Monday, 10 February 2025

Wide Sargasso Sea - Jean Rhys

Đọc Wide Sargasso Sea của Jean Rhys xong, tôi phải lần mò đi tra xem Sargasso là cái biển nào. Hóa ra đây là cái biển độc đáo nhất thế giới: nó không bờ, không tiếp giáp bất kỳ một vùng đất nào. Biển Sargasso nằm giữa Bắc Đại Tây Dương và bao quanh nó là các dòng hải lưu. Đây là một vùng biển lặng, không có gió nên cũng không có sóng. Thời chưa có máy hơi nước, tàu thuyền lọt vào vùng biển này khó thoát ra được vì không có gió căng buồm nên tàu đứng yên. Ở biển này có rất nhiều một loại tảo tên là tảo sargassum hay còn gọi là tảo đuôi ngựa. Chính loài tảo màu nâu này là dấu hiệu để phân biệt biển Sargasso với các phần khác của Bắc Đại Tây Dương. Biển Sargasso cũng gắn với những câu chuyện bí ẩn về những thủy thủ đoàn biến mất không dấu vết.

Tuy vậy, câu chuyện trong tiểu thuyết Wide Sargasso Sea của Jean Rhys hoàn toàn không liên quan gì tới biển.  Theo Wiki, Gemini, Chat GPT và đồng bọn, biển Sargasso là ẩn dụ cho một số thứ,  bao gồm mắc kẹt giữa hai nền văn hóa mà không thuộc về bên nào (tảo biển = mắc kẹt) – nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết không thuộc về Jamaica cũng không thuộc về Anh (dân da đen thì gọi cô là white cockroach, dân da trắng thì gọi là white nigger), ấy là chưa kể cái biển rộng kinh khiếp chính là khoảng cách mênh mông giữa hai nền văn hóa luôn; cuộc đời của nhân vật chính, Antoinette, cũng bồng bềnh trôi dạt như đám tảo đuôi ngựa; biển Sargasso nhiều bất ổn, đầy bí ẩn là biểu tượng cho việc Antoinette hóa điên, cũng như sự mập mờ về sự thật và căn tính. Tại sao Jean Rhys đặt tên cho cuốn sách bằng biển Sargasso mà không phải biển nào khác, nết xét rằng có nhiều cái biển khác cũng rộng và hung hiểm không kém? Ấy là vì, nhân vật chính của chúng ta, nàng Antoinette, người da trắng, sinh ra và lớn lên ở Jamaica, sau khi lấy chồng và hóa điên thì bị nhốt trên tầng áp mái một ngôi nhà ở Anh. Biển Sargasso là biển nằm giữa Jamaica và Anh.

Nhắc đến người điên bị nhốt trên tầng áp mái, ắt ta nhớ ngay đến Jane Eyre. Đúng thế, Antoinette chính là Bertha Mason, là người vợ đầu của chồng của Jane Eyre. Jean Rhys đã viết cuốn sách này để kể câu chuyện cuộc đời của Bertha, lý giải vì sao Antoinette trở thành Bertha hay vì sao cô hóa điên. Văn của Jean Rhys mơ màng, hơi khó nắm bắt, nhưng rất đẹp. Tôi nghĩ Jean Rhys đã viết những câu hay bậc nhất về sự thù ghét:

“I hated the mountains and the hills, the rivers and the rain. I hated the sunsets of whatever colour, I hated its beauty and its magic and the secret I would never know. I hated its indifference and the cruelty which was part of its loveliness. Above all I hated her. For she belonged to the magic and the loveliness. She had left me thirsty and all my life would be thirst and longing for what I had lost before I found it.”

Trong cuộc thăm dò các nữ nhà văn Anh lần này, sau khi hơi thất vọng với The Bookshop của Penelope Fitzgerald, Wide Sargasso Sea của Jean Rhys vừa bổ sung kiến thức địa lý cho tôi, vừa khiến tôi lảm nhảm viết gì mà đẹp quá. Các nữ nhà văn Anh: hãy xếp hàng!

Thursday, 6 February 2025

The Bookshop - Penelope Fitzgerald

Post sau đây có vẻ như là bài review cuốn The Bookshop của Penelope Fitzgerald. Tết xong còn hơi quỡn, nên viết dài hơn một đoạn văn.

