Hiển thị các bài đăng có nhãn kundera. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn kundera. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 1 tháng 9, 2013

Những kẻ a-giê-lát



Theo Kundera, a-giê-lát là một từ do Rabelais đặt ra, lấy từ tiếng Hy Lạp để chỉ những kẻ không biết cười. Những kẻ a-giê-lát là những kẻ không thanh thản với cái khôi hài. Với họ, mọi lời bông đùa đều là những lời báng bổ cả, và Kundera bình thêm, ấy chính bởi mọi lời bông đùa đều là báng bổ, vì làm sao có thể dung hòa cái khôi hài và cái thiêng liêng. Những kẻ a-giê-lát không chấp nhận sự giải thiêng. 


Như Rabelais, ta cũng ghê khiếp những kẻ a-giê-lát, nhưng ta cũng nên biết ơn họ, vì sự tồn tại của họ khiến cho cái khôi hài được trọn vẹn.


Những kẻ a-giê-lát, những kẻ không biết cười, rất nhiều ở quanh ta.

Thứ Ba, 1 tháng 5, 2012

Quay nhanh

Đã bao lâu rồi kể từ khi Karenin và Anna thôi làm tình? Còn Vronsky thì sao? Chàng có giỏi cái khoản mang lại cực khoái cho nàng không? Và Anna?   Liệu nàng có thể nào lãnh cảm? Họ đã làm tình trong bóng tối, ngoài ánh sáng, trên giường, trên thảm, được ba phút, ba giờ, nói chuyện lãng mạn hay tục tĩu,  hay im lặng? Chúng ta chẳng biết tí gì về chuyện ấy. Trong các tiểu thuyết thời đó, tình yêu giải trên vùng đất rộng lớn từ lần gặp gỡ đầu tiên đến chỗ mấp mé của sự giao hợp; chỗ mấp mé đó là một ranh giới không được vượt qua.

Thế kỷ hai mươi, tiểu thuyết dần dần khám phá ra tính dục trong mọi chiều kích. Ở Mỹ, tiểu thuyết báo hiệu, và sau đó đi kèm với, biến đổi lớn lao về tập quán đạo đức diễn ra với tốc độ chóng mặt: trong những năm 1950 người ta hãy còn ngột ngạt trong một thứ thanh giáo cứng rắn, thì trong vòng hơn một thập kỷ sau mọi thứ đã thay đổi: cái quãng thời gian dài dặc từ những hò hẹn buổi đầu cho đến hành vi ái tình biến mất. Người ta không còn được che chắn, bảo vệ trước tình dục bởi thứ cảm giác ngập ngừng; giờ đây người ta đi vào chỗ đương đầu trực tiếp, quả quyết với nó.

Ở D.H.Lawrence, tự do tính dục có cái cảm giác của sự phản kháng kịch tính hay bi kịch. Không lâu sau đó, ở Henry Miller, nó bị các uyển ngữ trữ tình bao vây. Ba mươi năm sau, ở Philip Roth, nó đơn giản là một thứ phải có, mặc nhiên, phải đạt tới, thông thường, phổ biến, không thể tránh khỏi, được điển hóa: nó không kịch tích, không bi kịch, cũng chẳng trữ tình.

Giờ thì ta đã tiệm cận giới hạn. Không “xa” hơn. Bây giờ chẳng phải luật pháp, hay cha mẹ, hay quy ước phản đối dục vọng; mọi thứ đều được cho phép, và kẻ thù duy nhất chính là thân thể của chúng ta, bị bóc trần, vỡ mộng, lột mặt nạ. Philip Roth là một sử gia vĩ đại của chủ nghĩa huê tình kiểu Mỹ.  Ông cũng là thi sĩ của nỗi cô đơn lạ lùng ấy của con người bị bỏ lại trơ trọi đối diện với thân thể mình.

