[giựt tiêu đề cho nó teen một tí, thực ra là phần còn lại của truyện này ]
9. Một mâu thuẫn
Cha tôi nói: “Trông lũ ngốc kia. Chúng nó không biết chính chúng nó cũng sẽ tàn đời.”
10. Một cảnh tượng không vui
Thế giới vào thời điểm này đầy những cảnh tượng không vui và bực bội. Một cảnh mà tôi còn nhớ rõ diễn ra ngay giữa thành phố trong một chiều thứ ba oi bức. Lúc đó khoảng một giờ rưỡi, tôi đang đợi Karen chỗ bưu điện thì một người khoảng bốn mươi tuổi chạy ngang qua. Ông ta đang tan biến một cách nhanh chóng. Mọi người đều có vẻ cố tình nhìn ra chỗ khác, điều này có vẻ còn làm ông tan biến nhanh hơn. Tôi nhìn ông chằm chằm, hy vọng tôi có thể làm một điều gì đó để giữ ông ta lại đến khi được cứu. Tôi cố gắng yêu thương ông, vì tôi tin vào lý thuyết của cha tôi. Tôi nghĩ tôi phải yêu thương người này. Nhưng mà gương mặt của ông ta chọc tức tôi. Yêu thương một người xa lạ thật không dễ dàng tí nào, và tôi phải xấu hổ mà thừa nhận rằng ông ta có cái miệng nhỏ và cặp mắt ti hí mà tôi vốn rất không ưa. Tôi cố gắng yêu thương ông ta nhưng hẳn đã thất bại.
Trong khi đó ông cố gắng vẫy taxi. Nhưng các tài xế taxi quá biết những gì đang diễn ra nên hoàn toàn không có ý chở một người khách có thể ngưng tồn tại vào bất cứ lúc nào. Họ nhìn ra hướng khác hoặc kéo bảng KHÔNG CHO THUÊ lên.
Cuối cùng ông ta tóm được một chiếc taxi ở chỗ đèn xanh đèn đỏ. Đến lúc này ông ta mỏng mảnh đến nỗi tôi có thể nhìn xuyên qua người ông. Ông ta bắt đầu gào lên. Một tiếng kêu yếu ớt, rờn rợn, the thé. Ông ta cố mở cửa xe, nhưng anh tài xế đã khóa chặt cửa. Tôi nghe giọng ông ta cao và nhói: “Cho tôi về nhà.” Ông ta lặp đi lặp lại: “Cho tôi về nhà để gặp vợ.”
Khi đèn xanh bật chiếc taxi chồm lên. Xe cộ chợt lắng đi. Mọi người đều lẩn đi chỗ khác, chỉ còn có tôi đứng nhìn người đàn ông tan biến hoàn toàn.
Tôi cảm thấy choáng.
Năm phút sau Karen đến, thấy tôi nhợt nhạt và run rẩy, nàng lo lắng: “Anh có sao không?”
“Em có yêu anh không?” tôi hỏi.
11. Những vùng hoang địa
Cha tôi có cái kiểu giải thích cho tôi về những việc mà tôi đã biết một cách rất bực mình, ông thường không chịu ngừng dù tôi có lặp đi lặp lại “Con biết” hay “Bố đã bảo con rồi” bao nhiêu lần chăng nữa.
Thế nên ông giảng giải về ý nghĩa quan trọng của những vùng hoang địa bằng cái giọng của giáo viên giảng bài cho trẻ em cá biệt.
Ông nói: “Mày biết không, những vùng hoang địa là những vùng đầu tiên bị biến mất mà bản thân điều này có ý nghĩa quan trọng. Những vùng này, tao nghĩ mày đã biết, con người ít khi bén mảng đến, và chỉ có những người như tao mới đến đó chỉ để bảo đảm rằng chúng vẫn còn ở đó. Chúng ta không sử dụng những vùng này, những sa mạc, đầm lầy và bờ biển này, và dĩ nhiên đó là lý do chúng biến mất. Chúng chẳng qua chỉ là thứ thuộc về chúng ta và nếu chúng ta có sử dụng chúng chẳng qua chỉ là hình tượng cho các nhà thơ, nhà văn và nhà làm phim. Chúng được sử dụng làm biểu tượng của sự xa lánh, ruồng bỏ, cô độc, vô dụng và đại loại như thế. Mày có hiểu tao nói gì không?”
“Vâng,” tôi nói, “con hiểu bố nói gì ạ.”
