Hiển thị các bài đăng có nhãn interview. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn interview. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 13 tháng 7, 2025

Hemingway trả lời phỏng vấn

Bài trả lời phỏng vấn của Hemingway cho The Paris Review là một trong những bài sớm nhất, và theo tôi nằm trong hàng đặc sắc nhất các bài phỏng vấn của tạp chí này. Nếu siêng và rảnh thì tôi sẽ dịch hết ra. Còn lúc chưa siêng và chưa rảnh lắm, tôi tóm tắt một ít dưới đây:

+ Hemingway có thói quen viết vào lúc sáng sớm, khi chưa có ai quấy rầy. Ông bắt đầu bằng việc đọc lại những gì đã viết, và bởi vì hôm trước ông dừng lại ở chỗ biết rằng cái gì sẽ xảy ra kế tiếp [trong câu chuyện], ông sẽ tiếp tục từ chỗ đó. Trình tự này lặp lại mỗi ngày. "Khi bạn ngừng lại bạn trống rỗng, nhưng cùng lúc không bao giờ trống rỗng mà tràn đầy, như khi làm tình với người bạn yêu. Không có gì có thể làm tổn thương bạn, không có gì xảy ra, không có gì có ý nghĩa gì cho đến ngày kế tiếp khi bạn lại tiếp tục làm việc đó. Chờ cho đến ngày hôm sau là thứ khó nhất cần vượt qua."

+ Được hỏi Hemingway có thường viết đi viết lại không, ông trả lời cũng tùy. Nhưng trang cuối của Giã từ vũ khí, ông viết lại ba mươi chín lần. 

+ "Bạn có thể viết bất kỳ khi người ta để yên cho bạn, không xen ngang... Nhưng chắc chắn khi đang yêu là viết hay nhất."

+ Hỏi: Ông coi đâu là hình thức đào tạo tốt nhất đối với người muốn trở thành nhà văn:
Đáp: Anh ta hãy  tự treo cổ bởi anh ta thấy rằng viết giỏi khó đến mức bất khả. Rồi hãy cắt dây không nương tay và rồi anh ta hãy tự buộc mình phải viết tốt đến mức có thể cho hết phần đời còn lại. Ít ra khi đó anh ta có thể bắt đầu với chuyện treo cổ. (Câu trả lời này, nếu tôi nhớ không nhầm, có được nhắc lại trong cuốn Never Any End to Paris của Enrique Vila-Mata.)

+ Được hỏi khi viết ông có bị ảnh hưởng bởi những gì đang đọc không, câu trả lời của ông đại ý chỉ có Ulysses của James Joyce.

+ Khi được hỏi về ảnh hưởng của những người đương thời lên tác phẩm của mình, câu trả lời của về Gertrude Stein rất thú vị: " Cô Stein viết khá dài và khá không chính xác về ảnh hưởng của cô ta đối với tác phẩm của tôi. Cô ta cần làm như vậy sau khi cô đã học cách viết thoại trong một cuốn sách có tên là Mặt trời vẫn mọc."

+ Khi được hỏi ông học viết nhiều nhất từ ai, Hemingway liệt kê một danh sách rất dài: Mark Twain, Flaubert, Stendhal, Chekhov..., đáng chú ý ông liệt kê rất nhiều họa sĩ. Ông nói ông từ các họa sĩ nhiều chẳng kém từ các nhà văn.

+ Được hỏi liệu tiểu thuyết của ông có chứa các biểu tượng không, ông trả lời: "Tôi cho là có vì các nhà phê bình cứ tìm ra hoài. Nếu ông không phiền, tôi không thích nói chuyện về chúng và bị hỏi về chúng. Viết sách viết truyện mà không bị yêu cầu giải thích đã là khó lắm rồi. Giờ còn giảng giải nữa thì các chuyên gia giải thích còn việc đâu mà làm. Nếu đã có năm, sáu chuyên gia giỏi thích rồi thì tôi xen vào công việc của họ làm gì? Hãy đọc bất cứ thứ gì tôi viết cho vui thôi. Rồi nếu bạn tìm thấy thứ gì [trong khi đọc], ấy là thứ đo lường nỗ lực đọc của bạn."

+ Về style: Những gì những kẻ a-ma-tơ gọi là style thông thường chỉ là sự kỳ quặc không thể tránh khỏi (unavoidable awkwardnesses) trong việc nỗ lực làm ra những thứ chưa tồn tại trước đó. Gần như không có tác phẩm cổ điển nào giống những tác phẩm cổ điển khác trước đó. Thoạt tiên người ta chỉ nhìn thấy sự kỳ quặc. Rồi mọi người nghĩ rằng sự kỳ quặc đó là phong cách rồi bắt đầu bắt chước. Ấy là điều đáng tiếc.