Tuy nhiên, trong những thập kỷ vừa qua, lịch sử đã chuyển động rất nhanh đến nỗi các nhân vật trong Giáo sư dục vọng không thể không lưu giữ chút ký ức của một thời đã xa, thời của cha mẹ họ, những người trải nghiệm tình yêu giống các nhân vật của Tolstoy hơn là của Roth. Niềm hoài nhớ tràn ngập không gian khi cha và mẹ Kepesh xuất hiện không chỉ là niềm hoài nhớ của của hai bậc cha mẹ, đó là niềm hoài nhớ cho tình yêu như thế, cho tình yêu giữa cha và mẹ, cho cái tình yêu cảm động, lỗi thời dường như đã biến mất khỏi thế giới ngày nay. (Nếu không còn ký ức  về việc nó từng là thế nào, thì còn lại gì của tình yêu, của bản thân khái niệm tình yêu?) Niềm hoài nhớ lạ lùng ấy (lạ lùng ở chỗ nó không bị ràng buộc với những nhân vật cụ thể mà được sắp đặt xa hơn, bên ngoài cuộc đời của họ, ở hậu cảnh) mang lại cho cuốn tiểu thuyết (có vẻ đầy mỉa mai) này một vẻ dịu dàng xúc động.

Sự tăng tốc của lịch sử đã làm biến đổi sâu sắc những cuộc đời cá nhân mà, trong những thế kỷ trước, thường diễn tiến từ sinh đến tử chỉ trong vòng một giai đoạn lịch sử; ngày nay một cuộc đời  vắt qua hai giai đoạn như thế, có khi nhiều hơn. Trong khi lịch sử từng tiến bước chậm hơn nhiều so với  cuộc đời con người, ngày nay chính lịch sử lại di chuyển nhanh, nó chồm về phía trước, nó trượt khỏi sự cầm nắm của con người, và tính tiếp diễn, cũng nhưcăn cước, của một cuộc đời đang trong mối nguy bị rạn vỡ. Cho nên tiểu thuyết gia cảm thấy có nhu cầu phải giữ lại trong tầm với, bên cạnh cách sống của chính chúng ta, ký ức về cuộc đời e lệ và phần nào bị quên lãng mà tiền nhân ta từng sống.

Đây là ý nghĩa của tính thông tuệ của các nhân vật của Roth, tất cả bọn họ đều là giáo sư văn chương hoặc nhà văn, thường xuyên suy gẫm về Chekhov, Henry James hay Kafka. Đây không phải là sự phô bày tri thức vô nghĩa của một thứ văn chương vị kỷ. Mà đó là mong mỏi muốn gìn giữ những thời đã qua ở chân trời của tiểu thuyết, và không bỏ các nhân vật lại trong một chốn rỗng không nơi mà giọng của tổ tiên không còn được nghe thấy nữa.

Dịch từ bài Love in Accelerating History (Philip Roth: The Professor of Desire) của Milan Kundera, qua bản dịch từ tiếng Pháp của Linda Asher


Thứ Tư, 1 tháng 6, 2011

Thích ai ai thích bây giờ thích ai

Hôm qua nhìn vào những cụm từ khóa tìm kiếm dẫn đến blog này, tôi thấy có cụm từ “những nhà văn yêu thích của LVT.”  Thật là quý hóa quá, bạn nào quan tâm đến độ muốn biết tôi thích đọc những ai. Cứ đà này tôi được The Paris Review phỏng vấn không chừng.  Trong mục phỏng vấn các nhà văn của The Paris Review, đây là câu hỏi hay được lặp lại dưới các hình thức khác nhau.  Nhân đây, tôi quảng cáo bài trích dịch phỏng vấn Calvino được Nhã Nam đăng lại ở đây. Thật ra, nếu đọc blog này thường xuyên thì cũng biết, vì tôi hay ba hoa mà, chứ còn tìm thế kia thì không ăn thua đâu. Nhưng để giúp bạn, tôi viết hẳn một entry cho bạn khỏi nhọc công kiếm tìm:)

Tôi thích Dostoyevsky. Với tôi, Dostoyevsky là nhà văn duy nhất viết từ thế kỷ mười chín mà nay đọc lại vẫn không thấy cũ, theo kiểu từ các giám khảo American Idol hay dùng là vẫn rất “current” và “relevant”. Nói như vậy không phải các tác giả thế kỷ mười chín khác kém hơn Dos, mà chẳng qua tôi không có sức đọc nổi tất cả. Kundera diễn giải luận điểm này trong một tiểu luận trong tập Bức màn hay Cuộc gặp gỡ gì đó.  Đại khái Kundera bảo ai đó chê tranh một danh họa xấu, thì ta chỉ cần đến một viện bảo tàng có bức tranh ấy thì ta có thể thấy ngay người kia chê không có căn cứ.  Tương tự với trường hợp âm nhạc, không mất quá nhiều thời gian để kiểm chứng. Trong khi đó, ông có thể thích Conrad và người khác có thể chê Conrad hết lời, đơn giản vì ông và người kia chỉ đọc một hoặc hai cuốn của Conrad và đấy là những cuốn khác nhau.  Ví dụ muốn so sánh Dos và Lev Tolstoy ai vĩ đại hơn thì phải mất hàng năm trời để đọc trước tác của hai ông, một điều gần như không thể với tuyệt đại đa số người yêu văn học.