Tác phẩm của Penelope Fitzgerald có lẽ chưa hiện diện trong tiếng Việt. Tuy vậy, danh tiếng của bà như là một trong những tiểu thuyết gia Anh hay nhất nửa sau thế kỷ XX khiến tôi tìm đọc bà một phen. Lựa chọn cuốn đầu tiên để đọc không phải là Offshore, cuốn đoạt Booker năm 1979, hay The Blue Flower, tác phẩm cuối cùng và được coi là kiệt tác của bà, mà là The Bookshop. Lý do rất giản dị: tôi thích đọc tiểu thuyết viết về một tiệm sách.
The Bookshop là câu chuyện một phụ nữ trung niên, góa chồng mua một tòa nhà cổ để mở một tiệm sách ở một thị trấn nhỏ. Bà có bạn (người đã đánh giá Lolita giùm bà) và đương nhiên có cả kẻ thù, và tất nhiên cao trào của câu chuyện nằm ở chỗ kẻ thù của bà đã làm gì đối với tiệm sách. Như một người review sách có tâm, tôi sẽ không tiết lộ cái hậu quả tiệm sách bị đóng cửa, bởi tiệm sách mà không đóng cửa thì làm gì có chuyện để viết. Tuy nhiên, đối với một tiểu thuyết văn chương – từ dùng để phân biệt với tiểu thuyết trinh thám, tiểu thuyết khoa học viễn tưởng, tiểu thuyết hình sự, tiểu thuyết phản gián, tiểu thuyết tình báo, tiểu thuyết kinh dị… - thì câu chuyện hay plot có gì là quan trọng. Quan trọng là cách viết phỏng ạ, người ta thường bảo thế. Vậy thì cách viết của Penelope Fitzgerald trong cuốn này thế nào?
Như một người review sách có tâm và khiêm tốn tôi sẽ không nói bà viết chán ốm hay tẻ nhạt, mặc dù đấy chính là những từ tôi muốn dùng nhất. Bà không có những câu, chữ hay lối viết khiến ta thấy sướng – cảm giác mà tôi thấy rất rõ khi đọc các tiểu thuyết gia Anh khác như E.M Forster hay Graham Greene. Rất xin lỗi các nhà nữ quyền, lẽ ra tôi phải nhắc tới Woolf hay Jane Austen, nghe đâu họ viết hay lắm, nhưng tôi chựa thực sự đọc họ, biết làm sao được. Bà cũng không có những quan sát bất ngờ hay hài hước – những câu mà tôi có thể dùng bút highlight vàng chóe của mình miết cho trầy mặt giấy hay giật lên làm xì ta tút trên Phây búc. Về khía cạnh này những hậu bối của bà như Ali Smith hay Rachel Cusk làm tốt hơn. Bà thực sự kể một câu chuyện giản dị một cách giản dị, hay nói đúng hơn là quá giản dị, giản dị phát chán lên được. Xin lỗi, đó là từ không nên dùng (tự vả vào mặt hai cái để chứng tỏ mình là người review sách có tâm, không có tâm thì còn biết dùng vào việc gì). Bà có “leave a lot of things unsaid” tức có nhiều thông điệp sâu sắc không được nói ra mà người đọc phải tự hiểu không? Có, có chứ, nhẽ nào. Bà rất tôn trọng độc giả, bà nhất quyết không phải thể loại nhà văn viết một câu lại giảng cho độc giả một câu. Dầu sao cuốn sách này cũng đã từng vào chung khảo Booker một năm xa xưa cơ mà.
Có đôi điều trong sách tôi lấy làm thích thú. Thứ nhất, để mở tiệm sách này, nhắc lại ở một thị trấn nhỏ, bà (bà nhân vật, không phải bà tác giả) có dùng luật sư, mặc dù cái thị trấn ẩy nhỏ đến nỗi chỉ có hai luật sư mà thôi. Nhưng tôi không hiểu, ở thập niên 60, trong một thị trấn nhỏ, mà bà và luật sư của bà không gặp nhau, không gọi điện cho nhau, mà hễ chút lại viết thư. Hay là trong tiểu thuyết mới thế? Hay là đó là cách để làm dày một cuốn tiểu thuyết khá mỏng? Thứ hai, trong cái thị trấn nhỏ và chắc chắn là ít dân này, khi mà bà quen biết với tất cả người mua sách của mình, bà lại dám đặt một đơn hàng đến 250 cuốn Lolita. (Nên trao bà một huy chương cho lòng dũng cảm?). Chưa hết, việc bà trưng bày Lolita lên cửa sổ đã tạo nên những đám đông không mong muốn bên ngoài cửa hàng, đến nỗi kẻ không ưa bà đã vu cho bà là đã gây “cản trở giao thông”! Quanh sự kiện Lolita này, còn một chuyện đáng chú ý, đó là khi một người bạn của bà, người đã đọc và khuyên bà nên đặt Lolita về bán, nói rằng (đại ý): Bà đặt Lolita về và bán cho dân thị trấn đi. Cuốn này hay đấy. Họ sẽ chẳng hiểu con mẹ gì đâu nhưng thế cũng tốt. Quả đúng thế, sách hay cần gì phải hiểu!
Đến đây có vẻ là hết bài review.