+ Nếu nhà văn ngừng quan sát thì coi như ông ta đã xong phim.

+ Nguyên lý tảng băng trôi rất nổi tiếng được đề cập trong bài phỏng vấn này: Đại khái cứ mỗi phần viết ra thì có bảy, tám phần ẩn đi. Nếu một nhà văn bỏ đi vài thứ bởi vì anh ta không biết, không hiểu rõ, thì nó sẽ tạo ra lỗ hổng trong câu chuyện. 

+ "All you can be sure  about a political-minded writer is that if his work should last you will have to skip the politics when you read it."

+ "Tài năng cốt lõi nhất của một nhà văn giỏi là một máy dò cứt nội tại, chống sốc. Đây là ra-đa của nhà văn và tất cả nhà văn lớn đều có nó."


Thứ Sáu, 30 tháng 5, 2025

James Baldwin trả lời phỏng vấn

Theo chỗ tôi biết, hiện diện của James Baldwin trong tiếng Việt còn khá ít ỏi: một bản dịch Điệu buồn cho Charlie của Sài Gòn trước 1975 (Phan Lệ Thanh dịch - PLT cũng là người dịch Goodbye, Columbus của Philip Roth) , bản dịch Căn phòng của Giovanni (Duy Đoàn dịch) gần đây do Tao Đàn in; tôi cũng từng nhìn thấy bản dịch của If Beale Street Could Talk có lẽ dịch thời bao cấp. Hình như chỉ có thế. James Baldwin viết nhiều, cả tiểu thuyết và tiểu luận đều có những cuốn xuất sắc. Bài phỏng vấn James Baldwin do The Paris Review thực hiện năm 1984. Dưới đây là những điểm đáng lưu ý:

+ James Baldwin có một thời tuổi trẻ sống ở Paris, chính thời gian ấy tạo cảm hứng cho ông viết tiểu thuyết đầu tay Căn phòng của Giovanni. Khi đến Paris, ông không biết một chữ tiếng Pháp nào. Lý do ông chọn Pháp là, thực ra ông không chọn Pháp, mà chỉ muốn thoát khỏi New York. Là người da đen sống ở New York thời kỳ đó, theo ông chỉ có hai lựa chọn: giết hay bị giết.

+ James Baldwin học cách viết từ ai?  Ông đọc rất nhiều. Hai nhà văn có ảnh hưởng lớn đến ông là Dostoievski và Balzac, đặc biệt là Balzac.

+ TBC


Thứ Sáu, 16 tháng 5, 2025

William Faulkner trả lời phỏng vấn

Trong các bài phỏng vấn các nhà văn nhà thơ của The Paris Review, bài phỏng vấn Faulkner có lẽ nằm trong một vài bài ấn tượng nhất mà tôi đã đọc. Bài phỏng vấn này thực hiện năm 1956. Một số điểm cần nhớ:

+ Tác phẩm mới quan trọng, tác giả thì không, nếu không có người này thì người khác sẽ viết. Quan trọng là Hamlet Giấc mộng đêm hè đã được viết, chứ không phải là Shakespeare hay ai đó khác đã viết những vở kịch ấy. "The artist is of no importance. Only what he creates is important, since there is nothing new to be said."

+ Quan điểm rất buồn cười về tiểu thuyết gia, có lẽ nhiều phần tự trào: làm thơ không được, nên mới viết truyện ngắn, mà ông cho là "the most demanding form after poetry", và viết truyện ngắn không xong mới viết tiểu thuyết. Ai lý giải được vì sao nước Nam là cường quốc thơ mà tiểu thuyết gia đếm trên đầu ngón tay? và tất cả nhà văn đều viết truyện ngắn?

+ Làm thế nào để trở thành một tiểu thuyết gia nghiêm túc?: Cần chín mươi chín phần trăm tài năng, chín mươi chín phần trăm kỷ luật, chín mươi chín phần trăm lao động. "An artist is a creature driven by demons." Người nghệ sĩ hoàn toàn vô luân, ăn cắp ăn trộm gì cũng được miễn là xong việc. " He is completely amoral in that he will rob, borrow, beg, or steal from anybody and everybody to get the work done." Trách nhiệm duy nhất của nhà văn là đối với nghệ thuật của mình. "The writer's only responsibility is to his art." Nếu cần, thì trấn lột cả mẹ mình. " If a writer has to rob his mother, he will not hesitate."