Tôi nhắc đến Kundera. Tôi cũng thích Kundera, vì chất trí tuệ và hài hước của ông. Theo tôi hài hước là phẩm chất nổi trội của một nhà văn lớn. Tôi thích Kundera còn để ủng hộ bác blogger nhà bên cặm cụi dịch hết cuốn này đến cuốn kia của bác ấy.:)

Nói chung mỗi lần hỏi tôi có thể cho ra một danh sách khác nhau, nhưng bây giờ ngoài hai bác trên những cái tên sau đây vụt đến trong đầu tôi: Paul Auster, dĩ nhiên, chỉ cần một cuốn The New York Trilogy là đủ để yêu bác cả đời, cho dù những cuốn về sau này của bác chán lắm.  Nếu gặp bác tôi sẽ khuyên bác tạm nghỉ viết đi du lịch vài năm. Paul Auster là dạng nhà văn chỉ cần đọc một câu là có thể thích cả cuốn sách (dại dột chẳng kém vì yêu một má lúm đồng tiền hay một cái răng khểnh mà cưới, không phải cưỡi, nguyên một người phụ nữ), chẳng hạn câu đầu tiên trong The Brooklyn Follies: “Tôi đang tìm một nơi yên tĩnh để chết và người ta giới thiệu Brooklyn với tôi”. Hình như vậy, dịch theo trí nhớ.  Bạn nào đang mượn cuốn này của tôi trả mau! Murakami, tôi biết ở đây có mấy bác chê Murakami sến, tôi cũng công nhận bác ấy có sến nhưng tôi vẫn thích bác ấy vì tôi cũng sến. Văn Murakami chẳng khác một món nộm bắt mắt và ngon miệng, vừa có siêu thực, vừa có hậu hiện đại, thỉnh thoảng có con mèo biến mất và vài màn khẩu dâm rùng rợn, vừa thỏa mãn nhu cầu giải trí lại vừa cho ta cái cảm giác được làm trí thức. Văn thế mà không thích mới lạ.  Coetzee, tất nhiên, tôi thích cách viết hết sức gọn ghẽ và chính xác của  bác này, đặc biệt trong Disgrace Diary of a Bad Year, chứ không phải Giữa miền đất ấy trong đó "down to earth" được dịch thành "sụp xuống đất", và càng không phải Ruồng bỏ. Pamuk, một tất nhiên không được tất nhiên lắm, mấy tiểu thuyết của bác cuốn thì ảm đạm quá cuốn thì thế kỷ mười chín quá, nhưng Istanbul tuyệt và Other Colors càng tuyệt, hic.  Ai nữa nhỉ, Hesse, thật ra chỉ thích Goldmund Câu chuyện dòng sông. Vũ Trọng Phụng, vì trào phúng và luôn hiện đại. Nguyễn Huy Thiệp của những truyện ngắn thời ông chưa bắt đầu viết tiểu thuyết. Nguyễn Khải của Gặp gỡ cuối nămThời gian của người. Thuận của T mất tích và mấy chục trang trong Thang máy Sài Gòn. Đoàn Minh Phượng của Và khi tro bụi và phần nào của Mưa ở kiếp sau. Phạm Thị Hoài của Thiên sứ, Ám thị, Man Nương… Như thế cũng nhiều đấy chứ.

Đầy, nhưng như đã nói, nếu viết entry này cách đây một năm danh sách có thể khác, mà một năm sau càng khác hơn.  
  

