Thứ Hai, 17 tháng 11, 2025

Từ xấu

Entry này dành để tri ân các từ xấu, báo chí và mạng xã hội Việt Nam. Entry sẽ được cập nhật mỗi khi trời đẹp.

1. Chạm: Bây giờ người ta nói: "Bài hát này rất chạm", "Bộ phim này rất chạm". Tiên sư, chạm, chạm, chạm thần kinh thì có.

2. Lọt tóp: Là lọt cái quần què gì? Lọt khe nghe hay hơn nhiều.

3. Thắng giải: Thời các anh chị chưa võ vẽ chút tiếng Anh, người ta nói là đoạt giải, giành giải. Cô này đoạt giải Oscar, ông kia giành giải Nobel. Giờ các anh chị có tí IELTS lắp vào đít, các anh chị toàn "thắng giải". Não.



Chủ Nhật, 16 tháng 11, 2025

Solenoid - nhật ký đọc sách

Solenoid là tiểu thuyết của Mircea Cartarescu. Bản tôi có là bản tiếng Anh của Sean Cotter, Pushkin Press xuất bản, dày 638 trang chữ cỡ nhỏ. Tôi vừa đọc vừa ghi nhật ký để đảm bảo mình sẽ hoàn thành.

7/11/2025

Đọc xong 7 chương phần 1. Trong phần này ta sẽ được giới thiệu với nhân vật xưng tôi, một giáo viên ngữ văn 27 tuổi, đầu đầy chấy, mà anh ta gọi là "bệnh nghề nghiệp" do lây từ lũ trẻ con. Đọc phần này trong lúc tôi đang bị ngứa ngáy khắp người không rõ nguyên do, đâm ra đồng cảm với anh ta ghê gớm. Anh ta hint về những giấc mơ của mình, nhưng có lẽ sẽ nói đến ở phần sau. Anh ta dần hé lộ cho người đọc về giấc mộng văn chương của mình. Anh đã từng viết một bài thơ vĩ đại, mà anh gọi là Bài Thơ viết hoa, ấy là kết quả của mưới năm đọc văn chương của anh. Ta sẽ gặp những câu như thế này:" For the past decade, I had forgotten to breathe, cough, vomit, sneeze, ejaculate, see, hear, love, laugh, produce white blood cells, protect myself with antibodies, I had forgotten my hair had to grow and my tongue, with its papilla, had to taste food. I had forgotten to think about my fate on Earth and about finding a wife. Lying in bed like an Etruscan statue over a sarcophagus, my sweat staining my sheets yellow, I had read until I was almost blind and almost schizophrenic." 

Giả như Bài Thơ của anh ta được đón nhận, hẳn anh đã trở thành một tác giả lớn, viết chồng chồng sách. Nhưng trong buổi đọc thơ tháng 10 năm 1977, bài thơ của anh đã bị chê không thương tiếc, bản thân anh bị ví như một đứa bé mới chập chững biết đi không những đòi chạy marathon mà còn muốn chiến thắng giải chạy. Anh đã bị hủy diệt hoàn toàn sau buổi đọc thơ đó và rồi trở thành một giáo viên ngữ văn gầy giơ xương đầu đầy chấy. 

Có môt đoạn khá dài MC viết về việc nhân vật tôi lý giải vì sao mình không trở thành nhà văn rất đáng chú ý. "I have read all the books, and I have never known a single author. I have heard all the voices, with schizophrenic clarity, but no real voice has ever spoken to me." Và rồi MC ví von văn chương như một bảo tàng của hàng ngàn cánh cửa ảo, cánh cửa nào cũng được vẽ thật đẹp, nhưng không cánh cửa nào mở ra. Điều cần làm là nhắm mắt và sờ những bức tường bất tận để hiểu rằng trong ngôi nhà văn chương không có cánh cửa mở nào, thế nhưng người ta lại không thích nhắm mắt mà thích có nghìn con mắt để nhìn nghìn lối ra giả. Để rồi sau đó nhân vật tôi sẽ thú nhận rằng: "I never became a writer because I never was, from the start, a writer. I loved literature like a vice, but I never truly believed that it was the way. Fiction does not attract me, it was not my life's dream to add a few false doors to the walls of literature."  

Có thể đoán được phần nào, trong cuốn này cũng như trong Nostalgia mà tôi đọc hồi đầu năm, MC sẽ dành nhiều trang viết về bản thân văn chương. Cuốn tiểu thuyết này chắc sẽ bao hàm trong nó những bài tiểu luận. 

Cho đến lúc này, cảm giác đọc cuốn này thật khoái, không kém gì so với Nostalgia cả.