+ Trả lời câu hỏi "what would be the best environment for a writer", Faulkner bảo không quan trọng, chỗ nào cũng được, miễn là có "peace" và "solitude". Ông còn bảo công việc lý tưởng nhất cho ông là làm chủ nhà thổ: không sợ đói, có nhà để ở, sổ sách thì đơn giản có tú bà lo hết, chỉ cần hối lộ cảnh sát là xong, buổi sáng thì yên tĩnh tha hồ viết lách, buổi tối nếu buồn chán thì sẵn có "social life"!

+ Nhà văn có cần tự do về kinh tế không? Trả lời: không, chỉ cần giấy và bút chì. "Good art can come out of thieves, bootleggers, or horse swipes.... Nothing can destroy the good writer. The only thing that can alter the good writer is death. Good ones don't have time to bother with success or getting rich."  Nhà văn tồi thì sẽ than vãn nếu như không có ruồi (câu này tôi thêm vào.)

+ Về kỹ thuật viết văn: "The young writer would be a fool to follow a theory. Teach yourself by your own mistakes; people learn only by error. The good artist believes that nobody is good enough to give him advice."

+ Tác giả đánh giá tác phẩm của mình bằng sự khách quan, trung thực và lòng can đảm. Ông cho rằng không tác phẩm nào của mình đáp ứng tiêu chuẩn của chính ông, và do đó, ông đánh giá tác phẩm của mình dựa trên tiêu chí tác phẩm nào khiến ông đau buồn nhất (grief and anguish), và đó là The Sound and The Fury.

+ "A writer needs three things: experience, observation, and imagination, any two of which - at times any one of which - can supply the lack of the others."

+ Khi được hỏi sao không đề cập inspiration, ông trả lời: "I don't know anything about inspiration because I don't know what inspiration is - I've heard about it, but I never saw it."

+ Faulkner đọc ai? Ông không đọc các tác giả cùng thời. Ông đọc đi đọc lại Cựu Ước, Dickens, Conrad, Cervantes, Flaubert, Balzac, Dostoyevsky, Tolstoy, Shakespeare. 

+ Về các nhà phê bình: Nghệ sĩ không có thời gian nghe nhà phê bình nói! "The ones who want to be writers read the reviews, the ones who want to write don't have the time to read reviews."

+ "Life is not interested in good and evil. Don Quixote was constantly choosing between good and evil, but then he was choosing in his dream state. He was mad. He entered reality only when he was so busy trying to cope with people that he had no time to distinguish between good and evil."

+ Về nghệ sĩ, nghệ thuật, sự hữu hạn và bất tử: "The aim of every artist is to arrest motion, which is life, by artificial means and hold it fixed so that a hundred years later, when a stranger looks at it, it moves again since it is life. Since man is mortal, the only immortality possible for him is to leave something behind him that is immortal since it will always move. This is the artist’s way of scribbling “Kilroy was here” on the wall of the final and irrevocable oblivion through which he must someday pass."

Thứ Tư, 14 tháng 5, 2025

Graham Greene trả lời phỏng vấn

Interviewer: Do you see much of your fellow authors?

Greene: Not much, they are not one's materials. A few of them are very dear friends of mine, but for a writer to spend much of his time in the company of authors is, you know, a form of masturbation. 

Một câu trả lời thật đích đáng. Nhà văn thực sự thì cần phải viết, chứ không cần đàn đúm. Đàn đúm chỉ tổ dẫn tới phê bình thù tạc. Nhớ tới mấy bài kiểu Sương Nguyệt Minh tán tụng Đất mồ côi của Cổ Viên Tạ Duy Anh mà chạnh lòng. Quả thực là masturbation - mutual masturbation

Đoạn phỏng vấn trên là trong bài phỏng vấn The Paris Review. Giờ đây, sau khi đã đọc kha khá sách của Graham Greene, tôi mới quay trở lại đọc bài ông trả lời phỏng vấn tạp chí này. Cảm giác của tôi là Greene có vẻ khó gần, không hề cởi mở. Ông trả lời có vẻ dè dặt và chủ động kết thúc bài phỏng vấn. Ông không chia sẻ, không nói nhiều như một số nhà văn khác, ví dụ như Faulkner (bài này rất đã) hay Baldwin. Không thu nhặt được quá nhiều thứ trong bài trả lời phỏng vấn của ông. Một vài điểm để nhớ:

+ Greene có một bộ sưu tập chai whiskey cỡ nhỏ (miniature). Không lạ nếu nhớ lại whiskey tràn ngập các tiểu thuyết của ông.