Monday, 3 February 2025

Tuyển tập Kawabata - Hồi ức, tiểu luận, thư từ

Tuyển tập Kawabata - Hồi ức, tiểu luận, thư từ

Tác giả: Kawabata Yasunari 

Người dịch: Nguyễn Nam Trân

Tao Đàn xuất bản


Cuộc đời Kawabata đầy bất hạnh từ thiếu thời, thảo nào văn ông buồn đến vậy. Bản thân là một đứa trẻ sinh non, ông mất cả bố và mẹ khi chưa tròn ba tuổi. Sống với ông bà nội, những năm thơ ấu ông lần lượt trải qua cái chết của bà nội, chị gái, và ông nội ông cũng qua đời năm ông mười sáu tuổi. Năm hai mươi ba tuổi ông hứa hôn với một cô gái mười sáu tuổi để rồi bị hủy hôn không rõ lý do khi chuẩn bị kết hôn. Những chuyện này được ông kể lại bằng nhiều hình thức khác nhau trong tập sách này.

Giữa lúc đang đắm chìm trong một mớ tiểu thuyết khác nhau, tôi tình cờ nhấc cuốn này lên để rồi gần như đọc xong nó trong hai ngày cuối tuần. Kawabata tự sát bằng khí ga năm 72 tuổi, không để lại thư tuyệt mệnh. Đáng chú ý Kawabata sinh thời phản đối chuyện tự sát của Akutagawa và Dazai Osamu. Tuy nhiên, đọc phần nhật ký của Kawabata viết năm 16 tuổi khi chăm sóc ông nội già, bệnh, cộng thêm đọc về chuyện thể chất ông yếu ớt, tôi lờ mờ đoán ra nguyên nhân tự sát của ông.

Phần thư từ với Mishima là phần tôi rất quan tâm, tuy nhiên phần đó quá mỏng trong tập sách 550 trang khổ lớn này: chỉ có 4 lá. Đáng chú ý nhất trong đó là thư Mishima tiến cử Kawabata cho giải Nobel. Mishima tỏ ra rất hiểu Kawabata khi nói cả đời văn Kawabata chỉ quan tâm đến hai chủ đề: sự cô độc và vẻ đẹp trong khoảnh khắc.

Phần tùy bút, có những bài viết rất đặc sắc về vẻ đẹp Nhật Bản mà ta thấy Kawabata phát triển trong tác phẩm của mình: vẻ đẹp của những điều không kể ra, như tranh thuỷ mặc cốt tủy ở khoảng để trắng.

Trong phần thư từ, những lá thư gởi cha mẹ đã mất của ông nhiều xót xa và cay đắng, thậm chí cay độc, nhưng cũng lý giải được nhiều về tính cách và chủ đề của ông, cho thấy cô nhi là một vết thương lớn nhà văn không bao giờ vượt qua được.

Kawabata, thật bất ngờ, cũng đã kể lại những tình cảm đồng tính của mình khi mới lớn một cách chân thành và cảm động.

Đọc xong cuốn này, tôi muốn đọc hết tác phẩm của Kawabata.

Wednesday, 22 January 2025

Bánh mì kẹp và Ocean Vương

Như một số người có thể đã biết, và một số người khác có thể chưa biết, tôi thích ăn bánh mì kẹp. Tôi thích ăn bánh mì kẹp tất nhiên vì cái tổng thể của vỏ bánh giòn, pa tê đậm vị, ngò thơm, đồ chua tất nhiên chua và thịt nguội tất nhiên nguội, nhưng hơn hết tôi thích bánh mì kẹp vì những miếng ớt nhỏ nằm lẩn quất đâu đó. Ai đó sẽ bảo thích ăn ớt thì cứ việc ăn, việc gì cứ phải bánh mì kẹp mới có ớt. Không, vấn đề không phải là vị cay của ớt, mà vấn đề là sự bất ngờ. Mấy miếng ớt xắt, cố thủ đâu đó giữa dưa leo và chả lụa, hoặc giữa mấy sợi cà rốt chua xà nẹo nhau, hoặc tinh tế mắc vào mép trái cọng ngò, ở những vị trí ngẫu nhiên và không thể dự đoán. Ờ, cố nhiên là ta biết ở trỏng có ớt, ta chỉ không biết nó ở đâu. Để rồi, khi ta cắn phập ổ bánh mì một phát, phát đầu có thể chưa thấy gì, nhưng phát thứ hai, hay phát thứ ba, một vị cay thình lình làm ta xé lưỡi, xộc lên óc, rồi vừa nhai vừa hít hà. Sướng là ở đó.

Nói về sướng, trong buổi nói chuyện của Ocean Vương, Ocean có nói ý như thế này khi một bạn hỏi về chuyện hiểu một bài thơ. Khi bạn đọc một bài thơ mà bạn thấy sướng, nghĩa là bạn đã hiểu bài thơ rồi. Chẳng phải bạn đến với thơ ca hay nghệ thuật nói chung là để sướng sao. Bạn không cần phải phân tích được cái sướng, ai đem phân chất một mùi hương (ref: Xuân Diệu)?