11/11/2025

Đọc hết chương 12 phần 1. Ở chương 8, MC bắt đầu giới thiệu cho ta solenoid - một thứ gì đó liên quan tới điện từ. Nhân vật tôi mua lại một căn nhà của người phát minh ra cái gọi là "Borina selenoid". Borina là tên của nhà phát minh. Solenoid được tả giống như một cái bánh donut khổng lồ, đường kính 9 mét, quấn quanh một cái lõi sắt là 16 lớp dây đồng. Solenoid được chôn bên dưới căn nhà, và bất kể nó được thiết kế cho tác dụng gì, thì nó chưa bao giờ phát huy tác dụng, nó là một thất bại của nhà phát minh. Tuy nhiên, tới một hai chương sau thì ta sẽ thấy ngẫu nhiên solenoid đã phát huy tác dụng của nó như thế nào. MC dành nhiều trang mô tả ngôi nhà kỳ dị này bằng những câu văn cũng kỳ dị và khoa trương một cách cố ý. Chẳng hạn, ông tả bóng tối trong căn nhà dày đặc đến nỗi, khi đẩy cửa "You had to push the door again, with a force equivalent to the volume of darkness you displaced", hay "Once I closed the door, the world disappeared""It took another another eternity for my eyes to become accustomed"

Chính trong căn nhà đó, Irina, giáo viên vật lý, người tình của nhân vật xưng tôi, tác giả cuốn nhật ký này (đã rõ đây là nhật ký), sẽ tình cờ phát hiện ra công dụng của solenoid. Sau một trận tình ái, cô chạm vào một cái công tắc bí hiểm nào đó và thế là cô lơ lửng giữa phòng ngủ. Kể từ đó cặp đôi này có trò make love in the air. "We devour each other, we cleave to each other, we enter and exit each other's cavities, we lose ourselves in the dark and find ourselves, ever sweatier and more ardent, after our fingers claw through nothing and nevermore to find other fingers, or a foot, or a shoulder, or hair, or a mouth. or the eyelashes of the other person, so we can approach and touch and come close."

Toàn bộ chương 11 là miêu tả cuộc phiêu lưu của tác giả và bạn đồng hành, thầy giáo dạy toán, khám phá một cái nhà xưởng cũ nơi đám học sinh thường chui vào đó làm những trò có trời mà biết là gì. Cái nhà xưởng này được miêu tả là cũng giống như Bucharest, thành phố buồn bã nhất trên mặt đất, được thiết kế "as a ruin from the start", và nó không sản xuất ra cái gì khác ngoài "fear and grief, the unhappiness and agony, the melancholy and suffering of our life on Earth".  

Chương 12, nhân vật tôi khẳng định mình đang kể lại chuyện đời mình   - the story of  an unknown person : "This is precisely why I need to write it, because if it's not written by me, the only one to whom it means anything, then no one will write it." Tôi viết không phải để tôi đọc, mà tôi viết để tôi hiểu chính mình, chẳng lẽ đó không phải đó nên là thái độ cần có của mọi người viết sao? Trước khi cố gắng hiểu người thì hãy hiểu cố gắng hiểu ta. Trong chương này, nhân vật tôi sẽ kể về người em sinh đôi của mình đã mất từ khi rất nhỏ, bốn tháng tuổi, sáu tháng tuổi hay một tuổi gì đó, ta sẽ không bao giờ biết rõ. MC kể về ký ức của một người không có ký ức: "Even though I don't remember, I will never forget it." và nỗi đau của người anh em sinh đôi ở lại "Victor disappeared, and he took with him perhaps the only reason, the only brilliance, the only opportunity of my life... I have gazed with half my gaze, I have listened with my half hearing." Sau sự ra đi của người anh em sinh đôi, người ở lại chỉ còn một nửa, gánh chịu tình yêu của bố mẹ. 


13/11/2025

Xong chương 19. Đã sang phần 2, nhưng các chương đánh số liên tục nên không cần nhắc tới phần nữa.

Chương 13 nói về cô giáo dạy hóa Caty, người mỗi ngày một kiểu váy, một kiểu giày, một kiểu tóc khác nhau. Cô không chấp nhận được mình sẽ già đi và sẽ chết, nên cô đã gia nhập nhóm Picketists, một phong trào kháng cự đau khổ, bệnh tật và cái chết. "...She was hopelessly in love with her younger self, she was a lesbian in love with her younger body...". Hàng đêm, nhóm Picketist sẽ tổ chức phản đối ở các nghĩa trang, và trong hành vi phản đối đó họ tìm thấy sự bằng an. Họ không còn sợ già và chết nữa. "She fought against them, she hoped against them. The odds of winning weren't important, but the fight was. Caty had seperated herself from the lazy mass of hostages who lived with bowed heads." Nghe thiền phết. Kết quả hay không không quan trọng, quan trọng là hành động. Caty làm ta nhớ tới Ispas, người gác cổng trường ở phần trước. Ispas là người hằng đêm nhìn lên bầu trời đầy sao, chờ đợi đĩa bay đến đón mình đi, mặc kệ mọi người nhạo báng. "At least he looked at the stars, he, the lowliest person who has ever lived on Earth; at least he wants to get out."

