Hiển thị các bài đăng có nhãn italian. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn italian. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 3 tháng 4, 2025

The Dry Heart - Natalia Ginzburg

Natalia Ginzburg là  nhà văn Ý, sinh năm 1916, mất năm 1991. Đây là cuốn đầu tiên của bà mà tôi đọc. 

Cuốn sách mở đầu như sau:

'Tell me the truth,' I said.
'What truth?' he echoed. He was making a rapid sketch in his notebook and now he showed me what it was: a long, long train with a big cloud of black smoke swirling over it and himself leaning out of a window to wave a handkerchief.
I shot him betwen the eyes.


Nhân vật xưng tôi là người vợ, cũng là người kể chuyện. Đây có lẽ là một trong những đoạn mở đầu gây sốc nhất tôi từng đọc. Thật ra tôi chưa nhớ ra một đoạn mở đầu gây sốc tương tự.

Sau đó, qua lời người vợ, ta sẽ dần biết được cô là người như thế nào, đã quen chồng như thế nào, đã hẹn hò rồi lấy nhau và sống với nhau như thế nào, và hiểu vì sao đến một ngày cô rút súng đòm ngay trán chồng một phát. Khi tôi nhắc tới cuốn này trên FB, nhiều bạn nữ đã rất quan tâm đến cuốn sách.

Đọc cuốn này, tôi quan tâm tới cách viết của bà hơn là câu chuyện. Lối viết của Giznburg đơn giản, trực diện nhưng hiệu quả rất bùng nổ. Bà viết câu ngắn, dùng từ đơn giản (tất nhiên qua bản dịch tiếng Anh, nhưng tôi đồ rằng nguyên bản tiếng Ý cũng vậy), không kỹ thuật gì rườm rà hay màu mè, gần như không tả cảnh hay sa đà vào các chi tiết. Nhân vật đi dạo thì chỉ nói là đi dạo, chứ không nói bầu trời thế này, đường phố thế kia. Nhân vật làm tình thì chỉ nói làm tình, không có tả chấm ba chấm. Có thể nói là đây là một lối viết tối thiểu nhưng mang lại một hiệu quả tối đa. Không biết trong các cuốn khác thì bà viết thế nào, hay lối viết này chỉ áp dụng cho cuốn này? Có một nhận xét về cuốn này của độc giả tôi thấy đáng lưu ý: lối viết đơn giản này thể hiện góc nhìn hạn hẹp của người vợ (môt phụ nữ không có gì đặc sắc, đến hai sáu tuổi không có mốt tình nào, quan hệ xã hội cũng rất hạn chế chỉ có một hai người bạn.)

Tôi dự định đọc tiếp All Our Yesterdays của bà.

Thứ Hai, 10 tháng 3, 2025

The Path to the Spiders' Nests - Italo Calvino

Mấy năm rồi mới đọc lại Calvino. Cuốn này, Đường tới ổ nhền nhện, là cuốn đầu tay của ông, nhưng bản chúng ta đọc đây là bản ông sửa chữa lại nhiều gần 20 năm sau bản in đầu. Tôi đọc miệt mài cuốn sách trên chuyến bay đi Chiang Mai và từ Chiang Mai trở về, nhờ ơn VietJet bay vòng vòng trên trời nên đọc xong luôn. Cuốn sách kể về một cậu nhóc người Ý trong chiến tranh thế giới thứ hai và phong trào kháng chiến của người Ý qua góc nhìn của cậu. Pin, tên cậu nhóc, không chia sẻ chút nào với những cậu nhóc trong Tuổi thơ dữ dội hay Đất rừng phương Nam. Gần với Pin nhất có lẽ là ... Vi Tiểu Bảo, ở chỗ Pin chửi bậy như hát hay, chuyên kể chuyện đùa tục tĩu, bởi lẽ người thân duy nhất của Pin, chị cậu, hành nghề giống mẹ Vi Tiểu Bảo. Bí mật, và cũng là thế giới mộng mơ của Pin, là ở một bãi đất ven sông, nơi lũ nhện làm tổ. Đó cũng là nơi Pin giấu khẩu súng cậu chôm từ một thủy thủ người Đức khi gã này đang bận rộn với chị cậu, vụ trộm khởi đầu cho cuộc phiêu lưu của Pin.
Calvino viết thật nhẹ nhõm, hài hước một cách tự nhiên. Cái sự nhẹ này Calvino về sau sẽ đẩy lên trong Nam tước trên câyHiệp sĩ không hiện hữu và lý thuyết hoá trong tập Sáu bài giảng cho thiên niên kỷ. Tuy chưa phải là kiệt tác, nhưng đọc cuốn này thấy sướng gì đâu.