Ocean Vương còn nói thế này về việc đọc và viết, khi có một thính giả hỏi bạn ấy viết như thế nào, làm thế nào để biết mình bắt đầu ở đâu và kết thúc ở đâu, là bạn ấy tránh những mẫu hình có sẵn, có mở đầu, phát triển, cao trào, kết thúc, và tìm cách kể một câu chuyện theo cách riêng của mình, có "dấu vân tay" của mình. Quan trọng không phải kể cái gì mà kể như thế nào. Khi đọc cũng thế, một tác phẩm giữ chân được người đọc là một tác phẩm có thể mang đến sự bất ngờ. Cả đọc cả viết đều cần tránh những công thức.

Về sự bất ngờ, ngày xưa Bàn Tải Cân đã viết trong câu thơ trác tuyệt: "Thơ hay ở chỗ bất ngờ". Dĩ nhiên, Bàn Tải Cân sẽ không phải là Bàn Tải Cân nếu câu bát không bất ngờ thế này: "Người hay ở chỗ đêm mơ xuất tình."

Tới đây dừng bất thình lình.

Wednesday, 15 January 2025

Đi họp phụ huynh

Sáng thứ bảy bị vợ đùn đi họp phụ huynh cho con gái. Vẫn hoàn thành cữ chạy buổi sáng, nhưng thay vì ung dung ăn sáng uống cà phê thì chàng vắt chân lên cổ để đến trường cho kịp giờ. Trường mới của con nội quy khó khăn lắm, con đi học trễ hai phút cũng bị trừ điểm hạnh kiểm, ấy là còn đi xe đưa rước. Sợ đi họp phụ huynh mà trễ bị trừ điểm hạnh kiểm thì nguy. Vì vậy 8 giờ họp 7:59 chàng đã đua tới cổng trường. Vào đến lớp thì tròn 8 giờ, chàng hồ hởi nhủ thầm: giờ có trừ điểm hạnh kiểm tôi bằng mắt! Nhưng hóa ra, cô giáo vẫn chờ các phụ huynh khác, đến 8:15 mới chính thức bắt đầu.

Yên vị rồi, chàng bắt đầu thấy khát. Do 12 km bào cầu Sài Gòn buổi sáng đây. Thường, khi chạy hằng ngày chàng không uống nước, chỉ bù nước sau khi chạy. Sáng nay vội quá, không uống đủ nước rồi. Nhìn quanh, nhìn quất, chẳng có chai nước nào trên bàn. Liếc ra góc phòng, thấy có bình nước chắc dành cho học sinh, nhưng chẳng có cái ly nào cả, chàng đành nuốt nước bọt nhìn cô giáo phổ biến nội quy. Cái này thì chàng biết rồi: không được nghỉ học vào trước hay sau lễ (đã có kinh nghiệm cay đắng khi xin cho con nghỉ học ngày 31/12), không được nhuộm tóc (nhỡ tóc vàng sẵn thì phải báo cáo từ trước), không được xăm (chúng nó xăm vào mông thì kiểm tra kiểu gì), không được mang ba lô (chỉ được mang cặp táp có quai giống ba lô), không được để chai nước trên bàn (con gái báo cáo: con toàn để nước dưới chân bàn, mà công nhận đi rất dễ đá phải)....

Xong phần phổ biến nội quy, cô giáo báo cáo kết quả học tập. Lớp có 31 em, 30 em đạt học sinh giỏi, 1 em loại khá. Chàng lẩm bẩm: chúng mày ăn gì mà giỏi thế, thời của bố mày, trầy vi tróc vẩy mới được trung bình trên tám phẩy nhé, cả khối 12 chỉ mình bố mày được thôi. Đang hồi tưởng quá khứ huy hoàng đồng thời hoài nghi thực chất dạy và học của các cô và các cháu, chàng chợt thấy một vị phụ huynh bàn đầu phát biểu dõng dạc: các cháu học thế là tốt, nhưng sang học kỳ 2 các cháu phải phấn đấu 100% học sinh giỏi. Các phụ huynh khác gật gù tán đồng. Chàng len lét cúi đầu, vẫn nhớ ra mình đang khát.

Xong phần báo cáo của giáo viên chủ nhiệm, sang phần của đại diện hội cha mẹ học sinh. May thay, phần này nhanh, gọn, nhẹ, bởi nội dung chỉ thông báo các khoản tiền cần đóng. Hội nghị nhanh chóng đồng thuận. Ai sao mình vậy, chàng không thắc mắc gì.

Tối hôm trước con gái đã dặn: ba đừng làm cho con bị chú ý đấy nhé. Thế nên, chàng nín thinh suốt buổi, không phát biểu câu nào. Kết thúc buổi họp, ra về, cả hạnh kiểm và đức hạnh của chàng vẫn còn nguyên vẹn.

