giả, vì bức bối với cái mình đọc, gán điều ấy cho nhân vật - thông qua một sự im lặng đích đáng, một khoảng cách vật lý kỳ lạ, mối quan hệ trong sáng của Jake với cô nàng Brett xinh đẹp, mà rõ là anh yêu cô ta và cô ta cũng rõ là có yêu anh, hoặc có thể đã yêu anh, nếu không phải vì một trở ngại hay chướng vật nào đó mà chúng ta không bao giờ được thông báo chính xác.  Sự bất lực của Jake là một im lặng ngầm ẩn, một thiếu vắng  trở nên nổi bật khi người đọc để ý thấy và rồi ngạc nhiên vì cái vẻ bất thường và đầy mâu thuẫn trong cách ứng xử của Jake Barnes với Brett, mãi cho đến khi cách duy nhất để giải thích chuyện đó là nhận ra (hay bịa ra?) sự bất lực của anh. Mặc dù không được nói ra, hay có lẽ chính xác vì không được nói ra, mà mẩu thông tin ẩn đó tưới tắm cho câu chuyện trong Mặt trời vẫn mọc  bằng một thứ ánh sáng rất riêng.

Dịch một phần chương The Hidden Fact trong cuốn Letters to a Young Novelist của Mario Vargas Llosa. 



Thứ Năm, 26 tháng 4, 2012

Lật một trang


Lắm sách chất quanh nhà cũng có cái lợi. Một trong những cái lợi là thỉnh thoảng giở cuốn này ngó một trang, cuốn kia ngó một trang, có khi thu nhặt được đôi điều bổ ích bất ngờ. Chẳng hạn, hôm nọ giở một trang cuốn dày cồm cộp của Gardner thấy câu này của ông hình như tên bắt đầu bằng chữ S - Samuelson hay gì đấy, sẽ xem kỹ lại sau, đã xem lại, tên ông chính xác là Samuel Johnson. Câu thế này, nghe có quen không nhé: “Your work is both good and original, but the part that is good is not original, and the part that is original is not good.” Câu này vốn rất phổ biến, thường được đem ra chọc ghẹo nhau: văn của mày vừa hay vừa mới tiếc rằng chỗ hay thì không mới mà chỗ mới thì không hay. Hai điều nhặt được từ đây: một, lần đầu tiên biết được ai là người nói câu ấy; hai, chữ “original” có  thể dịch một cách gọn, nhẹ là “mới”, thay vì cứ phải băn khoăn giữa “độc đáo”, “sáng tạo”, “độc sáng” (nghe rất ghét!) với cả “uyên nguyên”! Lại lật một trang trong cuốn chích chòe của Dương Tường, thấy có bài cụ phân tích chữ “thực thụ”/ “thực sự”. Theo cụ, cách dùng chữ “thực thụ” trong những “người đàn ông thực thụ”, “tài năng thực thụ” .v.v. đều sai cả. Còn, lật một trang tạp chí Văn Học của miền Nam trước 75, số đặc biệt về Vũ Hoàng Chương, thì thấy cách dùng chữ “thọ” rất buồn cười. Nguyên văn câu ấy như sau: “Nay nhân dịp thi sĩ Vũ Hoàng Chương vừa thọ 55 tuổi nên chúng tôi lại tiếp tục dự định trên” [tức là ra số đặc biệt về Vũ Hoàng Chương]. 55 tuổi mà là “thọ”? Không hiểu có phải thời ấy chiến tranh nên cách hiểu về chữ “thọ” có khác?

Thứ Tư, 25 tháng 4, 2012

Kawabata

Bài này dịch 2004, đăng eVan. Post lại ở đây nhân dịp đang tìm kiếm Tuyển tập Kawabata của Đông Tây.  Cuốn đó, từng nhìn thấy nhiều lần, nhưng không lấy, bây giờ muốn có lại không thấy đâu. Bạn nào có, chỉ giúp, xin hậu tạ.