Chương 14 kể về cuộc phẫu thuật ở miệng khi còn nhỏ, nhưng đồng thời cũng là một khảo nghiệm về ký ức và những giấc mơ. Từ kinh nghiệm cá nhân, tôi cũng thấy ký ức thời thơ ấu rất dễ chồng lần với những giấc mơ. Chẳng hạn, hồi bé, tôi khăng khăng mình đã từng đi Sài Gòn, đi ngang qua cầu và gió thổi bay mũ. Thực tế, tôi chưa bao giờ đi Sài Gòn trước 12 tuổi. Trong chương này, nhân vật tôi kể về cuộc phẫu thuật, cảm giác nằm bồng bềnh nhìn lên bầu trời đầy sao, không biết mình đang ở đâu, mọi thứ đều hư ảo. Nhưng sau này, nhân vật tôi lại thấy không mình không có vết mổ nào, trong khi người em họ lại có một vết sẹo ở hàm phải. 

Chương 15 viết về thư viện, tiệm sách, và việc đọc sách. Một câu chuyện thú vị về việc nhân vật tôi lần đầu đọc Ruồi trâu năm lớp 6, cuốn sách thiếu mất một chương nhưng đã làm cậu đầm đìa nước mắt. Nhiều năm về sau, nhân vật tôi khi đã là thanh niên, háo hức mượn một ấn bản Ruồi trâu trọn vẹn từ thư viện, háo hức đọc lại chỉ để thất vọng. "Perhaps all we want from reading is to return to that age when we could hold a book and cry, to that time between childhood and adolescence, the sweetest era of our lives." Tôi cũng vậy, đôi lúc tôi cũng mong muốn xiết bao được trở về thời niên thiếu, bắt đầu hiểu biết nhưng còn hãy ngây thơ, chưa vấy bẩn bởi định kiến và phán xét, để được vây quanh bởi sách, sống tình yêu thuần khiết. 

Chương 16 rất ngắn. Đáng chú ý, cuốn sách yêu quý nhất của nhân vật tôi là Nhật ký của Kafka.

Phần 2 bắt đầu từ chương 17. Chương 17 kể về nhân vật tôi đã được mẹ nuôi dạy như một bé gái, những chuyến đi cùng mẹ tới một phòng khám, đồn công an và những giấc mơ.

Chương 18 kể câu chuyện về giáo viên lịch sử  Radulescu và sự cố mất nhẫn cùng cách ứng xử của giáo viên dạy nghề Eftene. Bản thân chương này có thể một truyện ngắn độc lập.

Chương 19 trở về những ký ức của thời thơ ấu. Nhân vật tôi có một cái hộp kẹo đựng răng sữa, cuống rốn, bím tóc, những tấm ảnh cũ. Anh thường xuyên lục lại cái hộp này- cái hộp giống như một công tắc để đưa anh xuyên thời gian trở về thời thơ ấu. Chương này có một đoạn cực hay về việc nhổ răng, chắc phải bỏ công dịch ra. 



17/11/2025

Nhờ hai ngày cuối tuần mà tôi đã đọc được tới 2/3 cuốn sách, nghĩa là đã qua 200.000 chữ. Nghe thì có vẻ nhanh nhưng thật ra tôi đọc khá vất vả, có lúc 1 tiếng đồng hồ không qua khỏi 5 trang do phải dừng lại để tra cứu nhiều chỗ. Tôi đánh dấu khá nhiều chỗ, nhưng chưa có thời gian để note lại tại đây. Chỉ có thể nói vắn tắt rằng đọc cuốn này là một trong những khoái cảm lớn nhất đời đọc sách của tôi.

Một chỗ đáng lưu ý là nhân vật tôi khi viết lại văn bản này luôn lặp đi lặp lại là mình muốn ghì lại những anomalies - những chuyện bất thường. Tôi lật lại note của mình khi đọc cuốn Nostalgia và gặp ngay câu "literature is teratology" - văn chương là ngành nghiên cứu những bất thường, dị dạng. Vậy là có thể nhìn ra điểm chung giữa hai cuốn.

Điểm chung nữa đó là ký ức, ký ức giả, những giấc mơ và ảo giác. 








