Chủ Nhật, 13 tháng 12, 2009

Mười cuốn sách vĩ đại nhất mọi thời đại - Bạn đã đọc cuốn nào?

Năm 2007, báo Time đề nghị 125 nhà văn nổi tiếng trên khắp thế giới đề cử 10 cuốn sách vĩ đại nhất mọi thời đại không giới hạn thể loại, nghĩa là không kể fiction hay non-fiction, văn xuôi hay thơ. Dĩ nhiên danh sách của mỗi nhà văn sẽ rất khác nhau, nhưng kết quả tổng hợp cuối cùng như sau:

  1. Anna Karenina by Leo Tolstoy
  2. Madame Bovary by Gustave Flaubert
  3. War and Peace by Leo Tolstoy
  4. Lolita by Vladimir Nabokov
  5. The Adventures of Huckleberry Finn by Mark Twain
  6. Hamlet by William Shakespeare
  7. The Great Gatsby F. Scott Fitzgerald
  8. In Search of Lost Time by Marcel Proust
  9. The Stories of Anton Chekhov by Anton Chekhov
  10. Middlemarch by George Eliot
Có thể thấy là 10 cuốn này đều là fiction, trong đó có một tác phẩm kịch và một tập truyện ngắn, còn lại đều là tiểu thuyết. Một mình Tolstoy có hai cuốn. Rất lạ là Don Quixote không nằm trong danh sách này.

Tôi chỉ mới đọc số 1, 2, 5, 6 và 7 trong danh sách, cùng một số truyện ngắn của Chekhov, và đang lên kế họach đọc Dưới bóng những cô gái tuổi hoa (một tập trong Đi tìm thời gian đã mất) trong kỳ nghỉ sắp tới.

Còn bạn, bạn đã đọc những cuốn nào?

-----

Thứ Năm, 10 tháng 12, 2009

Tinh thần đã mất

Có những buổi trưa như trưa nay tôi ra khỏi văn phòng sớm hơn thường lệ để đi ăn trưa mà không rủ đồng nghiệp nào theo cùng và cũng không hẹn hò với ai cả. Tôi chỉ muốn đi ăn nhanh và về lại văn phòng sớm để kịp cuộc họp trên điện thoại kế tiếp vào giữa trưa giờ Việt Nam. Tôi đi bộ và không chủ định sẽ ghé quán nào. Sài Gòn vẫn đang thay đổi từng ngày. Quanh khu trung tâm, chỉ vài hôm không để ý đã thấy mọc lên một quán cà phê hay quán ăn mới. 

Tôi đi ngược về hướng Nguyễn Du, ngang qua hàng miến chửi một thời (hay vẫn còn?) nổi tiếng. Buổi trưa, không nghe tiếng bà chủ véo von. Mấy cái xô không chỏng chơ trước hàng. Một vệt nước chảy dài từ ngạch cửa về phía mép đường, còn thấy rõ vài cọng rau và miến vụn. Không rõ trưa họ không bán hay là họ không còn khách. 

Chỉ thêm vài bước nữa, một quán ăn bên tay phải thu hút sự chú ý của tôi. Quán trông không khác mấy những quán cà phê kiêm phục vụ cơm trưa văn phòng thường thấy ở thành phố này; tuy nhiên, tôi đã kịp nhìn thấy dòng chữ Đặc sản bánh căn Phan Rang dưới mấy chữ Kul Deli màu tím uốn éo. 

Bánh căn là thứ bánh có nguồn gốc Phan Rang, nhưng hết sức gắn bó với những người dân Đơn Dương như tôi. Đơn Dương cách Phan Rang chưa tới 80 cây số. Nhiều người Đơn Dương có bà con họ hàng ở Phan Rang. Cũng có người Phan Rang lên Đơn Dương rồi mê con trai, con gái hay cái tiết trời quanh năm lành lạnh vùng này rồi ở lại luôn (má tôi là một trong số đó!). Đơn Dương và Phan Rang do đó thật là gần gũi, và chuyện món ăn của người Phan Rang trở thành món ăn “quốc hồn quốc túy” của người Đơn Dương kể cũng không lạ.

Bánh căn làm từ bột gạo. Gạo thường được ngâm từ đêm hôm trước rồi xay ra bằng cối đá thành bột bánh căn, nghe đâu muốn bánh ngon thì nên trộn vào gạo một ít cơm nguội. Gọi là bột nhưng nó là đã được hòa với rất nhiều nước, nên nó là một chứ chất lỏng màu trắng và hơi sệt. Mới nhìn, xô bột bánh căn trông giống như xô vôi quét tường. Nhìn kỹ, nó vẫn giống vôi quét tường, chỉ khác vôi không ăn được, còn bột bánh căn thì ăn được. Sau khi nướng chín, dĩ nhiên. 