Thứ Bảy, 16 tháng 1, 2016

Mặt trời mù - giữa thú và người

Nếu như Skin (Thượng đế đã chết trong thành phố, Nguyễn Quốc Trụ dịch) hay Kaputt lập tức quyến rũ tôi bằng sự mỉa mai, sắc sảo ngay từ những trang đầu, thì Mặt trời mù (Curzio Malaparte, Bửu Ý dịch, Nhã Nam và NXB Văn học ấn hành) không như thế. Mặt trời mù khá là...tù mù. Cứ như nó bị chính lớp sương mù trên ngọn Bạch Sơn bao phủ. Vì thế, tôi thấy phần "Khai từ cần thiết" của tác giả quả đúng là cần thiết. Tôi chép lại vài đoạn quan trọng:

"Từ nay ta cẩn phải nói, không phải nể nang người sống làm gì rằng chẳng có một cái gì ở châu Âu xứng đáng để ta phải chết. Cũng chẳng đáng phải chết để chứng tỏ rằng chết là vô ích, rằng cái chết chẳng dùng vào việc gì, chẳng giải cứu được gì, rằng thắng trận có lẽ còn vô đạo đức hơn bại trận; mà cũng chẳng cần chết mới chứng tỏ rằng đứa chết xứng đáng hơn đứa sống. (Vâng, nghiễm nhiên sự thắng trận là một điều nhục nhã. Ở châu Âu, còn gì cho chúng ta đâu, ngoại trừ niềm an ủi đến với chúng ta từ đạo Ki-tô.)"

"...Một trận giặc vô vọng, dưới Mặt trời lãnh đạm, trơ ra, đui mù trước bao nỗi thống khổ của con người. Xin mặt trời soi sáng hành động con người: ta không thể đòi hỏi Mặt trời khổ luỵ theo ta, động lòng vì những nỗi khổ  của ta. Ta không thể đòi hỏi Mặt trời từ tâm, công chính, xót thương. Mặt trời mù."

Khi vượt qua được lớp sương mù trên ngọn Bạch Sơn, tôi thấy mình yêu cuốn sách này không kém gì hai tác phẩm kia của Malaparte. Tôi thích những đoạn viết về thú nói chung và lừa, bò, chó, ngựa nói riêng. Những con vật ấy xâu lại với nhau thành sợi chỉ đỏ, chỉ hồng, chỉ xanh, chỉ đen giúp tôi lần theo những bước chân của viên đại uý, cửa cậu sơn binh Calusia với tiếng lục lạc âm trầm của cậu, không khiến tôi lạc lối trong lớp sương mù chưa lúc nào thôi dày đặc dưới mặt trời mù.

Trong Kaputt, các con vật đóng vai trò cực kỳ quan trọng thì đã hẳn. Tôi lười giở lại sách ra xem, nhưng nhớ không nhầm thì sách chia thành sáu phần, mỗi phần mang tên một con vật: ngựa, chó, chuột, rồi mấy con nữa. Tôi nhớ (thật ra đọc cảnh này rồi thì không thể nào quên, nó đóng đinh vào óc) bầy ngựa chiến đóng băng trên mặt hồ mùa đông. Nhớ lũ chuột chui ra chui vào chân tường một khu ghetto.

Trong Mặt trời mù  củng có thú. Hơn một lần, Malaparte nhắc đến màn đêm như một con thú rình rập con người. Đêm cũng mang lại cho con người cảm giác còn sống, còn sống "trong lòng con thú vĩ đại, nóng hổi." Và khi viên đại uý thì nói với cha Plassier rằng mình chẳng phải là người mà là thú, thì cha Plassier đáp rằng tất cả đều là tạo vật của Chúa. Giữa thú và người là sự bình đẳng. Phải vậy chăng, hay người còn kém thú?

Dưới lớp sương mù trên ngọn Bạch Sơn, là những bước chân hành quân của quân Ý dưới làn đạn pháo của quân Pháp, Dưới lớp sương mù trên ngọn Bạch Sơn, là bước chân lan man của viên đại uý, là tiếng lục lạc bò thấp thoáng ẩn hiện của cậu sơn binh Calusia. Giữa hai nhân vật ấy, có mối dây liên hệ thông qua những con thú (tiếng lục lạc của những con bò đã được đưa đến lò sát sinh, treo trên cổ Calusia). Cả hai cũng có những mối liên hệ riêng rẽ với những con vật. Calusia đeo lục lạc bò trên cổ. Cậu ta có thể trần truồng giữa bầy bò, tự nhiên như thể cậu ta là một thành viên của bầy bò ấy. Calusia cũng là người lao ra dưới trận mưa trái phá để vỗ về một con lừa đang hấp hối. 

Trong cuộc hành quân trên ngọn Bạch Sơn, viên đại uý bị thu hút, luôn dõi theo tiếng lục lạc trên cổ Calusia. Một chi tiết trong hồi ức của viên đại uý hé lộ cho ta biết nguồn gốc sâu xa về mối liên hệ giữa viên đại uý và tiếng lạc: thuở nhỏ, một thằng bé bị rớt xuống hố băng, bạn bè bỏ chạy, chỉ một con chó ngoạm tay cố lôi thằng bé lên. Con chó có lạc đeo ở cổ. Hành động của thằng bé đối với con chó ngay sau khi nó được cứu có thể giải thích bằng cơn hoảng loạn của nó (hay là ngầm chỉ về sự vô ơn của con người?), nhưng dù gì đi nữa, hành động ấy trở thảnh nỗi nhục nhã di căn mà viên đại uý mang theo.

Trước khi phát điên, viên đại uý đã nói những lời minh triết: "Tôi nghĩ bọn vật khá hơn mình nhiều. Chúng nó là những sinh vật thuần khiết, vô tư...Cái làm hỏng con người, cái làm cho con người trở nên dữ tợn, hèn nhát, ích kỷ chính là ý thức về cái chết. Loài vật chúng nó chỉ có cái bản năng sinh tồn, có thể là một linh cảm xa xôi nào đó. Nhưng loài vật không ý thức cái chết. Chúng nó biết chúng nó có thể chết, chứ không biết chúng nó phải chết."