GIẢI  NOBEL VĂN CHƯƠNG 1968
Diễn  từ trao giải của tiến sĩ Anders Osterling, Viện Hàn lâm Thụy Điển

Người nhận giải Nobel văn chương năm nay, nhà văn Nhật Bản Yasunari Kawabata, sinh năm 1899 ở thành phố công nghiệp khá lớn Osaka, nơi cha ông, một bác sĩ có học thức cao và say mê văn chương, hành nghề.  Tuy nhiên, từ khi còn nhỏ, ông đã buộc phải xa rời môi trường trưởng thành thuận lợi này sau cái chết bất ngờ của bố mẹ.  Là đứa con độc nhất, ông được gửi đến ở với người ông mù lòa và đau yếu ở một vùng quê hẻo lánh.  Những mất mát bi kịch này, có ý nghĩa gấp bội khi khi xét đến tình cảm sâu nặng về quan hệ ruột thịt của người Nhật Bản, rõ ràng đã ảnh hưởng đến toàn bộ cái nhìn của Kawabata về cuộc đời và là một trong những lý do khiến ông nghiên cứu giáo lý Phật Giáo về sau này.

Ông đã quyết định theo nghề văn từ khá sớm, khi còn là sinh viên đại học hoàng gia ở Tokyo, và ông là tấm gương về niềm đam mê miệt mài vốn luôn là điều kiện cần thiết để theo đuổi nghiệp văn chương.  Trong một truyện ngắn viết khi còn trẻ, truyện đầu tiên khiến ông được chú ý ở tuổi hai mươi bảy, ông kể về một sinh viên nọ trong một mùa thu cô đơn thả bước dạo trên bán đảo Izu, tình cờ gặp một vũ nữ nghèo, bị khinh miệt và giữa hai người đã nảy nở một mối tình cảm động.  Cô gái mở rộng tấm lòng thanh khiết của mình và đưa chàng trai trẻ đến với những cảm xúc chân thật và sâu sắc.  Như một điệp khúc buồn trong môt bản dân ca, chủ đề này lặp lại nhiều lần với những biến tấu khác nhau trong các tác phẩm về sau của ông.   Ông đưa ra thang giá trị của riêng mình, và năm tháng trôi qua tiếng tăm của ông đã vượt xa khỏi biên giới Nhật Bản.  Thật vậy, cho đến bây giờ chỉ mới  ba tiểu thuyết và một vài truyện ngắn của ông được dịch ra các ngôn ngữ khác, rõ ràng là vì vấn đề dịch thuật ở đây là một khó khăn đặc biệt to lớn và dễ trở thành một màng lọc quá thô kệch mà qua đó nhiều tầng nghĩa tinh tế trong ngôn ngữ phong phú của ông bị mất đi.  Dù vậy những tác phẩm đã được dịch của ông vẫn cho chúng ta thấy được một bức tranh tiêu biểu về tính cách của ông. 

Cũng như người đồng hương cao niên quá cố Tanizaki, phải thừa nhận là ông đã chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện thực phương Tây, nhưng đồng thời ông vẫn lấy văn chương cổ điển Nhật Bản làm nền tảng và nhờ đó đại diện cho một khuynh hướng rõ rệt về sự hoài vọng và gìn giữ phong cách truyền thống thật sự của đất nước.  Trong nghệ thuật kể chuyện của Kawabata, ta có thể nhận ra chất thơ tình huống được tô đậm nhạt một cách tinh tế (sensitively shaded situation poetry) có nguồn gốc từ tranh sơn dầu về đời sống và phong tục Nhật Bản của Murasaki khoảng năm 1000. 

Kawabata đặc biệt được ca tụng là một nhà phân tích tâm lý phụ nữ tài tình.  Nghệ thuật bậc thầy này của ông biểu hiện trong hai đoản thiên tiểu thuyết Xứ Tuyết Ngàn Cánh Hạc.  Trong hai tác phẩm này chúng ta có thể thấy được khả năng miêu tả xuất sắc những trường đoạn gợi tình, sự quan sát sắc sảo tinh tế, sự đan xen những chi tiết nhỏ nhặt, bí ẩn làm lu mờ kỹ thuật kể chuyện của châu Âu.  Văn của Kawabata gợi lại nghệ thuật hội họa Nhật Bản, ông là người tôn sùng vẻ đẹp mỏng manh và ngôn ngữ đầy hình ảnh u uẩn về cuộc sống thiên nhiên và số phận con người.  Nếu sự phù du của hành động bề ngoài có thể so sánh với túm cỏ trôi dạt trên mặt nước, thì đó chính là nghệ thuật thu nhỏ đích thực Nhật Bản của thơ haiku được phản ánh trong phong cách hành văn của Kawabata.