Đọc một bài thơ

Tôi có một thằng em. Tôi không nói tên nó đâu nhưng nó làm thầy giáo mà lại khổ, khổ thật hay khổ vờ không chắc, nhưng cứ tạm gọi nó là giáo khổ. Giáo khổ thỉnh thoảng hỏi những câu làm tôi đớ người ra. Nhiều hôm đang bận bỏ mẹ nó nhắn tin, anh ơi câu này, đoạn này hiểu thế nào, dịch thế nào. Tôi nhòm vào thấy một đoạn tiếng Anh rất hard core, nó không hiểu được thì tôi cũng chả hiểu, hoặc muốn hiểu phải bỏ thời gian nghiên cứu, tâm tư, mà tất nhiên ấy là việc bọn tư bản không thích.

Nhưng hôm nay, giữa lúc tôi đang xì chét, nó nhắn cho tôi một khổ thơ, anh ơi đoạn này hiểu thế nào. Đoạn ấy như sau:
Long I lingered in the bud,
Doubting of the season
Winter’s cold had chilled my blood— I was ripe for treason
Cậu ấy đang bí chỗ I was ripe for treason – tôi đang chín muồi cho sự phản bội, thế là thế nào. Cố nhiên tôi cũng chả hiểu gì. Nhưng tò mò, tôi bảo gửi tôi nguyên bài xem:
Trust me spring is very near
All the buds are swelling
All the glory of the year
In those buds is dwelling
What the open buds reveal
Tells us—life is flowing;
What the buds, still shut, conceal,
We shall end in knowing.
Long I lingered in the bud,
Doubting of the season
Winter’s cold had chilled my blood— I was ripe for treason.
Now no more I doubt or wait
All my fears are vanished,
Summer’s coming dear, though late,
Fogs and frosts are banished.
Đó là một bài thơ của James Clerk Maxwell, một nhà vật lý hay toán học gì đấy.
Tôi đọc bài thơ năm, bảy lần, rồi nhắn cho cậu giáo khổ:
Anh hiểu đây như là một bài thơ ca ngợi bí mật của sự sống. Key words nằm ở đoạn 2, những chồi non bung ra thì cho ta biết cuộc sống đang sinh sôi, nhưng những chồi chưa bung che giấu những gì thì phải đến tận cùng ta mới biết. “End in knowing” có thể là tận cùng mới biết, mà cũng có thể biết là hết, là không còn bí mật nữa. Do vậy sang đoạn ba mới có đoạn lưu luyến với chồi non, ngờ vực thay đổi của mùa, của thời gian. “Ripe for treason” chắc hẳn là mong muốn chống lại quy luật của thời gian, vì nếu thời gian cứ trôi đi thì chồi sẽ bung ra, không còn bí mật gì nữa. Ở đoạn kết, mùa hè tới, thì không còn gì nữa rồi, bung bét cả. Kết luận: Đời chỉ đẹp khi còn bí mật, cũng như tình chỉ đẹp khi còn dang dở.
Tất nhiên đấy là cách hiểu của tôi. Mỗi tác phẩm lớn đều mở đường cho nhiều cách hiểu khác nhau.
Hiểu được bài thơ, tôi cảm thấy khoan khoái chi lạ, nên đã toan dịch. Cậu giáo khổ đẩy đưa, anh dịch đi, em trợ hứng anh bằng chai vang. Tôi gõ luôn. Bản dịch đầu tiên như sau:
Hãy tin anh, xuân đang đến
Bao chồi non đang căng tràn
Bao vinh quang năm tháng ấy
Trú trong chồi đợi mùa sang
Chồi nào mở bung hé lộ
Ta hay cuộc sống tuôn trào
Chồi nào hãy còn khép kín
Giấu điều chi biết đâu nào.
Anh lưu luyến trong chồi ấy
Có chuyển mùa hay là không
Giá băng khiến anh dễ chịu
Chẳng đành bỏ lại mùa đông
Giờ đây hết nghi, chẳng đợi
Mọi sợ hãi đều biến tan
Em ạ, hè sang, dẫu muộn
Giá sương tuyệt chẳng mơ màng.
Tạm xong, nhưng chưa hài lòng, bởi hai câu cuối khổ ba, thoát ý quá và trở thành diễn dịch của tôi rõ quá. Ăn trưa xong, tôi sửa lại. Có tí cơm trong bụng nó khác:
Hãy tin anh, xuân đang đến
Bao chồi non đang căng tràn
Bao huy hoàng năm tháng ấy
Trú trong chồi đợi mùa sang
Chồi nào mở bung hé lộ
Ta hay cuộc sống tuôn trào
Chồi nào hãy còn khép kín
Tận cùng mới tỏ ra sao
Anh lưu luyến trong chồi ấy
Nghi ngại chuyển mùa hay không
Giá băng khiến anh êm ái
Đã nuôi bội phản trong lòng
Giờ đây hết nghi, chẳng đợi
Mọi sợ hãi đều biến tan
Em ạ, hè sang, dẫu muộn
Giá sương tuyệt chẳng mơ màng.
Lần này, thì tôi hài lòng vì hai câu cuối khổ ba bám sát được nguyên tác hơn, mà vẫn giữ nguyên sự khó hiểu của nó.
Chẳng có bản dịch nào hoàn hảo, huống hồ một bản dịch chơi. Nhưng trò chơi hôm nay khiến tôi cực kỳ khoan khoái.