Muốn đổ bánh căn phải có lò bánh căn. Lò được làm bằng đất nung. Mỗi lò có khoảng tám đến mười hai lỗ tròn cỡ miệng chén, đi kèm tương ứng số khuôn và nắp khuôn, tất cả đều làm bằng đất. Ngày trước, Đơn Dương hầu như nhà nào cũng có lò bánh căn trong nhà. Thỉnh thoảng có khách, tụ tập bạn bè, hoặc đơn giản chỉ là đổi món, lò bánh căn sẽ được lôi ra, than sẽ được quạt lên cho hồng và bánh căn sẽ bắt đầu được đổ. Món bột bánh căn trắng như vôi kia sẽ được rót vào từng khuôn, đậy nắp lại khoảng một hai phút thì rám vàng bên dưới. Khi đó, bánh sẽ được cạy ra, quết một chút mỡ hành hay mỡ hẹ, rồi ụp lại với một bánh khác thành từng cặp. Bánh căn bao giờ cũng ăn theo cặp. Cặp bánh căn sẽ được thả vào chén mắm nước hoặc mắm nêm pha loãng, dầm với một trái ớt chín đỏ vỏ mỏng. Dân Phan Rang còn ăn bánh căn với nước cá kho.

Ăn bánh căn không thể ăn nhanh vì muốn ăn nhanh cũng không có mà ăn. Thường mọi người sẽ ngồi quanh lò, ăn cặp bánh của mình xong thì có quyền đưa đũa lên miệng mút nước mắm mà chờ đến lượt bánh tiếp theo. Càng đông người ăn thì chờ càng lâu. Chờ càng lâu thì ăn càng ngon, càng nôn đến lượt mình để được cắn miếng bánh nóng giòn trong miệng, lẩn quất mùi thơm của khuôn đất nung, vị béo nhẹ nhàng của mỡ hành và mùi cay thơm của giống ớt đặc biệt ở Đơn Dương. 

Bánh căn đặc biệt ngon khi ăn vào những buổi chiều trời bắt đầu tối, sương bắt đầu xuống và cái lạnh cao nguyên bắt đầu len lỏi vào thịt da, vừa ăn vừa xuýt xoa bên bếp than hồng. Bánh căn cũng đặc biệt ngon khi ăn vào khuya, khi hầu hết mọi người đã đi ngủ, các ngôi nhà đã đóng kín cửa, chỉ có chị hàng bánh căn cần mẫn ngồi đổ bánh bên ngọn đèn dầu phục vụ những kẻ thèm ăn khuya. Bánh căn, suy cho cùng chỉ là bột gạo nướng ăn với nước mắm, sang cả hơn thì kèm xíu mại hay trứng, vậy mà dân Đơn Dương xa quê ai cũng nhớ. Cho đến thời củi quế gạo châu như bây giờ, đãi người yêu ăn một chầu bánh căn no căng bụng ở Đơn Dương vẫn không quá hai chục ngàn. 

Thế cho nên, hôm nay, khi nhìn thấy quán Kul Deli treo bảng bánh căn đặc sản Phan Rang, tôi rẽ vào ngay tắp lự. Cô bé phục vụ nhanh nhảu chìa menu cơm văn phòng cho tôi. Tôi khẽ khàng: Này em, hình như có bánh căn? Cô bé bảo dạ có, bánh căn bán từng phần 5 cái. Tôi hỏi 5 cái hay 5 cặp. Cô bé khẳng định 5 cái. Tôi thắc mắc ăn mấy dĩa mới đủ. Cô bé bảo một dĩa là đủ rồi anh. Ừ thì một dĩa, cho anh một dĩa. Vài phút sau, trước mặt tôi có hai chén, một chén nước mắm pha và một chén kia hình như là một loại tương đậu, một rổ rau gồm nhiều xà-lách, rau đắng, rau quế và có trời mới biết là rau gì nữa, và một dĩa gồm 5 cái bánh căn. 5 cái bánh được xếp vòng tròn trên dĩa, giữa mỗi cái thấy cộm lên hai khoanh mực ống và một con tôm. Điểm xuyết cho vòng tròn 5 bánh là một nhúm dưa leo và xoài sống xắt sợi. A ha, bánh căn là đây!

