Friday, 28 February 2025

The Possibility of an Island, reading notes

Dạo này tôi đọc sách chậm kinh khủng. Tôi đọc nhiều cuốn cùng một lúc, nhưng không hoàn thành được cuốn nào. Trong số những cuốn đang đọc, có The Possibility of an Island của Michel Houellebecq, dĩ nhiên tôi đọc bản dịch tiếng Anh. Đây là cuốn mà tôi thấy mình có triển vọng hoàn thành nhất. Tôi ghi và chép một số thứ trong khi đọc cuốn này ở đây.

+ "There are times when I unlock the fence to rescue a rabbit, or a stray dog; but never to bring help to a human." - Đoạn này là tự sự của Daniel 24, tức Daniel phiên bản thứ 24.

+ "Pierce's first law identifies personality with memory. Nothing exists, in the personality, outside what is memorizable (be this memory cognitive, procedural, or emotional); it is thanks to memory, for example, that the sense of identity does not dissolve during sleep." - Đây là quy luật đầu tiên trong 3 quy luật của Pierce - chưa rõ là ai, có vẻ là một nhà khoa học.

+ Có lẽ thứ tôi thích trong tác phẩm của MH là sự frankness của ông, thẳng tuột, đập vào mặt. Mối quan hệ của nhân vật Daniel 1 với Isabelle trong cuốn này cũng được tả là incredible frankness. 

+ Một cú châm chích châu Âu: "The existence of pets is relatively recent in Spain. A country with traditionally Catholic, macho, and violent culture, until only a little while ago, treated animals with indifference, and occasionally with a dark cruelty. But standardization was doing its work, on this level as on others, and Spain was approaching European, and especially English, norms.  Homosexuality was more and more widespread and accepted; vegetarian food was becoming increasingly available, as were New Age baubles; and pets...were gradually replacing children in the family." - Tự nhiên tôi nghĩ VN cũng đang thay đổi theo hướng này.

+ Tự sư của Daniel 1: "I stopped and considered the ocean and the stars.... The music of the spheres, the starry sky; the moral law in my heart." - À ha, Kant đây rồi: Bầu trời đầy sao trên đầu tôi và quy luật đạo đức trong tôi.

+



NBP, PTVA

+  Đôi khi có những câu thơ cứ vang lên trong trí mà không rõ nguyên nhân vì sao. Có thể đây là hệ quả của việc từng đọc quá nhiều thơ, ngộ độc thơ, ha ha. Mấy hôm nay câu này vang vang trong đầu: “Theo ca dao thì họ phải quay về/ Nhưng như thế thì trời không kịp sáng.” Theo trí nhớ suy tàn của tôi có lẽ đây là một câu của Nguyễn Bình Phương, Google hoặc hỏi ChatGPT có thể ra, nhưng không cần thiết. Dường như câu này được ghi làm đề từ của tiểu thuyết Người đi vắng. Người đi vắng là một trong hai cuốn hay nhất của Nguyễn Bình Phương (cuốn kia là Xe lên xe xuống tức Mình và họ). Người đi vắng cũng là một trong những tiểu thuyết hay nhất của văn học Việt Nam sau 75. Thật ra trước 75 thì cả hai miền cũng chả có mấy tiểu thuyết hay. Thơ có, truyện ngắn có, tản văn tùy bút có, nhưng tiểu thuyết hay quả là của hiếm, suốt cả chiều dài văn học Việt Nam. Chính ra xét cả lịch sử văn học VN, NBP có lẽ là tiểu thuyết gia chuyên nghiệp vào bậc nhất. Tất nhiên chuyên nghiệp theo nghĩa chuyên chú với tiểu thuyết chứ không phải sống bằng tiểu thuyết. Mấy cuốn gần đây của NBP hơi nhạt nhòa, dẫu vậy, đây vẫn là tác giả tôi chờ đợi và không bỏ qua cuốn nào.