+ Người phỏng vấn nói rằng England Made Me là cuốn favorite của anh. Bản thân Greene cũng thích cuốn này. (Về sau thì ông nói ở đâu đó The Honorary Consul là cuốn ông thích nhất.) Để tìm đọc.

+ Greene không cho là Mauriac có nhiều ảnh hưởng lên ông.

+ Greene có xây dựng nhân vật từ đời thực không? Câu trả lời là không, "one never knows enough about characters in real life to put them into novels. One gets started and then, suddenly, one cannot remember what toothpaste they use, what are their views on interior decoration, and one is stuck utterly. No, major characters emerge; minor ones may be photographed."


Thứ Sáu, 6 tháng 9, 2013

Thuận: Tiểu thuyết với tôi là si mê dai dẳng

* Thuận là tác giả của các tiểu thuyết Made in Việt Nam (2002), Chinatown (2005), Paris 11 tháng 8 (2006), T mất tích (2007)VânVy (2008). Cuộc trò chuyện này được thực hiện nhân dịp cuốn tiểu thuyết mới nhất của chị, Thang máy Sài Gòn (Nhã Nam và NXB Hội nhà văn, 2013), ra mắt tại Việt Nam.

1.      Chúc mừng chị ra tiểu thuyết thứ sáu trong vòng 10 năm. Đó là một tần suất đáng nể ở bất cứ đâu, không chỉ Việt Nam hay Pháp. Trong Made in Vietnam, chị viết :" Nền văn hc ấy đếm được phần lớn là truyện ngắn, phần thứ nhì là thơ, một phần nhỏ nữa là tiểu thuyết và ký sự..." Liệu đây có phải là lý do chị hầu như không viết truyện ngắn và tuyệt đối không làm thơ, mà thay vào đó, gắn bó với tiểu thuyết? Nếu không phải, thì đâu là lý do khiến chị chăm chỉ với thể loại này?

"Tiểu thuyết là nghệ thuật vĩ đại nhất về nhân sinh... Tiểu thuyết biết đến tiềm thức sớm hơn Freud, biết đến đấu tranh giai cấp sớm hơn Marx, nghiên cứu hiện tượng học sớm hơn các nhà hiện tượng học".

Tôi sẽ không nói về tiểu thuyết như thế, như Milan Kundera.

Hơn chục năm trước, trước khi viết Made in Vietnam, tôi đã trải qua mối tình đầu với truyện ngắn mà tới bây giờ hầu như chẳng còn giữ lại kỷ niệm nào ngoài cảm giác dễ dàng : dễ dàng bắt đầu, dễ dàng kết thúc. Có thể vì tạng văn của tôi không hợp với thể loại này, hoặc tôi không muốn hòa mình vào đám đông đồng nghiệp ngày ấy, hay tôi muốn đi tìm một đối tượng sáng tác cởi mở hơn… Tôi không còn nhớ lý do chính xác nào đã khiến tôi chia tay với truyện ngắn, nhưng tôi nhớ tôi đã chia tay một cách quyết liệt : thay đổi bút danh, ném toàn bộ những thứ đã viết vào sọt rác và  không quan tâm khi ai đó nhắc đến mối quan hệ này.

Tiểu thuyết với tôi là một tình yêu lớn. Cũng bởi đó còn là ý muốn của tôiKhi đến với tiểu thuyết, tôi không còn là một cô nàng đôi mươi, ngây ngô tin rằng tình yêu nào cũng lớn, cứ yêu là lớn, cứ yêu là thành tác phẩm.  Trải nghiệm và hiểu biết khiến tôi nhận thức được rằng tình yêu lớn không tự trên trời rơi xuống. Sáu tiểu thuyết, không biết thành công đến đâu, nhưng có thể xác thực tình cảm của tôi dành cho thể loại này. Dù thế nào thì chúng cũng không phải là những truyện ngắn đặt cạnh nhau hay những mảnh suy nghĩ cứ cố kéo dài thành i trăm trang.

    Tôi nghĩ là tôi sẽ không bao giờ làm thơ, mặc dù thi ca chắc hẳn là một đối tượng vô cùng   quyến rũ. Cũng như tôi sẽ nói không với kịch, tiểu luận, bút ký… Nói cho cùng thì tôi đã   chọn tiểu thuyết và không thể phản bội nó vì bất cứ một lý do gì. Tiểu thuyết với tôi là một si mê dai dẳng, một trò chơi hấp dẫn khôn nguôi.

2.      Chị nhắc đến Kundera. Kundera cũng là người nói rằng: "Tiểu thuyết cũng từ chối hiện diện như là minh họa lịch sử, mô tả một xã hội, bảo vệ một ý hệ, và lên đường tìm những gì duy tiểu thuyết mới nói lên được."  Chị có chia sẻ quan điểm  này? Theo chị, đâu là điều mà chỉ tiểu thuyết mới nói lên được?