Tôi nhìn dĩa bánh căn và nghĩ về sự chuyển dịch của các vùng miền. Tôi nhìn dĩa bánh căn và nghĩ về đô thị hóa. Tôi nhớ trong Chiếc Lexus và cây Olive, tác giả Thomas Friedman kể chuyện khi đến một quốc gia lạ, gọi một món ăn tưởng quen, thì sẽ có được một thứ đáng kinh ngạc. Để có được trải nghiệm đó, cần gì phải đi từ nước nọ sang nước kia. Ngay ở Việt Nam thôi, người Sài Gòn ra Huế kêu bún bò thì phàn nàn bún bò Huế sao mà lạ lẫm, còn những người Hà Nội chân chính thì nhất quyết không nhận phở Sài Gòn làm anh em với phở kinh thành. Một món ăn đi từ vùng này sang vùng nọ trong cùng một nước đã trải qua bao nhiêu thay đổi, có khi chỉ để vừa lòng thực khách địa phương. Món bánh căn dân dã quê tôi, để trèo lên bàn một quán ăn ở trung tâm Sài Gòn, đã phải cõng thêm những tôm, những mực và bao nhiêu loại rau xa lạ. 

Nói cho công bằng, món bánh căn ở Kul Deli không dở. Nó chỉ không đúng so với kinh nghiệm của tôi. Có thể với nhiều người khác nó sẽ ngon hoặc rất ngon, hoặc ít ra cũng mang đến cho thị dân Sài Gòn một chút hương xa. Còn với tôi, dĩa bánh căn này trông cũng giông giống bánh căn, chỉ hiềm nỗi cái tinh thần đã mất. 

---------
Hình ảnh và bài viết về bánh căn bên nhà Chị Ba Đậu, một người đồng hương và bạn từ thuở thiếu thời của tôi.

Thứ Tư, 9 tháng 12, 2009

Một trong mười thành tựu khoa học quan trọng nhất năm 2009

Blogger Hòa thượng Thích Học Toán, tức nhà toán học Ngô Bảo Châu, chỉ để một cái link nho nhỏ trên blog của mình về một công trình khoa học được báo Time bình chọn là một trong mười thành tựu khoa học quan trọng nhất năm 2009. Tuy hoàn toàn dốt nát về toán và hoàn toàn không hiểu ông làm gì, nhưng ít ra tôi cũng hiểu được ý nghĩa của việc bình chọn này cũng như tầm vóc công trình của ông. Hết sức ngưỡng mộ và xin được chúc mừng nhà toán học Ngô Bảo Châu.

Nguyên văn bài báo trên tờ Time:

The Fundamental Lemma, Solved


In 1979 the Canadian-American mathematician Robert Langlands developed an ambitious and revolutionary theory that connected two branches of mathematics called number theory and group theory. In a dazzling set of conjectures and insights, the theory captured deep symmetries associated with equations that involve whole numbers, laying out what is now known as the Langlands program. Langlands knew that the task of proving the assumptions that underlie his theory would be the work of generations. But he was convinced that one stepping stone that needed confirmation — dubbed the "fundamental lemma" — would be reasonably straightforward. He, his collaborators and his students were able to prove special cases of this fundamental theorem. But proving the general case proved more difficult than Langlands anticipated — so difficult, in fact, that it took 30 years to finally achieve. Over the past few years, Ngo Bao Chau, a Vietnamese mathematician working at Université Paris-Sud and the Institute for Advanced Study (IAS) in Princeton, formulated an ingenious proof of the fundamental lemma. When it was checked this year and confirmed to be correct, mathematicians around the globe breathed a sigh of relief. Mathematicians' work in this area in the last three decades was predicated on the principle that the fundamental lemma was indeed accurate and would one day be proved. "It's as if people were working on the far side of the river waiting for someone to throw this bridge across," says Peter Sarnak, a number theorist at IAS. "And now all of sudden everyone's work on the other side of the river has been proven."