Khi người ta trẻ, ý là khi tôi còn trẻ, tôi thấy bạn bè mình ai cũng đọc truyện ngắn Phan Thị Vàng Anh. Vàng Anh là tác giả ngôi sao đối với giới trẻ đầu những năm 90. Bọn sinh viên chúng tôi hồi ấy thấy mình đâu đó trong những truyện của chị, mê cái không khí lành lạnh, kiểu nói năng của các nhân vật trong truyện chị, thậm chí có những kẻ còn quy ước khi viết thiệp không viết những lời chúc bởi “chúng chẳng bao giờ trở thành sự thật” như quan niệm một nhân vật của chị. Rồi chị lảng đi đâu đó, đám độc giả của chị ra trường đi làm, chẳng mấy khi sờ tới sách vở. Rồi một ngày tự nhiên thấy Phan Thị Vàng Anh xuất hiện với tư cách nhà thơ. Thơ chị cũng không giống thơ ai, mà đám độc giả ngày xưa sau những vấp ngã đầu đời lại một lần nữa thấy chị như viết cho mình, những là “Quờ tay tìm viên thuốc/ Ba năm rồi không sợ đụng nhầm tay ai” và “Chúng ta là bánh mì và chả lụa/ bán riêng và ăn chung”, và nhất là “giờ nằm yên và ngửa cổ/ cho đầu thõng xuống cạnh giường/ đề phòng nước mắt có chảy/ chầm chậm ngược dòng mà tuôn.” Rồi chị cũng chẳng làm thơ nữa. Nhưng cũng như NBP, chị là tác giả tôi không bỏ qua cuốn nào. Nhắc mới nhớ, cần phải mua cuốn mới nhất của chị: Chuyện nhà Tí.

Thursday, 27 February 2025

Điều gì làm ta mỉm cười?

 + Cách đây vài hôm, một bạn làm thơ quen tôi qua FB gửi tặng tôi tập thơ của bạn. Lời đề tặng: Quý mến tặng nhà thơ, dịch giả xxx. Chắc triệu năm rồi mới có người gọi tôi là nhà thơ. Danh xưng này chỉ có lũ bạn đại học của tôi, đám đã từng bị tra tấn bởi thơ tôi, mới dùng mà thôi. Người bạn trẻ này, chắc đã lục lọi gì đó trên internet. Tất nhiên nhiều năm rồi tôi không làm thơ, không làm thơ được nữa, và cũng chưa bao giờ nhận là nhà thơ. Tôi vẫn đứng bên lề quan sát các giọng thơ mới, có một vài giọng thơ rất đáng theo dõi. Sẽ quay lại chủ đề nay một hôm khác. Chủ đề hôm nay là mỉm cười.

+ Tôi có tham gia vài book club quốc tế trên mạng, chủ yếu để theo dõi tin tức. Người tham gia các book club này ở khắp nơi trên thế giới, đa phần lớn tuổi, nhiều người đã về hưu. Rất khác với các book club Việt Nam, nơi đa phần người tham gia rất trẻ, thường ở độ tuổi sinh viên học sinh. Hôm nay, thấy một bạn post nguyên collection của J.M Coetzee, nói đây là tác giả yêu thích nhất của bạn trong số các tác giả đoạt giải Booker. Tôi nhảy vào nói, ơ, tao cũng có collection tương tự, chắc chỉ thiếu một, hai cuốn. Vài phút sau, bạn trả lời, hỏi tôi có phải là người Việt Nam không, bạn đã từng đến Việt Nam hai lần, và từng làm việc với ca sĩ Thanh Lam! Comment qua lại một hồi, hóa ra bạn là người Đan Mạch, đang sống ở Mỹ, từng là người quản lý của Niels Lan Doky  - người từng cộng tác với Thanh Lam trong một vài dự án. Bạn còn chỉ cho tôi nghe Một thoáng Tây Hồ, ha ha. Kết cục là trên đường đi làm, tôi mở album Asian Sessions của Niels Lan Doky ra nghe. Trong album này, Một thoáng Tây Hồ là track thứ hai. Tôi hẹn bạn khi nào tới Việt Nam lần nữa thì có thể gặp và đàm đạo về Coetzee và Thanh Lam.

+ Những chuyện nho nhỏ như vậy làm tôi mỉm cười. Cũng có vài chuyện khác làm tôi mỉm cười nhiều hơn nữa, nhưng chỉ có thể giữ trong lòng hoặc chia sẻ với đôi người bạn thiết.


Tuesday, 25 February 2025

Trở về... hoặc không

 Tôi đã bỏ hoang blog này hơn 8 năm trời. Trong 8 năm đó, tôi vẫn giữ blog này như một chốn để ghé nhà của các bạn không chơi FB, hoặc có chơi FB nhưng không dẫn link blog mình lên đó chẳng hạn như blog của ông Teq bạn tôi. Rồi một hôm rảnh rỗi, tôi chép các note hay status dài dài từ FB sang và lẩn thẩn xem lại các entry cũ. Bẵng đi một hai tháng, quay lại blog, thấy các entry rất cũ trồi lên nhiều, tuồng như là có ai đó đang lục lọi blog này. Rất nhiều ký ức ùa về. Nơi đây, đã từng có rất nhiều trao đổi thân tình và dí dỏm. Đã có nhiều mối quan hệ sơ trở thành thân và ngược lại. Ngày xưa, blog lắm người lui tới. Giờ đây trở lại, độc thoại cũng hay hay. 