Trong một phỏng vấn mang tên “Đối thoại về nghệ thuật tiểu thuyết”, Kundera nhiều lần nhắc đến “truy tìm bản ngã”. Ông nói: “Bản ngã là gì? Làm sao thấu triệt được cái bản ngã đó? Đây là một trong những câu hỏi cơ bản của tiểu thuyết”.  Nhiều năm sau này, trong tiểu luận “Bức màn”, lại bàn về nghệ thuật tiểu thuyết, Kundera cho rằng tiểu thuyết mang sứ mệnh  “làm hé lộ” những khía cạnh vẫn còn bị che khuất của cuộc sống.

Tôi chia sẻ với Kundera quan điểm rằng tiểu thuyết không chấp nhận “minh họa”, “mô tả” hay “bảo vệ”, dù là minh họa, mô tả hay bảo vệ cái gì đi nữa. Nhưng nếu nói chỉ tiểu thuyết mới khám phá bản ngã và cuộc sống thì e là khiên cưỡng. Tạo sao lại không thể nghĩ rằng các ngành nghệ thuật khác, với ngôn ngữ riêng của mình, cũng mở ra những cuộc truy tìm về cái tôi và hiện thực? Tôi tin là một trong những điều đầu tiên mà người nhạc sĩ, họa sĩ hay thi sĩ đi tìm chính là bản ngã của anh ta, rồi qua đó mà kéo người thưởng thức vào cuộc thám hiểm những cái tôi khác, bao gồm cả căn cước của bản thân họ.

Như thế, vấn đề của tiểu thuyết, theo tôi, vẫn là vấn đề của mọi ngành nghệ thuật: kể lại cái gì không quan trọng bằng cách thể hiện cái đó như thế nào.

Cuối cùng, tôi muốn nói rằng thách thức của một người viết tiểu thuyết nằm ở chỗ anh ta khai thác được đến đâu ngôn ngữ đặc trưng cho ngành nghệ thuật này, vì tiểu thuyết, với chất liệu giản dị và gần gũi là văn xuôi, nhưng lại mang tới cho những ai biết cách sử dụng nó những khả năng vô hạn về cấu trúc, nhân vật và tình huống.

3.      Trong cả sáu tiểu thuyết của chị, chưa bao giờ vắng mặt sự giễu cợt, hoặc trực diện như trong Made in Vietnam hay Paris 11 tháng 8, hoặc kín đáo hơn một chút như trong T mất tích hay Thang máy Sài Gòn. Bao giờ thì chị thôi giễu cợt? Chị có phải là người ưa giễu cợt trong đời thường?

Bao giờ tôi mới thôi giễu cợt? Thú thật là tôi cũng không biết nữa, bởi vì làm sao mà biết được đến khi nào hiện thực vào tay tôi mới thôi u ám, còn tôi thì thôi sợ phải chứng kiến độc giả và tác giả cứ vài phút lại ôm nhau sụt sịt, còn văn chương nói chung thì thôi dầm dề? Thử tưởng tượng nếu T mất tích rồi chồng T ôm mặt khóc, rồi hổn hển ôn chuyện tình Pháp-Việt, lá vàng bay trong gió sông Seine, cà phê thơm đồi Montmartre… Hay thử  tưởng tượng nếu Liên của Paris 11 tháng 8 không xấu xí, lạnh lùng mà duyên dáng, dịu dàng và sang đến Paris rồi vẫn ôm gối mơ lại Hà Nội của Tháp Rùa, chùa Một Cột và Hồ Tây cùng chè sen, hoa sen, hương sen … Cứ tưởng tượng ra như thế thì bạn sẽ biết độc giả có cần một nhà văn tên là Thuận nữa không? hay đọc ai cũng thế mà thôi, hay đọc quảng cáo du lịch cho đỡ đau đầu và phí thời giờ?

Ngoài đời, tôi có phải là người ưa giễu cợt? Có chứ, đối tượng giễu cợt của tôi trong đời thường, rất nhiều khi là chính bản thân tôi.

4.      Ngay cả khi tựa đề chỉ tới Paris hay Sài Gòn thì trong hầu hết tiểu thuyết của chị vẫn có rất nhiều Hà Nội. Tuy nhiên, Hà Nội trong văn chị dường như bị bóc trần, bị châm biếm không thương tiếc. Sống ở nước ngoài nhiều năm liên tục, làm thế nào chị nắm bắt những cái nhôm nhoam của Hà Nội vắt từ thời bao cấp sang Đổi mới nhạy đến thế?