Thậm chí nếu ta cảm thấy bị gạt ra, và đúng là như thế, khỏi cách viết của ông do vấp phải một hệ thống những tư tưởng và bản năng Nhật Bản cổ xưa khá lạ lẫm đối với chúng ta, có thể chúng ta vẫn thấy văn Kawabata hấp dẫn ở những điểm tương đồng với tính chất của các nhà văn châu Âu trong thời đại chúng ta.  Turgeniev là cái tên đầu tiên chúng ta nhớ đến, ông cũng là một nhà văn nhạy cảm một cách sâu sắc và là một họa sĩ phóng khoáng vẽ nên những cảnh tượng xã hội, với những nỗi cảm thông mang sắc thái bi quan trong một thời đại chuyển đổi giữa cái cũ và cái mới. 

Tác phẩm gần đây nhất, cũng là tác phẩm xuất sắc nhất của Kawabata, tiểu thuyết “Cố đô” hoàn thành cách đấy 6 năm và bây giờ đã được dịch ra tiếng Thụy Điển.  Truyện kể về cô gái trẻ Chieko, một đứa trẻ bị cha mẹ nghèo xơ xác bỏ rơi và được gia đình thương gia Takichiro nhận nuôi, ở đây cô được nuôi nấng dạy dỗ theo những nguyên tắc truyền thống của Nhật Bản.  Chieko là một cô bé nhạy cảm, trung thành, nhưng thầm ấp ủ câu hỏi về thân thế của mình.  Ở  Nhật Bản, người ta cho rằng một đứa trẻ bị bỏ rơi sẽ khổ ải với tai ương suốt đời, thêm vào đó,  theo một quan điểm hết sức lạ lùng của Nhật Bản, trẻ sinh đôi còn chịu sự nhục nhã đáng xấu hổ.  Một ngày nọ tình cờ cô gặp một cô gái lao động xinh đẹp trong rừng tuyết tùng gần thành phố và phát hiện ra rằng cô là người em song sinh của mình.  Họ gắn kết sâu sắc với nhau vượt qua hàng rào giai cấp xã hội – cô gái thô kệch, làm việc nặng nhọc Naeko và cô gái thanh nhã, luôn được bảo vệ cẩn mật Chieko, nhưng sự giống nhau lạ lùng giữa họ đã mau chóng làm phát sinh rắc rối, phiền toái.  Toàn bộ câu chuyện được đặt trong bối cảnh năm lễ hội tôn giáo ở Kyoto từ mùa xuân anh đào nở rộ đến mùa đông lấp lánh tuyết.

Bản thân thành phố thật sự là một nhân vật quan trọng, thủ đô của vương quốc xưa, từng là nơi đóng đô của Thiên hoàng và triều đình, sau hàng ngàn năm vẫn là một thánh địa lãng mạn, quê hương của mỹ thuật và hàng thủ công trang nhã, ngày nay tuy bị khai thác cho du lịch nhưng vẫn là địa điểm thăm viếng được ưa chuộng.  Với các chùa chiền phật giáo và các đền thờ thần, khu thủ công xưa và vườn thực vật, nơi này mang trong nó chất thơ mà Kawabata thể hiện bằng một phong cách dịu dàng,  nhã nhặn,  không ủy mị mà tự nhiên như một sự hấp dẫn đầy xúc động.  Ông đã sống qua thất bại nặng nề của đất nước và nhận thức chắc chắn rằng tương lai đòi hỏi gì về tinh thần cầu tiến, nhịp điệu và sức sống công nghiệp.  Nhưng trong làn sóng hậu chiến của sự Mỹ hóa mạnh mẽ, tiểu thuyết của ông là lời nhắc nhở nhẹ nhàng về sự cần thiết cứu lấy một cái gì đó trong vẻ đẹp và cá tính của Nhật Bản xưa cho một Nhật Bản mới.  Ông mô tả những lễ nghi tôn giáo ở Kyoto một cách tỉ mỉ như thể chọn mẫu hoa văn trên khăn thắt lưng truyền thống trong trang phục phụ nữ.  Những khía cạnh này trong tiểu thuyết có thể có giá trị tài liệu, nhưng độc giả thích thú với những đoạn mô tả sâu sắc như vậy như đoạn tả nhóm người trung lưu của thành phố thăm viếng vườn thực vật – vốn bị đóng cửa một thời gian dài vì lính Mỹ chiếm đóng lập doanh trại ở đó – để nhìn xem những con đường đáng yêu với hàng cây long não có còn nguyên và có thể làm vui sướng những con mắt thành thạo. 