Thử lại tính năng up ảnh. Chả tìm được ảnh gì trong máy tính ngoài cái ảnh này mà bên bán ghế gửi tôi xem mẫu hồi năm ngoái. Đây ắt là món đồ đắc ý nhất mà tôi sắm được vào năm ngoái. Nhờ cái ghế này mà 6 tháng liên tục tôi không vào Netflix, một kỷ lục cá nhân, và ngốn được chừng 30-40 cuốn sách gì đó. Cái ghế này rất dễ chịu, tôi thường nằm đây đọc sách, vài trang lăn ra ngủ, sách rơi trên ngực, một lúc thức dậy đọc tiếp, rồi lại ngủ. Vợ con quen rồi, tôi ngủ cứ mặc tôi ngủ, chẳng ai nói năng gì. Có hôm, tôi đọc sách rồi lăn ra ngủ ở đây, đèn đọc sách trên đầu, đèn phòng khách nhà bếp đều sáng trưng. Nửa đêm tôi tỉnh dậy, tắt đèn rồi bò vào phòng ngủ ngủ tiếp. 



Monday, 10 February 2025

Wide Sargasso Sea - Jean Rhys

Đọc Wide Sargasso Sea của Jean Rhys xong, tôi phải lần mò đi tra xem Sargasso là cái biển nào. Hóa ra đây là cái biển độc đáo nhất thế giới: nó không bờ, không tiếp giáp bất kỳ một vùng đất nào. Biển Sargasso nằm giữa Bắc Đại Tây Dương và bao quanh nó là các dòng hải lưu. Đây là một vùng biển lặng, không có gió nên cũng không có sóng. Thời chưa có máy hơi nước, tàu thuyền lọt vào vùng biển này khó thoát ra được vì không có gió căng buồm nên tàu đứng yên. Ở biển này có rất nhiều một loại tảo tên là tảo sargassum hay còn gọi là tảo đuôi ngựa. Chính loài tảo màu nâu này là dấu hiệu để phân biệt biển Sargasso với các phần khác của Bắc Đại Tây Dương. Biển Sargasso cũng gắn với những câu chuyện bí ẩn về những thủy thủ đoàn biến mất không dấu vết.

Tuy vậy, câu chuyện trong tiểu thuyết Wide Sargasso Sea của Jean Rhys hoàn toàn không liên quan gì tới biển.  Theo Wiki, Gemini, Chat GPT và đồng bọn, biển Sargasso là ẩn dụ cho một số thứ,  bao gồm mắc kẹt giữa hai nền văn hóa mà không thuộc về bên nào (tảo biển = mắc kẹt) – nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết không thuộc về Jamaica cũng không thuộc về Anh (dân da đen thì gọi cô là white cockroach, dân da trắng thì gọi là white nigger), ấy là chưa kể cái biển rộng kinh khiếp chính là khoảng cách mênh mông giữa hai nền văn hóa luôn; cuộc đời của nhân vật chính, Antoinette, cũng bồng bềnh trôi dạt như đám tảo đuôi ngựa; biển Sargasso nhiều bất ổn, đầy bí ẩn là biểu tượng cho việc Antoinette hóa điên, cũng như sự mập mờ về sự thật và căn tính. Tại sao Jean Rhys đặt tên cho cuốn sách bằng biển Sargasso mà không phải biển nào khác, nết xét rằng có nhiều cái biển khác cũng rộng và hung hiểm không kém? Ấy là vì, nhân vật chính của chúng ta, nàng Antoinette, người da trắng, sinh ra và lớn lên ở Jamaica, sau khi lấy chồng và hóa điên thì bị nhốt trên tầng áp mái một ngôi nhà ở Anh. Biển Sargasso là biển nằm giữa Jamaica và Anh.

Nhắc đến người điên bị nhốt trên tầng áp mái, ắt ta nhớ ngay đến Jane Eyre. Đúng thế, Antoinette chính là Bertha Mason, là người vợ đầu của chồng của Jane Eyre. Jean Rhys đã viết cuốn sách này để kể câu chuyện cuộc đời của Bertha, lý giải vì sao Antoinette trở thành Bertha hay vì sao cô hóa điên. Văn của Jean Rhys mơ màng, hơi khó nắm bắt, nhưng rất đẹp. Tôi nghĩ Jean Rhys đã viết những câu hay bậc nhất về sự thù ghét:

“I hated the mountains and the hills, the rivers and the rain. I hated the sunsets of whatever colour, I hated its beauty and its magic and the secret I would never know. I hated its indifference and the cruelty which was part of its loveliness. Above all I hated her. For she belonged to the magic and the loveliness. She had left me thirsty and all my life would be thirst and longing for what I had lost before I found it.”