Chủ Nhật, 6 tháng 12, 2009

Linh tinh mùa Giáng sinh

* Được email của một người bạn chưa bao giờ biết mặt. Bạn đề nghị tặng tôi một cuốn sách mà tôi chưa có. Tôi hỏi có tiện không, bạn ở xa quá mà, những nửa vòng trái đất. Bạn bảo không có gì không tiện bạn ơi. Vui. Rồi lại email của bạn, nói bạn không tìm thấy cuốn bạn định gửi, liệu tôi có muốn cuốn khác cùng tác giả không. Cuốn đấy thì tôi đã có. Bạn áy náy, đề nghị đền bù cuốn khác, bạn có nhiều sách tiếng Anh thú vị lắm. Tôi nói cuốn nào cũng được, nhưng tiếng Anh thì tốt hơn. Ở đây sách tiếng Anh khó mua, mà lại đắt nữa. Không cần phải nói tên sách trước vì tôi muốn chờ đợi bất ngờ. Tôi muốn có cảm giác được đoán trong một bưu kiện có gì. Chắc là sẽ không có anthrax!:)


* Email khác của một người bạn khác, cũng ở nước ngoài. Người này tôi đã gặp nhưng lâu rồi chưa gặp lại. Bạn nhờ tôi giới thiệu những chỗ vui chơi ở Sài Gòn cho một người bạn khác ghé qua Sài Gòn vài ngày. Tôi bảo tôi không còn đáng tin cậy để giới thiệu về đời sống Sài Gòn ban đêm nữa rồi. Đã bao lâu tôi không đi chơi đêm? Tôi làm gì biết Sài Gòn có những quán cafe hay quán bar nào mới, chỗ nào chơi nhạc thú vị. Vẫn tồn tại trong trí nhớ suy tàn và ký ức đau thương của tôi Yoko chơi Beatles và Cranberries, Sax 'n' Art của Trần Mạnh Tuấn chơi jazz, Carmen chơi flamenco, nhưng tôi không chắc những quán đấy còn ở những chỗ đấy, và họ có còn chơi nhạc không. Sài Gòn thay đổi rất nhanh, mà tôi về cơ bản đã thuộc thành phần chậm tiến. Hỏi bạn sống thế nào, bạn bảo về cơ bản bạn nghèo kiết xác, nhưng it's alright. It sounds very much like you!


* Dự tiệc Noel của AMCHAM, năm nay chủ đề Christmas in New York. Phông sân khấu là ảnh thành phố New York. Mỗi bàn tiệc mang tên một đường phố New York: Madison, Fifth Avenue, Broadway, v.v. Tôi ngồi ở bàn Đường số 42. MC mở đầu chương trình bằng bài New York, New York... the city that never sleeps...  Phải mở lại Frank Sinatra mới được. Tôi khoe với người bạn ngồi cạnh, một người đến từ New Mexico, rằng tôi đã có một Giáng sinh ở New York. Ở đó lần đầu tiên tôi thấy tuyết. Chúng tôi đã ném tuyết vào nhau trong đêm Giáng sinh. Rất vui và rất đáng nhớ. Mới đó mà đã bảy năm. New York đã hóa nương dâu.


* Tôi đọc Paul Auster, theo chân các nhân vật của ông trên các nẻo đường New York. Có một truyện bắt đầu thế này: Tôi muốn tìm một nơi yên tĩnh để chết, và người ta khuyên tôi nên đến Brooklyn. Trong một truyện khác, một nhân vật lang thang trong New York hàng ngày, và một nhân vật khác bám theo, vẽ sơ đồ đường đi của người kia, để rồi nhận ra rằng có thể ghép sơ đồ hành trình của người kia thành chữ TOWER OF BABEL. Sự bất lực trong giao tiếp cũng là một chủ đề thường thấy trong truyện Auster.


* FAHASA dạo này bán nhiều sách nhập. Tôi lượn qua lượn lại nhiều lần đến nỗi tôi nghĩ thuộc hết các đầu sách ở đó, nhưng thỉnh thoảng mới dám mua một cuốn. Sách đắt, nên cuốn nào thích lắm mới mua, mà phải chắc mình đọc xong cuốn này mới mua cuốn khác. Không như sách tiếng Việt, lúc nào cũng có dăm bảy cuốn chưa đọc ở nhà. Tuần này tôi mới mua Oracle Night, cũng của Paul Auster. Bạn ơi, hay là bạn gửi cho tôi một cuốn của Paul Auster vậy, cuốn mới nhất đấy?:)