Nội đi vào tác phẩm của tôi như một thực thể chuyển động chứ không phải một sản phẩm đông lạnh nhập kho vào ngày tôi rời Việt Nam. Nhưng để giải thích sự chuyển động đó, có lẽ không thể bỏ qua cái mốc quan trọng là thời bao cấp. Theo tôi, cho Hà nội đã có cả khách sạn Metropole lẫn cửa hàng Louis Vuitton, và không ít người Hà nội sẵn sàng trả tiền triệu để đặt chân vào Nhà hát Lớn, thì tinh thần bao cấp xin cho vẫn là một trong những tinh thần chủ đạo của Hà Nội ngày hôm nay.

Nắm bắt cái nhôm nhoam của Hà Nội như thế nào? Vấn đề không phải cứ sống giữa lòng Hà Nội là đã hiểu Hà Nội. Sống giữa lòng Hà Nội nhưng nhìn Hà Nội qua mắt kính hồng hồng thì thế nào cũng cho ra đời một Hà Nội hồng hồng, mà người Hà Nội khó lòng tìm thấy mình trong đó. Độc giả ngày nay bội thực về các món ngon Hà Nội, mùi hoa sữa Hà Nội, nỗi bâng khuâng Hà Nội, hồ Hoàn Kiếm, đường Thanh Niên, chùa Trấn Quốc… Bạn có công nhận với tôi rằng văn chương dù có rẻ rúng đến đâu cũng không thể bị xếp ngang hàng với lưu bút tuổi xanh hay hồi ký người già? Đương nhiên cũng cần phải nói thêm rằng thông tin thì vô kể, nạp vào đầu là chuyện trẻ con, phân tích lựa chọn thì cần đến kỹ năng, nhưng có lẽ biến chúng thành văn chương mới là công việc của nhà văn. Hà Nội, trong tác phẩm tôi viết, chỉ còn một phần nhỏ là nơi tôi từng sống cả thời thơ ấu, còn phần lớn đã trở thành chủ thể sáng tạo. Phải chăng càng viết là càng phải quên đi câu chuyện của cá nhân mình ?

Paris vào tay Thuận cũng nhôm nhoam không kém. Bạn có thể nói thế. Chỉ có điều cái nhôm nhoam của Paris khác cái nhôm nhoam của Hà Nội. Cái nhôm nhoam của Paris không có mùi bao cấp.

5.      Nhân vật bà mẹ trong Thang máy Sài Gòn là một nhân vật rất ấn tượng. Cả đời, bà diễn hết vai này đến vai khác, đến cả khi chết rồi vẫn diễn vai người chết "như một diễn viên gạo cội" trong một đám tang được dựng như một tác phẩm điện ảnh. Chị đã xây dựng nhân vật này như thế nào?

Thang máy Sài Gòn là tiểu thuyết của những giả thiết. Chỉ sau cái chết bất thường của người mẹ thì cô con gái mới lên đường đi tìm chủ nhân bức ảnh mà mẹ cô vô tình để lại, rồi từ đấy mà tìm hiểu về người mẹ quá cố, một người mà mặc cho hai mươi năm chung sống cùng một mái nhà, đối với cô vẫn là một ẩn số. Cuộc tìm kiếm của cô có thể coi như cuộc tiếp xúc với các bóng ma: nửa thế kỷ trôi qua, nhiều người liên quan đã sang thế giới bên kia, những thông tin mà cô mang lại cho độc giả chẳng hề được đối chứng, nhiều khi chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng và óc phân tích rất đáng gờm của … chính cô.

Chân dung người mẹ được vẽ bởi cô con gái dị kỳ, không hiểu yếu đuối hay mạnh mẽ, tình cảm hay lạnh lùng, nhưng rõ ràng là thiếu vắng hoàn toàn những trường đoạn sáo rỗng về tình mẫu tử nhan nhản trong văn chương không chỉ của Việt Nam. Dưới con mắt của cô con gái, như bạn vừa nhận xét, người mẹ đã dùng cả cuộc đời để diễn, thậm chí nhiều vai cùng một lúc, và vai để đời nhất, hoành tráng nhất lại là vai người chết trong đám tang của chính mình.

Nhưng nếu chỉ mỗi như thế thì cũng chưa có gì đáng bàn lắm. Điều khiến tác giả là tôi cũng không ngờ nổi, ấy là càng viết càng phát hiện ra sự đa nhân cách của nhân vật này : một mặt, đó là một nữ cán bộ khát khao quyền lực ; mặt khác, đó cũng là một người đàn bà có niềm tin mãnh liệt vào tình yêu, dù chỉ là một thứ tình yêu bị ngăn trở mọi bề, mỏng manh và đầy hiểm nguy.