Ladakh trip 8/2023

Cách đây ba tháng, ông thiền sư bạn tôi rủ rê mọi người đi Ladakh, tôi còn chưa biết nơi này nằm ở đâu trên bản đồ. Thông tin sau đó ông ta cung cấp, đây sẽ là một chuyến trekking và leo núi trên dãy Himalaya, phần thuộc Ấn Độ. Nghe hay hay, tôi bảo bạn cùng nhà, ui, đi chuyến này đã có ông thiền sư tổ chức, mình chỉ cần nhắm mắt đưa chân. Thế là chúng tôi hủy kế hoạch đi Lào, đu theo ông thiền sư.

Công nhận ông thiền sư rất mát tay: tất cả những người ông rủ rê ban đầu đều tham gia, rồi người này rủ thêm người kia, rốt cuộc chốt đoàn đến tận 16 thành viên. Tất cả đều từng có kinh nghiệm du lịch bụi, trekking hoặc leo núi, chịu ngủ bờ, ngủ bụi, ở dơ và hành xác. Nếu không có những điểm chung đó, khó để 16 con người hầu hết chỉ biết nhau chút chút trước đó, hình thành một đoàn “chịu đựng” nhau trong 10 ngày. 

Ba tháng chuẩn bị trôi qua rất nhanh, hầu như không ngày nào không có tin nhắn của nhóm chia sẻ kinh nghiệm chuẩn bị thể lực, mua sắm đồ đạc (khá nhiều, bởi lẽ điểm đến khá lạnh, nếu lên đỉnh núi có thể âm 15 độ), xin visa, mua bảo hiểm, thuốc men v.v. Duy nhất một thứ biết trước mà không chuẩn bị được, trừ việc mua thuốc, đó là đương đầu với AMS.

AMS là viết tắt của acute mountain sickness, nôm na là say độ cao. Biểu hiện của chứng này đa dạng, từ nhức đầu, chóng mặt, nôn mửa, tiêu chảy, mệt mỏi, đến trường hợp nặng có thể gây xuất huyết não. AMS có thể xuất hiện ở độ cao trên 2500 mét, phổ biến hơn ở độ cao trên 3500 mét, 20% dân số thế giới có thể mắc chứng này. AMS phổ biến ở nam hơn nữ. Điều kỳ quái của AMS là không thể rèn luyện thể lực để đối phó với AMS, vận động viên chuyên nghiệp vẫn có thể bị AMS, trong khi “bánh bèo” có thể lại miễn nhiễm với chứng này. Nói kỹ về AMS, vì rồi tôi sẽ là nạn nhân của nó, và vì vậy không thể summit (lên đỉnh).

Ngày khởi hành đến, sau năm tiếng bay từ Sài Gòn đến Delhi, chúng tôi vạ vật sân bay Delhi tầm sáu tiếng trước khi nối chuyến đến Leh. Thời gian bay tới Leh chỉ hơn một tiếng, nhưng chúng tôi phải ngồi trên máy bay mất gần một tiếng nữa vì sân bay Leh rất nhỏ, phải đợi có chiếc cất cánh máy bay chúng tôi mới vào được sân đỗ.

Có lẽ tôi và các bạn đồng hành chưa bao giờ chăm chú theo dõi độ cao từng điểm đến như trong chuyến đi này. Khi cơ trưởng thông báo máy bay chuẩn bị hạ cánh, tôi thấy một điều thú vị là độ cao đo được theo đồng hồ Garrmin của mình từ 2900 mét tăng dần lên 3500 mét khi đáp. 3500 mét chính là độ cao của Leh, thành phố thủ phủ Ladakh. Từ Leh, chúng tôi sẽ lên điểm cắm trại đầu tiên gần hồ Tso Moriri, làng Karzok, độ cao 4.500 mét. Sau đó, sẽ trek lên điểm hạ trại thứ hai ở chân núi Mentok Kangri, độ cao 5.200 mét. Cuối cùng, đỉnh Mentok Kangri, đích đến cuối cùng của đoàn, có độ cao 6.250 mét. Đoàn sẽ có bảy ngày làm quen độ cao trước khi chinh phục đỉnh Mentok Kangri, tuy nhiên, rồi sẽ chỉ 5/16 thành viên trong đoàn chinh phục thành công đỉnh núi này.