Thứ Tư, 15 tháng 10, 2025

Những ngày nắng đẹp

Sau bốn năm liên tục đi Hà Giang, thì kể từ sau dịch Covid năm 2021, tôi chưa có dịp quay lại vùng đất này - vùng đất duy nhất ở Việt Nam mà tôi đã đến nhiều lần nhưng không chán. Lòng mê Hà Giang của tôi chắc đã lan sang hai bạn nhỏ (thật ra bây giờ không còn nhỏ lắm nữa). Hôm nọ làm cuộc phỏng vấn bỏ túi với hai bạn, nơi nào ở Việt Nam hai đứa muốn quay lại nhất, thật bất ngờ khi cả hai đều chọn Hà Giang. 

Hà Giang thật ra có Đông Hà Giang và Tây Hà Giang. Đông Hà Giang là Quản Bạ, Yên Minh, Phố Cáo, Du Già, Đồng Văn, Mèo Vạc, Lũng Cú - khách Tây hay gọi là Hà Giang Loop. Hà Giang Loop có đèo Mã Pí Lèng trứ danh, có dinh vua Mèo, nhà Chuyện của Pao (nơi quay bộ phim này), cột cờ Lũng Cú, sông Nho Quế, hẻm vực Tu Sản. Hà Giang Loop nổi tiếng đến nỗi hầu như khách Tây nào đi bụi ở Việt Nam đều biết. Hôm cưỡi ngựa trên thảo nguyên Kyrgystan, tình cờ gặp một cặp đôi người Pháp và Ý, hóa ra cả hai đều từng du lịch Việt Nam và đã đi Hà Giang Loop. Tây Hà Giang là Hoàng Su Phì nổi tiếng về ruộng bậc thang. Đường vào Hoàng Su Phì gần như là độc đạo, đi vào Hoàng Su Phì chỉ có thể đi tiếp Xín Mần rồi quay đầu ra, chứ không kết nối với các điểm đến khác của Hà Giang. Dường như từ Xín Mần có thể sang được Lào Cai, nhưng đường đi có thuận lợi không thì tôi không rõ. 

Năm nay, dôi ra mấy ngày nghỉ, tôi muốn đi Hoàng Su Phì và chỉ ở lại Hoàng Su Phì mà thôi. Tôi muốn xem Hoàng Su Phì khác phần còn lại của Hà Giang như thế nào, nhân tiện, leo Tây Côn Lĩnh và và đỉnh núi có tên rất thơ mộng là Chiêu Lầu Thi, chứ còn ruộng bậc thang thì tôi đã no mắt với Mù Căng Chải, Tà Xùa, Ngọc Chiến nên cũng không thật sự quan tâm lúa đã gặt chưa. Tôi chỉ quan tâm tới thời tiết. 

Trước khi đi 10 ngày, bão Matmo đổ vào miền Bắc, gây ngập lụt lớn ở thành phố Hà Giang. Đợi vài ngày khi trời đã êm bão đã tạnh mưa đã dứt lũ đã rút, tôi gọi nhà nghỉ ở Hoàng Su Phì hỏi thăm, họ khuyên tôi không đi vì bão 11 hay Bualoi sắp vào. Kỳ nghỉ thì có thể dời, nhưng nếu dời thì mất tiền vé máy bay, nên tôi cứ ngần ngừ xem thế nào. Mấy hôm ấy, tôi gần như thành chuyên gia thời tiết, theo dõi sát sao tình hình mưa gió, từ các chuyên trang thời tiết, các KOL thời tiết, các trang nhóm du lịch, tới việc tải app Windy là app chuyên sâu thời tiết dành cho các hoạt động thể thao ngoài trời. Kiểm tra chéo nhiều nguồn thông tin, tôi chắc hơn 90% mưa sẽ tạnh hai ngày trước ngày bay, và những ngày lưu trú ở Hoàng Su Phì sẽ nắng, nên tới giờ chót tôi quyết định vẫn lên đường. Vấn đề còn lại là sau mưa thì đường có thể sạt lở - đặc sản của vùng núi Đông và Tây Bắc, nhưng nhớ lại năm 2018, sau bão Sơn Tinh tôi còn đích thân đánh lái lên Mèo Vạc, rồi từ Mèo Vạc vần vò mấy trăm cây số đường đèo sang Cao Bằng, lần này đi xe khách sợ gì, nên cứ đi thôi.