Trong cuộc thăm dò các nữ nhà văn Anh lần này, sau khi hơi thất vọng với The Bookshop của Penelope Fitzgerald, Wide Sargasso Sea của Jean Rhys vừa bổ sung kiến thức địa lý cho tôi, vừa khiến tôi lảm nhảm viết gì mà đẹp quá. Các nữ nhà văn Anh: hãy xếp hàng!

Thursday, 6 February 2025

The Bookshop - Penelope Fitzgerald

Post sau đây có vẻ như là bài review cuốn The Bookshop của Penelope Fitzgerald. Tết xong còn hơi quỡn, nên viết dài hơn một đoạn văn.

Tác phẩm của Penelope Fitzgerald có lẽ chưa hiện diện trong tiếng Việt. Tuy vậy, danh tiếng của bà như là một trong những tiểu thuyết gia Anh hay nhất nửa sau thế kỷ XX khiến tôi tìm đọc bà một phen. Lựa chọn cuốn đầu tiên để đọc không phải là Offshore, cuốn đoạt Booker năm 1979, hay The Blue Flower, tác phẩm cuối cùng và được coi là kiệt tác của bà, mà là The Bookshop. Lý do rất giản dị: tôi thích đọc tiểu thuyết viết về một tiệm sách.
The Bookshop là câu chuyện một phụ nữ trung niên, góa chồng mua một tòa nhà cổ để mở một tiệm sách ở một thị trấn nhỏ. Bà có bạn (người đã đánh giá Lolita giùm bà) và đương nhiên có cả kẻ thù, và tất nhiên cao trào của câu chuyện nằm ở chỗ kẻ thù của bà đã làm gì đối với tiệm sách. Như một người review sách có tâm, tôi sẽ không tiết lộ cái hậu quả tiệm sách bị đóng cửa, bởi tiệm sách mà không đóng cửa thì làm gì có chuyện để viết. Tuy nhiên, đối với một tiểu thuyết văn chương – từ dùng để phân biệt với tiểu thuyết trinh thám, tiểu thuyết khoa học viễn tưởng, tiểu thuyết hình sự, tiểu thuyết phản gián, tiểu thuyết tình báo, tiểu thuyết kinh dị… - thì câu chuyện hay plot có gì là quan trọng. Quan trọng là cách viết phỏng ạ, người ta thường bảo thế. Vậy thì cách viết của Penelope Fitzgerald trong cuốn này thế nào?
Như một người review sách có tâm và khiêm tốn tôi sẽ không nói bà viết chán ốm hay tẻ nhạt, mặc dù đấy chính là những từ tôi muốn dùng nhất. Bà không có những câu, chữ hay lối viết khiến ta thấy sướng – cảm giác mà tôi thấy rất rõ khi đọc các tiểu thuyết gia Anh khác như E.M Forster hay Graham Greene. Rất xin lỗi các nhà nữ quyền, lẽ ra tôi phải nhắc tới Woolf hay Jane Austen, nghe đâu họ viết hay lắm, nhưng tôi chựa thực sự đọc họ, biết làm sao được. Bà cũng không có những quan sát bất ngờ hay hài hước – những câu mà tôi có thể dùng bút highlight vàng chóe của mình miết cho trầy mặt giấy hay giật lên làm xì ta tút trên Phây búc. Về khía cạnh này những hậu bối của bà như Ali Smith hay Rachel Cusk làm tốt hơn. Bà thực sự kể một câu chuyện giản dị một cách giản dị, hay nói đúng hơn là quá giản dị, giản dị phát chán lên được. Xin lỗi, đó là từ không nên dùng (tự vả vào mặt hai cái để chứng tỏ mình là người review sách có tâm, không có tâm thì còn biết dùng vào việc gì). Bà có “leave a lot of things unsaid” tức có nhiều thông điệp sâu sắc không được nói ra mà người đọc phải tự hiểu không? Có, có chứ, nhẽ nào. Bà rất tôn trọng độc giả, bà nhất quyết không phải thể loại nhà văn viết một câu lại giảng cho độc giả một câu. Dầu sao cuốn sách này cũng đã từng vào chung khảo Booker một năm xa xưa cơ mà.
Có đôi điều trong sách tôi lấy làm thích thú. Thứ nhất, để mở tiệm sách này, nhắc lại ở một thị trấn nhỏ, bà (bà nhân vật, không phải bà tác giả) có dùng luật sư, mặc dù cái thị trấn ẩy nhỏ đến nỗi chỉ có hai luật sư mà thôi. Nhưng tôi không hiểu, ở thập niên 60, trong một thị trấn nhỏ, mà bà và luật sư của bà không gặp nhau, không gọi điện cho nhau, mà hễ chút lại viết thư. Hay là trong tiểu thuyết mới thế? Hay là đó là cách để làm dày một cuốn tiểu thuyết khá mỏng? Thứ hai, trong cái thị trấn nhỏ và chắc chắn là ít dân này, khi mà bà quen biết với tất cả người mua sách của mình, bà lại dám đặt một đơn hàng đến 250 cuốn Lolita. (Nên trao bà một huy chương cho lòng dũng cảm?). Chưa hết, việc bà trưng bày Lolita lên cửa sổ đã tạo nên những đám đông không mong muốn bên ngoài cửa hàng, đến nỗi kẻ không ưa bà đã vu cho bà là đã gây “cản trở giao thông”! Quanh sự kiện Lolita này, còn một chuyện đáng chú ý, đó là khi một người bạn của bà, người đã đọc và khuyên bà nên đặt Lolita về bán, nói rằng (đại ý): Bà đặt Lolita về và bán cho dân thị trấn đi. Cuốn này hay đấy. Họ sẽ chẳng hiểu con mẹ gì đâu nhưng thế cũng tốt. Quả đúng thế, sách hay cần gì phải hiểu!
Đến đây có vẻ là hết bài review.