“Hiểu thật không,” ông nhấn mạnh. “Tao không biết mày có thực sự hiểu không?” Ông dò xét tôi nghiêm nhặt, ngờ vực khả năng tôi hiểu ông. “Mày bao nhiêu tuổi rồi nhỉ?”
“Hai mươi,” tôi nói.
“Dĩ nhiên, tao biết”, ông nói. “Mày có hiểu ý nghĩa quan trọng của những vùng hoang địa không?”
Tôi thở dài, hơi to một tí khiến cha tôi nhíu mày. Tôi nói nhanh: “Chúng cũng giống những nơi khác thôi. Chúng giống như các thành phố. Các thành phố cũng là những sa mạc mà ở đó người ta lẻ loi và cô độc. Người ta không yêu thương nhau.”
“Không yêu thương nhau”, cha tôi kéo dài giọng, rồi thở dài. “Chúng ta không còn yêu thương nhau nữa. Khi chúng ta nhận ra rằng chúng ta cần có nhau thì chúng ta sẽ không phải biến mất nữa. Đây là bài học cho chúng ta. Một bài học khó khăn nhưng hy vọng là có ích.”
Cha tôi tiếp tục nói, tôi nhìn ông nhưng không lắng nghe. Mấy phút sau ông đột ngột ngưng lại: “Mày có đang nghe tao không đấy?” Tôi ngạc nhiên khi nhận thấy sự lo lắng thực sự trong giọng nói của ông. Ông nhìn tôi một cách ngờ vực, nói: “Tao luôn luôn chăm sóc mày, từ khi mày còn bé tí”.
12. Sự suy thoái của các Trắc địa viên
Tôi không biết từ khi nào tôi nhận thấy cha tôi bắt đầu trầm uất. Có thể nó diễn ra từ từ nên cả tôi lẫn mẹ đều không nhận thấy.
Ngay cả khi tôi nhận thấy điều này, tôi cho là tại đàn bà. Cha tôi có khá nhiều người tình và tính khí ông thường phản ánh sự thành công hay thất bại trong những mối quan hệ đó.
Nhưng tôi biết rằng ông đã nghe tin về Hurst và Jamov, hai Trắc địa viên đầu tiên biến mất. Tin này bị ỉm đi trong nhiều tuần rồi không hiểu bằng cách nào rò rỉ ra giới báo chí. Cố nhiên các Trắc địa viên có kẻ thù trong số các công chức, những người cho rằng họ quá kiêu ngạo và lĩnh lương quá nhiều, và có lẽ là báo chí biết tin từ một trong những công chức này.
Khi tin tức rốt cụôc cũng bùng ra, tôi hiểu sự trầm uất của cha và cảm thấy tội nghiệp cho ông.
Tôi không biết phải giúp ông thế nào. Tôi hết sức muốn làm ông vui vẻ. Tôi chưa bao giờ có thể mang lại cho ông thứ gì hoặc làm điều gì cho ông mà bản thân ông không thể làm tốt hơn. Giờ đây tôi muốn giúp ông, để chứng tỏ với ông rằng tôi thấu hiểu.
Một tối nọ khi từ văn phòng về nhà tôi thấy ông đang ngồi trước ti vi, tôi lặng lẽ ngồi xuống cạnh ông. Lúc này ông có vẻ dịu dàng hơn, ông đặt tay lên đầu gối tôi và vỗ nhè nhẹ.
Tôi ngồi đó một lúc, hân hoan với sự ấm áp mới mẻ trong mối quan hệ cha con và rồi không ngăn được cảm xúc của mình nữa, tôi buột miệng: “Bố đổi nghề đi.”
Cha tôi cứng người lại rồi ngồi bật dậy. Ông bóp chặt đầu gối tôi khiến tôi kêu lên đau đớn, nhưng ông vẫn tiếp tục bóp, làm tôi đau kinh khủng.
“Mày ngốc lắm con ạ”, ông nói, “mày không biết rồi chính mày cũng sẽ tàn đời”.
Tôi cảm thấy mức độ sợ hãi của cha qua chỗ đau trong chân tôi.
13. Tại sao thế giới cần có Trắc địa viên
Cha tôi đánh thức tôi dậy lúc 3 giờ sáng để nói với tôi tại sao thế giới cần có Trắc địa viên. Người ông đầy mùi whisky, một lần nữa có vẻ rất dịu dàng.