Các bạn tôi nói ngày trước muốn đi Hoàng Su Phì thì phải đi xe tuyến Hà Giang, xuống xe ở Bắc Quang và bắt xe ôm vào. Bây giờ, tìm trên mạng thì đã có vài nhà xe đi thẳng Hoàng Su Phì. Tôi tìm ra nhà xe Vũ Hán, nhà xe này còn có cả app hẳn hoi, rất chuyên nghiệp, nên đặt vé xe qua app. Xe khởi hành từ bến xe Mỹ Đình, rất buồn cười trên xe chỉ có hai chúng tôi là khách đặt qua app và đi suốt tuyến, ngoài ra chỉ có một khách khác sẽ xuống xe ở Tuyên Quang. Anh tài xế vừa lái xe, vừa thấy ai đứng ven đường là lại rao, đi Hà Giang, Hoàng Su Phì không. Cứ như thế, trừ mấy chục cao số đường cao tốc, còn thì ai vẫy anh cũng dừng xe, ai không vẫy anh cũng ghé lại hỏi thăm. Quả nhiên là một kinh nghiệm khác lạ so với xe khách trong Nam, vốn từ lâu chỉ đón trả khách tại những điểm cố định.

Từ ngã ba Tân Quang, xe theo DT 177 qua đèo Cổng Trời vào Hoàng Su Phì. Đường tráng nhựa đẹp đẽ, trời khô ráo nên không vấn đề gì, tuy vẫn còn dấu vết rất rõ những đoạn sạt lở vừa mới được dọn xong. Ngồi trên xe, tôi còn vào các group du lịch để cập nhật tình hình đường sá cho chúng sinh. Tôi làm vậy bởi tôi thương chúng sinh, nhiều người vào group chỉ để hỏi thăm đường sá, nắng mưa thế nào mà bị chửi té tát vuốt mặt không kịp, những là chúng mày không có não à, đang bão lũ sạt lở không ở nhà còn đi đâu, những là chúng mày định làm khổ bộ đội, cứu hộ à. Ơ hay, người ta chỉ hỏi thăm thôi, gì mà toxic thế. Mà thật ra toxic là trạng thái mặc định trên mạng xã hội, ở đó, những công dân nặc danh chính tả chưa thông từ vựng kém cỏi mặc nhiên cho mình quyền chửi mắng người khác vô tội vạ. Tiên sư chúng nó.

Nơi chúng tôi nghỉ là một khu resort trong thôn Tả Sử Choóng nằm trên những ngọn đồi cao vút. Ở đây, mỗi bungalow nằm biệt lập một góc, cách nhau vài trăm mét đường dốc rất gắt, nhưng bungalow nào cũng có thể nhìn xuống những thửa ruộng bậc thang đang bắt đầu vào mùa gặt hoặc nhìn sang những ngọn đồi khác. Nhà ăn cũng nằm trên đồi nhưng ở vị trí thấp hơn nhiều so với các bungalow, nên leo xuống nhà ăn rồi leo lên phòng nghỉ đã là bài tập rất tốt cho dân chạy trail rồi. Tả Sử Choóng cách những điểm đến có tiếng khác của Hoàng Su  Phì như Thông Nguyên, Bản Luốc, Bản Phùng...vài chục cây số đường núi, nên sau khi hỏi thăm, chúng tôi quyết định chỉ đi leo núi, trekking, đi bộ khám phá quanh bản chứ không sang các bản khác. Chúng tôi muốn tận hưởng không khí nơi đây, sự yên tĩnh không có được ở đâu khác, thay vì phải lao lên xe, phi ra đường, cho dẫu dọc những con đường núi quang cảnh cũng đẹp và vắng, chứ không nhếch nhác ồn ào như dưới xuôi. 

Chiều ngày đầu tiên, chúng tôi đi lang thang trong bản mà không ai theo cùng. Đường trong bản vắng hoe, mấy mươi mét mới có một nếp nhà, thảng hoặc mới có chiếc xe máy chạy ngang. Nghênh ngang ngắm cảnh, chụp hình một đỗi, chúng tôi ghé một tiệm tạp hóa mua một chai nước và ba bịch bánh to đùng, tất cả hết 26.000 đồng. Bác chủ tiệm mời chúng tôi ngồi uống trà nói chuyện. Bác có hai cậu con trai, đã lớn hết và đi làm xa. Bác nói chúng nó xuống xuôi, đi làm công nhân, tháng được 10 triệu đồng, chứ ở đây thì biết làm gì. Làm lúa cả năm được hai tấn thóc, chỉ được 14 triệu đồng thôi. 