Thứ Năm, 27 tháng 5, 2010

Lảm nhảm cũng có lời

Tôi thấy có những người thật quá đáng. Có mỗi cái ngày mình chui ra đời mà cũng day đi day lại, gơi ý quà cáp trắng trợn tuần trước đến tuần sau, lẽ ra tôi cũng có thể niệm tình tha thứ thò ra The Enchantress of Florence của Salman Rushdie, hay tệ ra cũng một cuốn cũ cũ của Lê Tôn Nghiêm. Nhưng mà làm quá, quá đáng lắm. Cứ như thế thà cứ để nuôi mấy con mối ở nhà còn hơn:)

***

Những ngày này, vô tri Vô Tri hữu vô tri. Tất nhiên, tôi không phải là tác giả cái câu nho chùm kia. Chỉ là một lần tôi đùa một bạn rằng Vô Tri đang là “thời thượng”, nếu vô tri Vô Tri thì nghĩa là vô tri, một bạn khác nhã ý thay “thì nghĩa là” với “hữu”. Vậy là có nho chùm. May cho tôi, cuốn này tương đối mỏng – chỉ khoảng hai trăm trang – nên chỉ cần một buổi tối yên tĩnh là có thể nhấm nháp xong và thoát khỏi cảnh vô tri!

Có quá nhiều câu trong cuốn này có thể phục vụ rất tốt cho mục đích làm status trên Facebook:) – những câu mà khiến bạn bè trong friend list của bạn phải trầm trồ và khẽ khàng nhấn vào nút “like”. Tuy nhiên, tôi không liệt kê ra đây đâu, bạn phải lao động một tí, phải tìm ra chúng; và sau đó hãy thi đua xem câu nào được “like” nhiều hơn. Khi đó, bạn có thể tự thưởng cho mình một cái kẹo mút:)

Đoạn tôi chép lại dưới đây lại không nằm trong Vô Tri (nhưng vẫn có thể đưa lên status của Facebook được!) mà nằm trong Nghệ thuật tiểu thuyết, cũng của Kundera:

Tục tĩu

Trong một ngôn ngữ nước ngoài, ta dùng các từ tục tĩu, mà không cảm thấy tục tĩu. Từ tục tĩu, đọc nhấn giọng, trở thành hài. Khó tục tĩu với một người đàn bà ngoại quốc. Tục tĩu: cái gốc rễ sâu xa nhất gắn liền ta với tổ quốc của mình.

Tôi nhớ lại cái định nghĩa này của Kundera khi đọc đến đoạn gần cuối của Vô Tri, khi Irena và Josef nói chuyện với nhau về Ulysse và Penelope, và Irena bắt đầu thay thế từ bộ phận sinh dục bằng những từ bậy bạ, rồi bậy hơn nữa. Điều đó làm cho Josef choáng váng, vì đã hai mươi năm anh mới nghe lại những từ ấy bằng tiếng mẹ đẻ, “bởi vì chính là thông qua thứ tiếng ấy, thông qua những cội rễ sâu xa của nó, mà dâng lên đến tận anh sự kích thích của hàng thế hệ, hàng thế hệ” và nhờ đó “ chỉ trong vài chục giây họ đã lao vào yêu nhau”. Thế đấy, “yêu nhau” là một vấn đề mang tính lịch sử!

Kundera, bên canh việc là một tiểu thuyết gia, còn là một nhà lý luận về tiểu thuyết. Cá nhân tôi thích đọc tiểu luận của ông hơn là tiểu thuyết của ông.

***

Có một bạn hô hào mọi người chơi một trò ghép tên các tiểu thuyết của một nhà văn hay bài hát của một ban nhạc thành một đoạn văn có nghĩa. Tất nhiên là nhảm nhí, nhưng tôi đã tham gia:) và kiếm được một chầu cà phê. Sau chầu cà phê, tôi còn được giới thiệu một tiệm sách mà ở đó sau một hồi lục lọi tôi kiếm được Travels in the scriptorium của Paul Auster giá chỉ năm mươi nghìn!

Tôi kiếm được chầu cà phê trên nhờ đoạn này. Tất nhiên là nhảm nhí nhé!

It’s not uncommon to see someone who believes that in searching for identity, in slowness one may reach immortality. What an ignorance! Life is elsewhere, and one should realize that the lightness of being is indeed unbearable. Thus, life is just a joke, and all loves are laughable. In the end of the end, all memories will be fading away, like a farewell waltz. Let’s record all in a book of laughter and forgetting.

Thứ Sáu, 7 tháng 5, 2010

Không lời A, K & M



A. Còn thiếu The New York Trilogy mẹ bạn Nemo chưa trả. Hy vọng chưa thành bỉm cho Nemo!




K. Còn thiếu Vô tri ơi hỡi Vô tri!


M. Một số tập truyện ngắn đã dịch ra tiếng Việt tôi chưa có, vì tôi ít khi đi mua truyện ngắn. Nhưng nếu có ai tặng tôi hứa không phiền lòng.:)