“Thế giới cần có Trắc địa viên,” ông khẽ nói, “bởi vì nếu không có Trắc địa viên, lũ ngốc ấy sẽ chẳng biết chúng đang ở đâu. Nếu như không có một Trắc địa viên bảo chúng cái gì đang diễn ra, chúng sẽ chẳng biết rồi chúng cũng tàn đời. Thế giới cần có Trắc địa viên, thế giới dứt khoát cần có Trắc địa viên.”
14. Cảnh cuối cùng
Hãy để tôi tả cảnh cuối cùng cho các bạn: Tôi ngồi trên ghế sô pha mà cha tôi mang về nhà khi tôi năm tuổi. Tôi xem tivi. Cha tôi ngồi trên chiếc ghế da có chỗ gác tay vốn thuộc về ông nội và luôn luôn được dành riêng cho ông. Mẹ tôi ngồi chỗ bàn ăn, bộ bài trải khắp mặt bàn, một lần nữa chơi trò đánh bài một mình không bao giờ dứt.
Tôi liếc sang xem ông có làm gì ngoài việc nhìn trừng trừng vào khoảng không hay không, và hãi hùng nhận thấy ông đang có những dấu hiệu đầu tiên của sự tan biến.
“Mày nhìn cái gì?”. Thật ra cha tôi đang chằm chằm nhìn tôi.
“Không nhìn gì cả ạ.”
“Hừm, đừng nhìn.”
Hoảng sợ, tôi quay mắt lại nhìn cái ti vi vô nghĩa. Tôi không biết phải làm gì. Liệu tôi có nên nói với cha tôi rằng ông đang tan biến không? Nếu tôi không nói liệu ông có biết không? Tôi cảm thấy tôi nên làm một điều gì đó, nhưng tôi đã bắt đầu cảm thấy sự giận dữ trong giọng nói của ông. Sự giận dữ của ông thì không có gì lạ. Nhưng có thể đây là khởi đầu của một cơn thịnh nộ không thể kiểm soát được. Nếu ông biết ông đang tan biến, ông sẽ nghĩ rằng tôi không yêu thương ông. Ông sẽ trách cứ tôi. Ông sẽ tấn công tôi. Mặc dù già như thế, ông vẫn khỏe hơn tôi nhiều và ông có thể tẩn tôi ra trò. Tôi cố ý nhìn chằm chằm vào tivi và cảm thấy ánh mắt của cha tôi nhìn tôi.
Tôi cố cảm thấy yêu thương cha tôi, tôi cố, cố hết sức.
Tôi thử nhớ lại tôi đã cảm thấy như thế nào về ông khi tôi còn bé, thời mà thỉnh thoảng ông vẫn dịu dàng với tôi.
Nhưng vô hiệu.
Bởi vì tôi chỉ có thể nhớ ông đã đánh tôi như thế nào, làm tôi đau như thế nào, khinh thường tôi và tán tỉnh các bạn gái tôi như thế nào. Trong cơn hãi hùng và cảm giác tội lỗi, tôi nhận ra tôi không hề yêu ông. Mặc dù vậy tôi vẫn nói: “Con yêu bố.”
Mẹ tôi rời mắt khỏi đống bài, ngẩng nhìn lên và bật kêu thảng thốt.
Tôi quay lại nhìn cha. Ông hầu như đã biến mất. Tôi có thể nhìn thấy lớp da của chiếc ghế xuyên qua bụng ông.
Tôi không rõ lời bày tỏ tình yêu thương thiếu thuyết phục của tôi hay tiếng kêu thảng thốt của mẹ khiến cha tôi cười vang. Không hiểu tại sao ông bắt đầu cười sằng sặc: “Các người ngốc lắm,” ông hổn hển, “ta ước gì các người có thể nhìn thấy cái vẻ ngờ nghệch của chính các người.”
Và thế là ông biến mất.
Mẹ tôi nhìn sang tôi hốt hoảng, tay vẫn cầm một quân bài. “Con có yêu mẹ không?” bà hỏi.
---
Dịch từ nguyên bản tiếng Anh "Do You Love Me?" rút trong tập Collected Stories, Nhà xuất bản University Queensland Press, 2000
vẫn vẫn he he
ReplyDeletevẫn thừa chất thơ hả?:)
ReplyDeleteem chả biết, Carey chứ phải Carver đâu mà làm mặt lạnh :P
ReplyDeleteI still love you too, babe, don't worry :P
ReplyDeleteEm thấy khi mình không còn yêu thương ai/cái gì nữa thì mình cũng "tèo" nhanh lắm.