Lúc nào tôi cũng mang theo một hai cuốn sách trong những chuyến đi. Kể cả có đọc được hay không, có sách bên mình khiến tôi yên tâm, không sợ phí những khoảng thời gian trống. Chuyến này, do đã sẵn dự định ở yên một chỗ suốt bốn ngày, nên tôi mang theo những năm cuốn sách. Chắc chắn không đọc hết đâu, nhưng nếu lỡ chán cuốn này, có cuốn khác thay vào ngay. Cuốn đầu tiên tôi giở ra trong những cuốn mang theo là Thành phố và những bức tường bất định của Haruki Murakami, mà một số con trời cứ suồng sã gọi là Haruki. 

Nhiều năm rồi tôi mới đọc một tiểu thuyết của Murakami, tuy thi thoảng vẫn đọc truyện ngắn của ông, gần nhất là các truyện trong tập Những người đàn ông không có đàn bà, đọc lại nhân xem xong Drive my car. Trước cuốn này là cuốn gì? Hình như cuốn gì không màu và những năm tháng hành hương, cuốn ấy thì chán; rồi đến Giết chỉ huy đội kỵ sĩ cũng chán nốt, tôi bỏ dở sau đâu đó trăm trang. Vì sao tôi lại quyết định đọc cuốn này? Vì ngay trang đầu tiên đã gặp những câu văn dịu dàng, u hoài. Nói gì thì nói, bất chấp một số khiếm khuyết, Murakami vẫn là một tay kể chuyện đại tài. Tôi nhớ mình từng say mê Biên niên ký chim vặn dây cót hay Kafka bên bờ biển như thế nào. Nhưng hai cuốn ấy tất nhiên không có giọng văn dịu dàng như thế này, cả Rừng Nauy hay Phía Nam biên giới, phía Tây mặt trời cũng không có. Tôi đọc Thành phố và những bức tường bất định và như thấy có mình trong đó. Tôi là chàng trai mười bảy tuổi lang thang cùng cô bạn mười sáu tuổi dọc bờ sông, tôi thấy mình như ngửi được cả mùi cỏ gà và hoa dại. Tôi cũng là gã đàn ông trung niên nhiều năm sau lội dọc sông, càng ngược dòng thì càng trẻ đi, da căng hồng hào, thớ thịt săn chắc, như một khát vọng quay về tuổi trẻ đã xa. Tôi sống trong cuốn tiểu thuyết. Có một buổi tối, sau bữa ăn rất tươi ngon mà Vân và Minh, hai bạn  người H'mông phục vụ ở resort đã chuẩn bị cho chúng tôi, và sau một ca rượu ngô nửa lít, chúng tôi về phòng và thay phiên đọc cho nhau nghe những trang trong cuốn sách. Chúng tôi khen nhau là đọc hay lắm, nhưng chẳng nhớ mình đọc gì, và chỉ ít phút là lăn ra ngáy khò khò. 

Đôi khi tôi thấy mình trong sách, đôi khi tôi lại thấy sách trong tôi. Ấy là ngày hôm sau khi leo Chiêu Lầu Thi, giữa những vạt sim tím và những con suối róc rách, trong khi hổn hển leo lên những con dốc, thì tôi thấy cảnh trong cuốn Gối đầu lên cỏ của của Soseki hiện về. Cái anh chàng họa sĩ leo núi trong Gối đầu lên cỏ chính là tôi phút giây này chăng? Đọc nhiều tiểu thuyết để làm gì? Chẳng để làm gì cả. Chỉ là để đôi lúc ta sống ở đây mà không ở đây, hoặc sống hẳn ở một thế giới khác, hoặc nhìn thấy một cảnh quan này lại nhớ đến vài trang trong cuốn nào đó. Cuộc sống thế mà đẹp. Tất nhiên tôi hoàn toàn ý thức cái đẹp này có thể hoàn toàn xa xỉ đối với nhiều người. 

Những ngày ở Hoàng Su Phì, tôi được làm những việc mình thích nhất: sống trong một ngôi nhà trên núi cao yên tĩnh, đi trekking và đọc sách. Nếu được, tôi hoàn toàn có thể ở đây một tháng hay ba tháng, đọc sách, đi bộ, ngắm núi rừng và không cần giao tiếp với thế giới bên ngoài. Tôi nhớ tới Núi thần của Thomas Mann. Đi chuyến này về, tôi nhất định phải bắt tay vào đọc cho xong cuốn này. 