6.      Viết xong từ 2010 đến mãi 2013 mới được xuất bản, sự lận đận của Thang máy Sài Gòn có làm chị nản lòng?

Ba năm qua, từ lúc gửi bản thảo đi, các biên tập viên thỉnh thoảng lại đề nghị tôi xẻo một từ, một câu, một đoạn nào đó, còn tôi thì ngồi viết gần xong một tiểu thuyết nữa và dịch rồi xuất bản Thang máy Sài Gòn ở Pháp. Đương nhiên, phải thừa nhận rằng, không ít lần, không ít lời hỏi thăm của người đọc khiến tôi hơi nản lòng. Nhưng có lựa chọn nào khác cho tôi ? Làm sao có thể chấp nhận chia sẻ với độc giả một tác phẩm không còn nguyên lành ?

7.       Cả trong T mất tích lẫn Thang máy Sài Gòn, chị đã để cho nhân vật của mình biến thành những thám tử không chuyên. Bản thân chị đã dịch ít nhất hai tiểu thuyết trinh thám. Có bao giờ chị có ý định sẽ viết tiểu thuyết trinh thám chưa?

Tiểu thuyết trinh thám với mục đích duy nhất là làm độc giả mất ăn mất ngủ vài ngày, chưa bao giờ khiến tôi quan tâm. Có lẽ vì thế mà các nhân vật của T mất tích hay Thang máy Sài Gòn, chỉ được làm những thám tử không chuyên, và thay vì tìm ra những người phải tìm thì lại tìm được một phần của chính bản thân. Trong cuộc điều tra có vẻ là để giết thời gian, người chồng của T bỗng hiểu rằng giống như T, anh ta muốn rời bỏ cuộc sống đơn điệu này, nhưng khác với T, anh ta không đủ dũng cảm để làm một cuộc đời mới. Còn cô con gái trong Thang máy Sài Gòn, hối hả khai quật nửa thế kỷ bị lãng quên, tuy không tìm thấy người tình của mẹ nhưng lại ngộ ra những ngóc ngách khó lường trong tâm hồn mình. Bạn có đồng ý với tôi rằng cứ tìm kiếm đi, không thấy cái này sẽ thấy cái khác, và cuộc đời sẽ nhàm chán làm sao nếu chúng ta chẳng còn hứng khởi nào cho khám phá ?

8.      Nếu gọi tên hai nhà văn Pháp, một trong quá khứ  một ở hiện tại, mà chị ngưỡng mộ hoặc đồng cảm thì đó là ai ? Chị muốn nhìn thấy nhà văn Pháp nào hoặc tiểu thuyết Pháp nào được dịch ở Việt Nam ?

Camus - ngắn gọn, chính xác và bình thản. Houellebecq - sắc sảo, hài hước và khiêu khích. Với tôi, đó là hai cách thể hiện độc đáo cho cùng một đề tài không ngừng được khai thác trong văn chương - sự phi lý của nhân gian.

Nếu các tác phẩm của hai tác giả này được dịch và giới thiệu một cách nghiêm túc và có hệ thống, tôi tin rằng đó sẽ là món quà đẹp cho độc giả Việt Nam.

9.      Và đâu là những cuốn sách mà chị có thể đọc đi đọc lại ?

Từ khi viết văn thì đọc sách của người khác, với tôi, cũng là một cách học. Các tác phẩm của Houellebecq, Camus, Duras, Kundera, Auster, Roth, Muller … đều khiến tôi phải đọc đi đọc lại.

10.    Câu hỏi cuối cùng, chị hình dung thế nào về độc giả của mình ?

Độc giả của tôi có thể khác nhau về giới tính, độ tuổi, công việc… Một số người có thể thích các món mắm. Một số người lại không thể thiếu phó mát và rượu vang. Nhưng tôi tin rằng họ đều có tình cảm đặc biệt dành cho văn chương.

Xin cảm ơn chị về cuộc trò chuyện thú vị này và mong được sớm đọc tác phẩm tiếp theo của chị.

Lâm Vũ Thao thực hiện


(Bài phỏng vấn này đã đăng Tuổi Trẻ Cuối Tuần. Đây là bản đầy đủ.)

Thứ Sáu, 8 tháng 3, 2013

Đọc là niềm lạc thú


Trả lời phỏng vấn F Magazine, một tạp chí thời trang, với tư cách độc giả

Anh đang đọc gì?