Với Kawabata, lần đầu tiên Nhật Bản bước vào thế giới những người đoạt giải Nobel văn chương.  Điều cốt yếu dẫn đến quyết định này là, với tư cách nhà văn, ông đã truyền đạt một nhận thức văn hóa có tính thẩm mỹ và đạo đức (moral-esthetic cultural awareness) bằng một phong cách nghệ thuật độc đáo, do đó, đóng góp vào cầu nối tinh thần Đông Tây theo cách của ông.

Thưa ngài Kawabata

Bài diễn văn trên ca ngợi nghệ thuật kể chuyện bậc thầy của ngài mà bằng sự tri cảm lớn lao nghệ thuật ấy đã thể hiện bản chất tâm hồn Nhật Bản.  Chúng tôi hết sức vui mừng chào đón ngài, vị khách danh dự phương xa đến đây hôm nay, trên bục này.  Thay mặt Viện hàn lâm Thụy Điển, tôi nồng nhiệt chúc mừng ngài và mời ngài lên nhận giải thưởng Nobel văn chương năm nay từ tay của Đức Vua.


Thứ Sáu, 20 tháng 4, 2012

Đất lề quê thói - chép trong khi đọc


Đất lề quê thói là một cuốn sách của Nhất Thanh Vũ Văn Khiếu khảo về phong tục Việt Nam.

Cuốn này nằm trong mớ sách của papa, mang vào nhà đã lâu, nhưng chưa có lúc nào đọc vì sách nát quá, cầm lên ngại. Nay nhân mới hỏi được chỗ đóng sách, đem đi đại tu, kết quả có một cuốn sạch sẽ, gọn gàng, xinh xắn. Dân chơi sách thường không ưa sách đóng bìa hay bị gọt xén lắm. Nhưng nếu chỉ để đọc, thì cầm bản sau khi đại tu này thích hơn nhiều.

Đọc được một ít, đã thấy nhiều cái hay, ví như những đoạn chép lại dưới đây:
  • Giảng nghĩa chữ phong tục:  …”hai chữ Phong-Tục có nghĩa: Phong là sự gì người này xướng lên kẻ khác nối theo thành thói quen, như vật theo gió hòa vào nhịp điệu mà không biết; Tục là thói bắt chước người trên, lâu dần hóa thuộc. Nói cho gọn thì người trên cảm hóa người dưới gọi là Phong, người dưới tập nhiễm được gọi là Tục (Thượng sở hóa viết Phong, hạ sở tập viết Tục).
  • Trị dân là chăm lo phong hóa:  “Đời xưa cứ xét thói tục của dân mà suy luận ra chính sự người trên, thiện chính thì dân lành, ít càn dỡ. Vua đi tuần thú thường là để xem xét điều ấy. Luôn luôn ý niệm như vậy, vua quan thời xưa tự cho mình có sứ mạng chăn dắt dân, thường chăm lo dạy dỗ dân bằng những huấn lệnh nhắc nhở điều hay nên làm, điều dở phải tránh, chứ không chuyên chú ban hành luật pháp trừng phạt tội lỗi. Hai tiếng “trị dân” cũng có nghĩa là chăm lo phong hóa.”
  • Về phương ngôn tục ngữ ca dao phong dao: “Sẽ có những câu chẳng làm đẹp lòng người này người nọ, vì ý nghĩa trào lộng hay chê bai bài bác, nhưng đó chính là những cái mà dân chúng ưa thích hay ruồng ghét đến nỗi truyền miện nhau nói ra thành tục ngữ phương ngôn hoặc câu ca câu vè; nếu thói đời quả thực không có vậy, thì chắc hẳn đã chẳng có lời ong tiếng ve; bỏ qua là che giấu sự thật, với tinh thần khoa học, với con mắt khách quan, các bậc thức giả hẳn không bao giờ nghĩ rằng có thể có va chạm.”
  • Tên cúng cơm: “Sau khi chết thì tên thường gọi lúc sinh thời trở thành tên húy tục gọi là tên cúng cơm”.
  • Về tính tình dân ta: “Người mình phần đông thường ranh vặt, đến quỷ quyệt, hay sợ sệt ngờ vực, bộ tịch lễ phép mà hay khinh khi báng nhạo. Tâm địa nông nổi, hay khoe khoang, khoác lác hiếu danh, thích vui chơi, ham cờ bạc”

Mới đóng bìa xong


Nhưng vẫn còn bìa trong