Ngày cuối, tôi lại hẹn xe Vũ Hán đến đón. Gần đến giờ thì bác tài nhắn xe hỏng, không chạy, nên chúng tôi đành nhờ Sáng và Minh đưa ra ngã ba Tân Quang để bắt xe khác về Nội Bài. Chạy đâu được hơn hai mươi cây số thì nghe tiếng bùm: cái lốp xe cũ mèm của chiếc Vitara cũ mèm lại hay chạy đường xấu đã nổ. Tôi nhảy xuống xe mà băn khoăn, không biết khi nào hai cậu này mới thay xong lốp xe, và ra tới Tân Quang thì có đón được xe nào kịp giờ bay hay không. Thời may, một chiếc xe con trờ tới hỏi thăm, rồi cho chúng tôi đi nhờ xe ra ngã ba Tân Quang. Tuyên, tên cậu tài xế xe con, đang trên đường về Hàm Yên. Tuyên nhiệt tình gọi cho một nhà xe, xe ấy đang trên đường về Hà Nội nhưng đã đi qua khỏi ngã ba Tân Quang rồi, hẹn sẽ chờ bọn tôi. Tuyên lái xe con đuổi theo, hết cả huyện Bắc Quang, sau năm bảy cuộc gọi mà không thấy xe khách kia đâu. Ắt đợi bọn tôi lâu quá nên họ đi rồi. Lúc ấy, tôi định nhờ Tuyên thả dọc đường, chỗ nào đông đúc để chúng tôi bắt xe khách hoặc cùng lắm taxi về Nội Bài. Qua khỏi Hàm Yên trời đã hơi tối, Tuyên bảo thôi để em đưa anh chị về tới Nội Bài luôn. Thế là một người không quen đã chở chúng tôi thẳng tới Nội Bài như Uber, chúng tôi nằn nì mãi Tuyên mới nhận một ít tiền xăng, rồi sau đó Tuyên sẽ lái 3 tiếng nữa về thẳng nhà ở tận Lạng Sơn. Chúng tôi bay về Sài Gòn, tới nhà đã 2 giờ sáng. 7 rưỡi sáng, tôi vào văn phòng, lại nhập vào guồng quay bất tận, để lại sau lưng những ngày nắng đẹp. Chuyến đi này, chỉ tiếc đường lên Tây Côn Lĩnh vẫn còn sạt lở nhiều không leo được, đành hẹn một lần khác trở lại Hoàng Su Phì. 



Thứ Ba, 23 tháng 9, 2025

Chia động từ

Có thể nào viết về sự thấu cảm bằng một lối viết giàu lý tính được không? Được. Go, Went, Gone của Jenny Erpenbeck là một bằng chứng. Đây là cuốn thứ hai tôi đọc của bà, sau Kairos. Tôi cũng đang đọc Hạc trắng xòe cánh của Yoko Tawada, nhà văn Nhật sáng tác bằng cả tiếng Nhật lẫn tiếng Đức.

Vì sao tôi chọn đọc Jenny Erpenbeck, Yoko Tawada, Yoko Ogawa hay Rachel Cusk mà không phải là những người như Jane Austen, Virginia Woolf? Thực ra họ đâu có loại trừ nhau? Có những lúc ta trở về cổ điển, với những giá trị đã được hình thành, xác nhận. Nhưng có những lúc ta cần sống ở thì hiện tại, hít thở không khí của thì hiện tại. Austen, Woolf đâu có viết về vấn đề nhập cư, hay ô nhiễm môi trường, lão hóa dân số. Muốn đọc những vấn đề đương đại, nhất định phải đọc những nhà văn ở thời chúng ta rồi.

Go, Went, Gone đề cập một trong những vấn đề thách thức của xã hội châu Âu hiện đại: vấn đề tỵ nạn . Một mặt, sau tất cả những bài giảng về nhân văn, nhân đạo, châu Âu liệu có thể nào làm ngơ, bỏ mặc người tỵ nạn - những người đang chạy trốn đói nghèo, chiến tranh, bạo lực; một mặt, cho họ một chỗ ở thì nước sở tại sẽ gánh chịu những gánh nặng nào về mặt kinh tế, những rạn nứt và bất ổn nào về mặt xã hội? Đó là một tình thế tiến thoái lưỡng nan. 

Jenny Erpenbeck, tất nhiên không phải chính trị gia, không phải nhà làm chính sách, không có tham vọng giải quyết vấn đề hóc búa này trong tiểu thuyết của mình. Nhưng với tư cách là một nhà văn, bà cho thấy một con người châu Âu cụ thể, trong tác phẩm này là Richard, một giáo sư Hy La về hưu, có thể gần gũi và cảm thông với những người châu Phi tỵ nạn như thế nào. Richard đã giúp rất nhiều cho những người châu Phi kém may mắn đó, dành cho họ thật nhiều thời gian. Có thời điểm, có thể một trong những người được ông giúp đã phản bội sự tốt bụng của ông, nhưng ông không quá bận tâm về việc ấy. Lòng tốt của ông dành cho những con người xa lạ là vô điều kiện, đến mức ta phải đặt câu hỏi: vì sao lại tốt đến như thế được? 