Ngay buổi chiều đầu tiên đến Leh, sau bữa trưa no đẫy tại một nhà hàng Tibet mà tôi đã rất tự tin gọi một món đặc Ấn, chicken masala ăn cùng bánh naan, thì tôi thấy trong người lạ dần. Sau khi ghé thăm một tu viện nhỏ, quay về khách sạn, ngang căn bếp nồng mùi cà ri, thì tôi không kìm được nữa, lao vội vào phòng tắm nôn thốc nôn tháo. Cả đêm đầu tiên đó, tôi cho chó ăn chè tới sáu bảy bận, mặc dù những lần sau không còn chè nữa, chỉ nước suông, nhưng vẫn cho ra. Tới sáng hôm sau, tuy vẫn e ngại tác dụng phụ của thuốc chống AMS, tôi đành phải nuốt luôn hai viên. Cảm thấy khá hơn chút, nhưng trong lúc cả đoàn đi trekking nhẹ và chơi dù lượn, thì tôi nằm bẹp. Tôi nghĩ thầm trong bụng, kiểu này chắc phải ở lại Leh tĩnh dưỡng suốt 5 ngày tới, trong lúc chờ đoàn leo núi rồi quay về. May thay, sáng ngày thứ ba, nhờ thuốc mà tôi khá hơn nhiều, cùng đoàn tiếp tục hành trình.

Đường từ Leh đến làng Karzok, điểm hạ trại đầu tiên, khoảng 220km. Hai phần ba đầu, đường tuy hẹp, mỗi bên chỉ một làn xe, nhưng mặt đường còn được trải nhựa tương đối tốt. Càng đi, càng vắng bóng dân cư, vắng bóng cả cây, chỉ lác đác doanh trại quân đội dọc theo những triền núi đá. Con đường ngoằn nghèo chạy trên dãy Hy Mã Lạp Sơn, một bên là núi đá với kết cấu không bền vững, nguy cơ sạt lở bất cứ lúc nào, một bên là dòng suối hối hả, chảy xiết. Con đường thách thức thần kinh tài xế và du khách này là một phiên bản hard core gấp đôi, gấp ba chặng đường Mèo Vạc - Hà Giang qua đèo Mã Pí Lèng huyền thoại. Trên đường, có nhiều bảng tuyên truyền giao thông khá duyên dáng, tôi chép lại cho quan chức đường bộ nước ta tham khảo:

Speed thrills but kills (Tốc độ thì hấp dẫn, nhưng chết cũng nhanh lắm)

Fast drive could be last mile (Lái nhanh cho cố, tới số)

Donate blood but not on road (Hiến máu đáng tuyên dương, nhưng đừng hiến trên đường)

Feel the curves, don’t hug them ( Cảm nhận đường cong, chớ có ôm chầm)

Drive don’t fly (Chạy, đừng bay)

On the bend go slow friend ( Vô cua chậm nha bồ)

Drive on horsepower not on rum power (Lái xe nhờ mã lực, chớ không phải tửu lực)

If you sleep your family will weep (Nếu bạn buồn ngủ gia đình bạn lãnh đủ)

Road is hilly don’t drive silly ( Đường đèo dốc đừng lái như thằng ngốc)

You booze you cruise you lose (Nhậu rồi phóng là chán sống)

Accident brings tears safety brings cheers (An toàn cả nhà vui, tai nan lệ tuôn rơi)

Over speed is a knife that cuts life (Lái quá tốc độ là dao cắt cổ)

Fast won’t last (Nhanh thì không bền)

Better late than never (Thà muộn còn hơn không bao giờ)

Alert today alive tomorrow (Hôm nay cẩn trọng để ngày mai còn sống)

Một phần ba sau, đường không còn là đường, nhiều lúc có cảm giác tài xế chỉ nhắm hướng mà chạy. Hình như lâu rồi tài xế mới chạy lại con đường này, nên anh đã lạc đường đến ba, bốn lần. Mỗi lần anh phát hiện ra mình lạc đường, de xe, quay đầu, nhất là khi trời đã tối, là tim tôi lại nhộn nhạo. Mặt đường lồi lõm như bề mặt mặt trăng, lỡ sa xuống hố thì không biết qua đêm ở đâu, nhất là khi càng lúc trời càng lạnh.

Hơn 8 giờ tối, chúng tôi cũng tới được bãi trại. Lều đã được dựng rồi, nhưng mệt nhoài và lạnh, nên dẫu đói, chúng tôi cũng chỉ nuốt qua loa bữa tối muộn rồi lăn ra ngủ trong tiếng gió ầm ào. Trong giấc ngủ chập chờn, tôi nghe thấy tiếng lục lạc lanh canh khi xa khi gần, đôi lúc lại nghe như có tiếng chuông chùa ngân rung trong sương đêm.

Sáng hôm sau, nắng lên từ rất sớm, chui ra khỏi lều, chúng tôi mới bắt đầu chiêm ngưỡng phong cảnh chung quanh. A ha, chúng tôi đang trên dãy Himalaya, những túp lều vàng của nhóm chúng tôi nằm rải rác trên một bãi cỏ xanh, bên dòng suối thì thào tuôn chảy. Dọc theo suối, lác đác những cụm hoa vàng li ti. Bên kia suối, vài chú ngựa nhởn nhơ gặm cỏ - tác giả những tiếng lục lạc trong đêm đây rồi. Vây quanh chúng tôi là núi đá. Thì ra, đây là một thung lũng, hèn nào đêm gió lùa rất ghê. Ngày hôm đó, vẫn uống thuốc chống AMS, phục hồi phần nào công lực, tôi bám theo đoàn trek nhẹ nhàng về hồ Tso Moriri, hồ nước mặn trên cao lớn nhất Ấn Độ. Trong vài ngày sau đó, chúng tôi còn có nhiều dịp ngắm hồ từ các độ cao khác nhau.