Monday, 3 February 2025

Tuyển tập Kawabata - Hồi ức, tiểu luận, thư từ

Tuyển tập Kawabata - Hồi ức, tiểu luận, thư từ

Tác giả: Kawabata Yasunari 

Người dịch: Nguyễn Nam Trân

Tao Đàn xuất bản


Cuộc đời Kawabata đầy bất hạnh từ thiếu thời, thảo nào văn ông buồn đến vậy. Bản thân là một đứa trẻ sinh non, ông mất cả bố và mẹ khi chưa tròn ba tuổi. Sống với ông bà nội, những năm thơ ấu ông lần lượt trải qua cái chết của bà nội, chị gái, và ông nội ông cũng qua đời năm ông mười sáu tuổi. Năm hai mươi ba tuổi ông hứa hôn với một cô gái mười sáu tuổi để rồi bị hủy hôn không rõ lý do khi chuẩn bị kết hôn. Những chuyện này được ông kể lại bằng nhiều hình thức khác nhau trong tập sách này.

Giữa lúc đang đắm chìm trong một mớ tiểu thuyết khác nhau, tôi tình cờ nhấc cuốn này lên để rồi gần như đọc xong nó trong hai ngày cuối tuần. Kawabata tự sát bằng khí ga năm 72 tuổi, không để lại thư tuyệt mệnh. Đáng chú ý Kawabata sinh thời phản đối chuyện tự sát của Akutagawa và Dazai Osamu. Tuy nhiên, đọc phần nhật ký của Kawabata viết năm 16 tuổi khi chăm sóc ông nội già, bệnh, cộng thêm đọc về chuyện thể chất ông yếu ớt, tôi lờ mờ đoán ra nguyên nhân tự sát của ông.

Phần thư từ với Mishima là phần tôi rất quan tâm, tuy nhiên phần đó quá mỏng trong tập sách 550 trang khổ lớn này: chỉ có 4 lá. Đáng chú ý nhất trong đó là thư Mishima tiến cử Kawabata cho giải Nobel. Mishima tỏ ra rất hiểu Kawabata khi nói cả đời văn Kawabata chỉ quan tâm đến hai chủ đề: sự cô độc và vẻ đẹp trong khoảnh khắc.

Phần tùy bút, có những bài viết rất đặc sắc về vẻ đẹp Nhật Bản mà ta thấy Kawabata phát triển trong tác phẩm của mình: vẻ đẹp của những điều không kể ra, như tranh thuỷ mặc cốt tủy ở khoảng để trắng.

Trong phần thư từ, những lá thư gởi cha mẹ đã mất của ông nhiều xót xa và cay đắng, thậm chí cay độc, nhưng cũng lý giải được nhiều về tính cách và chủ đề của ông, cho thấy cô nhi là một vết thương lớn nhà văn không bao giờ vượt qua được.

Kawabata, thật bất ngờ, cũng đã kể lại những tình cảm đồng tính của mình khi mới lớn một cách chân thành và cảm động.

Đọc xong cuốn này, tôi muốn đọc hết tác phẩm của Kawabata.