* Lục lại đĩa Giáng sinh cũ ra nghe. Tôi có một đĩa nhạc Giáng sinh mà tôi nghĩ là hàng hiếm, vì tôi mua cách đây hơn 10 năm rồi. Đó là một đĩa hiếm hoi mà Thanh Lam, Hồng Nhung, và Mỹ Linh hát chung. Thanh Lam là giọng hát cực đoan. Cô có khả năng làm cho một bài hát trở nên cực kỳ dở hoặc cực kỳ hay, chứ không bao giờ làng nhàng ở giữa. Trong đĩa này, cô hát Bài thánh ca buồn tuyệt hảo. Đoạn đầu hát hoàn toàn không nhạc đệm, chỉ có giọng hát cô vang vang như tiếng chuông đêm Noel. Tôi từng nghe cô hát live bài này trong một phòng trà Giáng sinh năm 99, khi đó cả phòng trà đông nghẹt lặng người khi giọng cô vút lên Bài thánh ca đó còn nhớ không em. Hồi đó, tôi còn hay đi phòng trà, và biết hầu hết các quán cà phê có nét của Sài Gòn.


* Giáng sinh em chúm chím nụ môi hồng - là câu thơ viết giùm một thằng bạn năm đầu đại học, lúc đấy đang lao đao với mối tình đầu. Bây giờ nó đã có vài chục mối tình, không biết nó còn nhớ cái ngày nhờ mình làm thơ tặng bạn gái nó?



Thứ Tư, 2 tháng 12, 2009

Không có thơ

Hôm nay không có thơ đâu, hứa thế. Thơ mấy ngày liền khách vắng teo, biết thế. Nhưng mấy hôm rồi bận đến bạc đầu. Cứ quẳng thơ lên cho nó nhanh.

Đến tối nay thì xong rồi, đã có thể phần nào nhẹ nhõm trở lại. Mấy hôm trước bận chủ yếu vì phải học bài. Chẳng phải học bài để thi gì, mà học bài để dạy. Cũng không có gì to tát, chỉ là một khóa học trong công ty thôi, nhưng người học toàn là các bạn Tây có sừng có mỏ nên chuẩn bị hơi vất vả tí. Rồi cũng xong. Hơi mệt, nhưng khi xong thì có cảm giác sướng, kiểu như đã có một thành công nho nhỏ. Nhân tiện, cái khóa học đấy tên là Career Development. Đại khái hướng dẫn cho mọi người phải hiểu mình là ai, có thế mạnh thế yếu gì, làm thế nào để được đánh giá cao trong công ty, toàn những thứ ba lăng nhăng như thế.

Chiều ra khỏi văn phòng, đi ngang cái tivi, thấy có mặt anh Obama nên đứng lại nghe. Hóa ra là anh đang ăn mừng cái giải Nobel hòa bình bằng cách gửi thêm 30.000 thanh niên Mỹ cao to lực lưỡng sang Afghanistan đi săn chuột chũi. Lúc trước, anh này viết cuốn sách tên gì nhỉ, cái gì mà hy vọng, hy vọng. Ừm, phải có hy vọng chứ, sống mà không có hy vọng thì sống làm đếch gì. At the end of the day, he’s just another American president, isn’t he? Cũng liên quan đến Obama, có câu này vui hơn: Tôi nói mà tôi nhìn Obama mà tôi thấy ông ấy cũng chăm chú lắm đó, lắng nghe lắm. Như thế là mình vừa động viên ông Obama nhưng mình vừa phân hóa cái nội bộ của ông ấy. At the end of the day, he’s just another [whatever you want], isn’t he?

Mỗi ngày một cuốn sách: Ma chiến hữu

Trong siêu thị Big C có một quầy sách. Sách không nhiều lắm nhưng có tác dụng giúp tôi giải trí những lúc phải đi siêu thị với cụ bà, người có thể đắm mình hàng giờ trong hàng cá với hàng rau. Thật ra, tôi chẳng bao giờ có ý định mua sách ở đây, vì nếu mua thì sách được tính tiền chung cùng cá và rau cũng kỳ kỳ. Thế nhưng tuần trước thấy ở đây có cuốn Ma chiến hữu của Mạc Ngôn, cuốn sách một thời ồn ào, nên tặc lưỡi mua đại. Sách chỉ hơn 200 trang, đọc vèo hơn tiếng hết. Đọc xong thì không hiểu tại sao nó từng gây nhiều ồn ào như thế, mà nó đã từng ồn ào vì lý do gì tôi quên béng rồi. Điều duy nhất đọng lại trong tôi khi đọc xong cuốn này là biết rằng có một nhà văn Trung Quốc viết về đề tài này (chiến tranh biên giới 1979). Mạc Ngôn, đọc Báu vật của đời và Đàn hương hình là đủ lắm rồi.