Ngày kế tiếp, chúng tôi nhổ trại và bắt đầu leo lên base camp nằm ở độ cao 5.200 mét. Quãng đường từ trại thứ nhất tới trại thứ hai chỉ hơn 7 cây số và độ dốc tăng thêm 700 mét, nhưng ngốn mất của tôi tám tiếng đồng hồ. Các bạn đi khỏe hơn trong đoàn mất sáu tiếng, nhưng cũng có vài bạn khác mất tới 11 tiếng. Riêng trong buổi chiều, đồng hồ tôi đo được quãng đường di chuyển là 2.5km, độ dốc 330 mét, thế mà tôi đi mất 4 tiếng 50 phút. Thường, khi chạy ở núi Dinh chẳng hạn, thì với quãng đường và độ dốc tương đương, tôi chạy khoảng 25-30 phút. Gần như trên chặng trek này, cứ bước chừng chục bước là tôi đứng thở một, hai phút. Lên tới base camp, tôi không còn chút sức lực nào. Bạn cùng nhà, đã lên tới base camp trước tôi hai tiếng, hỏi tôi mấy câu, mất nửa tiếng sau tôi mới đủ hơi để trả lời. Tôi biết mình nên dừng chân ở đây. Cơ thể tôi tuy có nhồi thuốc nhưng vẫn không thích nghi kịp với độ cao. Ở độ cao trên 5.200 mét này, sức lực tôi chỉ còn tầm 1/10 bình thường, chỉ cần loay hoay đóng cửa lều, hay ngồi xuống đứng lên (vâng, là nói tới khâu đó) đã thở hồng hộc, đi từ lều mình tới lều ăn phải dừng lại thở hai, ba lần, nên chuyện chinh phục đỉnh Mentok Kangri 6.250 mét là chuyện quá xa vời. Vả chăng, nhìn lại, tôi thấy mình đã không chuẩn bị nghiêm túc cho việc leo núi, thật ra thì tôi chẳng biết gì về leo núi cả, trong đầu tôi chỉ nghĩ đây là một chuyến trekking.

10/16 thành viên trong đoàn rồi sẽ băng vào màn đêm giá buốt với nỗ lực summit. Một nửa trong số đó phải quay về sau 1/3 hay 1/2 quãng đường vì những lý do khác nhau. Chỉ 5 thành viên summit thành công. Đó là một nỗ lực phi thường.

Buổi sáng ngày summit, khi các bạn mình đang loay hoay đâu đó trên đường chinh phục Mentok Kangri, tôi dậy sớm, lấy một tách trà nóng ôm trong tay rồi ngồi trên một tảng đá thừ người ngắm hồ Tso Moriri. Hôm ấy trời nhiều mây hơn mấy hôm trước, mãi mà mặt trời chỉ có thể yếu ớt rọi vài tia sáng qua những áng mây dày. Bên kia hồ, những dãy núi đá, trên đỉnh phủ tuyết trắng xóa, có độ lồi lõm khác nhau, tạo thành những mảng khối màu đậm nhạt đan xen, trông như những nhát cọ của một họa sĩ thiên tài. Phía trái dãy núi lại chạy đổ dài xuống mép hồ, mở ra một khoảng rộng trông từ xa không khác gì một bãi biển. Mặt hồ Tso Moriri tuyệt đối tĩnh lặng. Từ độ cao này, nhìn mặt hồ không chút gợn sóng, rõ ràng là một tấm gương khổng lồ in hình rặng núi tuyết phía sau. Vẻ huy hoàng tráng lệ của dãy núi, sự tĩnh lặng tuyệt đối của gương hồ, cái đẹp của thiên nhiên vĩ đại làm choáng ngợp tôi, chiếm hữu tôi, làm tôi như nghẹt thở. Bất giác, tôi thấy mình ứa nước mắt.

Chuyến đi rồi sẽ kết thúc. Chúng tôi rồi sẽ trở về với thế giới có nước nóng để tắm, có toa lét đàng hoàng, có kết nối Internet. Qua chuyến đi này, dù có lên đỉnh thành công hay không, tôi tin mỗi người trong chúng tôi sẽ tìm thấy những ý nghĩa khác nhau. Với tôi, những giờ phút ngắm hồ, ngắm núi, hít thở không khí tuyệt đối trong trẻo trên dãy Himalaya đã là một trong những giờ phút lãng mạn nhất của đời mình.

(Vài dòng gõ trên điện thoại trong lúc vật vờ tại sân bay Delhi.)

Wide Sargasso Sea - Jean Rhys