Nhưng dẫu ông và bạn bè mình có thể là những người tốt, họ không thể nào giải quyết được câu chuyện nhập cư cho tới nơi tới chốn. Người giải quyết phải là chính quyền, là chính sách, luật pháp. Và những thể chế ấy, tức là nước Đức, đặt ra vô số rào cản để những người châu Phi kém may mắn kia có thể nhập cư một cách hợp pháp. Có lẽ đó là câu trả lời chính thức của châu Âu?

Bình thường, khi đọc phải những câu văn thừa thãi cảm xúc, tôi hay gào lên làm ơn tiết chế lại. Đọc Jenny Erpenbeck, tôi rơi vào thái cực ngược lại. Cách viết quá tiết chế của bà khiến tôi bức xúc! Làm ơn thêm một chút tình cảm vào, làm ơn đãi bôi một chút, viết gì mà khô như ngói thế này, đầu óc tôi cứ kêu gào như thế. Tuy văn Erpenbeck có thể kém hấp dẫn, nhưng dù sao vẫn dễ chịu. Kể cả vậy, sau Kairos và cuốn này, thì tôi nghĩ đọc bà như thế là đủ rồi.

Thứ Ba, 16 tháng 9, 2025

Into Thin Air

Bên Rubik Books gửi tặng tôi cuốn Into Thin Air vừa phát hành. Không nhầm thì đây là bản dịch thứ hai của cuốn này. Trước kia tôi sẽ không quan tâm lắm đến đề tài leo núi, nhưng giờ thì khác. Tôi nhớ lần leo đỉnh Mentok Kangri ở Ladakh bất thành năm 2023. Chuyến đi đó được kể lại ở đâyNăm đó chỉ vừa bay tới Leh ở độ cao 3500m thì vài tiếng đồng hồ sau tôi đã cho chó ăn chè liên tục và đầu đau như búa bổ. Uống thuốc vào giúp tôi hồi phục chút ít. Nhưng sau đó khi trekking từ độ cao 4500m đến base camp ở độ cao 5200m tôi đã đi như zombie, chỉ bằng 1/10 sức lực bình thường, và đấy là trong điều kiện thời tiết tốt, nắng ấm, gió nhẹ, hoàn toàn chưa phải đối đầu với băng, tuyết, chưa phải đụng tới kỹ năng leo núi tuyết.

Vậy mới biết leo núi thực thụ kinh khủng như thế nào. Một so sánh dễ hình dung, như Jon Krakauer đã chỉ ra trong cuốn sách này: leo đỉnh Everest nghĩa là leo tới độ cao ngang ngửa một máy bay dân sự. Ở độ cao đó, mức oxy chỉ bằng 1/3 so với ở mực nước biển. Người leo núi dễ dàng gặp các chứng phù não, phù phổi, ảo giác, ấy là chưa kể muôn vàn hiểm nguy từ cái lạnh, tuyết lở, băng rơi, bão tuyết. Kể cả là một nhà leo núi lão luyện, không có gì đảm bảo 100% khi leo những đỉnh núi cao sẽ trở về. Ở độ cao 8000m, không ai biết được những gì có thể xảy ra. Ở độ cao 8000m, nếu chinh phục thành công và trở về, cũng khó thuật lại chính xác những gì đã xảy ra. Và câu nói ám ảnh tôi nhất khi đọc cuốn sách này: ở độ cao 8000m, không thể nói tới chuyện đạo đức - đây là câu của một nhà leo núi người Nhật giải thích cho việc nhìn thấy một nhà leo núi khác gặp nguy hiểm nhưng không cứu, vì không thể cứu, vì không có sức lực để cứu, vì nếu cứu có nghĩa là bản thân có thể chết.
Muôn vàn hiểm nguy như thế khi chinh phục những đỉnh núi cao nhưng vì sao người ta vẫn leo núi? "Bởi vì ngọn núi ở đó." Nếu chỉ có thể ngồi nhà chăn ấm nệm êm lướt TikTok thì hãy bớt mở miệng chỉ trích những người có tinh thần phiêu lưu mạo hiểm. Văn minh nhân loại đã được thúc đẩy biết bao bởi những người có tinh thần phiêu lưu và ai cũng biết người Việt có cống hiến như thế nào cho văn minh nhân loại.
Into thin air là hồi ký của của nhà báo, nhà leo núi người Mỹ Jon Krakauer về thảm hoạ xảy ra trong cuộc chinh phục Everest năm 1996 cướp đi sinh mạng của 12 nhà leo núi, trong đó có những nhà leo núi kỳ cựu. Bản dịch mới do Rubik Books thực hiện.