Tôi đang đọc cuốn tiểu thuyết của nhà văn Tây Ban Nha Javier Marías, Tomorrow in the battle think on me. Nhà văn này đã có hai cuốn được dịch ở Việt NamTrái tim bạc nhược Người đàn ông đa cảm.

Câu chuyện của cuốn sách anh đang đọc là gì?

Tôi  mới đọc được một phần ba, nên cũng không biết câu chuyện sẽ dẫn chúng ta đến đâu, nhưng nó đặt ra một tình huống đặc biệt. Một người đàn ông có hẹn với một phụ nữ mới quen. Cô ta mời anh ta đến nhà ăn tối, dĩ nhiên có phần lãng mạn theo sau. Chồng cô ta đi công tác. Cô có một đứa con 2 tuổi. Ăn tối xong, phải dỗ mãi cô ta mới cho đứa bé ngủ được. Khi hai người họ đang ở vào khúc dạo đầu của yêu đương được độ 10 phút, thì người phụ nữ  đột nhiên lên cơn khó thở, và chết. Anh ta sẽ phải làm gì trong căn hộ xa lạ, với một đứa trẻ 2 tuổi đang ngủ và một người phụ nữ đã chết? Nếu lẳng lặng rút lui, anh ta sẽ không gặp phiền toái gì và không ai biết anh ta từng có mặt ở đây, nhưng còn đứa bé 2 tuổi, lỡ nó thức dậy và gặp nguy hiểm? Nếu anh ta ở lại? Chuyện ngoại tình sẽ vỡ lở, sẽ gặp rắc rối với cảnh sát điều tra, người phụ nữ đã chết bị ô danh…

Đúng là chưa ăn được táo thì đã bị rắn mổ vào chân! Ở vào hoàn cảnh người đàn ông đó, anh xử trí thế nào?

Xử trí thế nào… hừm… tôi chưa bao giờ rơi vào hoàn cảnh đó (!) Tôi cũng không biết tác giả sẽ đẩy nhân vật đến đâu. Lúc này anh ta đã tìm thấy số điện thoại của người chồng đang công tác ở London và mân mê nó trên tay. Riêng cái trường đoạn tâm lý này thôi đã kéo dài 50 trang và chưa hết. Những đoạn phân tích tâm lý nhân vật thật tinh vi, kỳ thú.

Vậy là anh, độc giả Lâm Vũ Thao, anh sẽ chọn ở lại để rồi dấn thân vào hàng loạt các rắc rối không thể tiên liệu hết hay rút êm, giao phó đứa trẻ cho bàn tay số mệnh?

Tôi ở lại. Có lẽ phải như vậy. Tôi không làm khác được.

Anh xứng đáng là độc giả của Trái tim bạc nhượcNgười đàn ông đa cảm! Hẳn Javier Marías hài lòng về anh. Vì sao anh lại ưu tiên đọc sách văn học, đặc biệt là tiểu thuyết, hơn hẳn các loại sách khác?

Tôi đọc sách không nhằm vào mục đích gì, soi sáng bản thân hay tìm niềm cảm thông, an ủi, cũng không phải vì công việc, chỉ đơn giản là tôi thích. Bất cứ theo đuổi cái gì thì đấy đều là niềm đam mê– theo đuổi để thỏa mãn mình. Khi đọc, tôi tìm thấy nhiều niềm vui trong đó. Cuộc sống thực tế  trải nghiệm thường không quá đa dạng, không đủ đáp ứng cho đời sống cảm xúc và trí tưởng tượng của tôi. Đó cũng là lý do chung nhất khiến người người ta tìm đến nghệ thuật. Riêng với tiểu thuyết, nó là nghệ thuật, không chỉ hấp dẫn riêng tôi, “ Tiểu thuyết và nhạc giao hưởng là hai nghệ thuật trụ cột của văn minh châu Âu”, Orhan Pamuk nói vậy.

Vì sao anh gạt bỏ tivi, phim ảnh, nhạc nhẽo, nói chung là các bộ môn nghe – nhìn qua một bên để dành thời gian cho sách mà không phải là ngược lại?

Tivi, tôi không chịu nổi. 2 năm qua tôi không bật tivi, vợ tôi cũng không xem, chỉ còn hai đứa con. Báo chí tôi chỉ lướt qua. Tôi có thể kiên nhẫn trong 7- 8 tiếng liền cho đọc nhưng với tivi, các loại DVD nói chung, tôi thường chỉ có thể kiên nhẫn với chúng 15- 20 phút là hết.

Anh bị sự trừu tượng của ngôn ngữ lôi cuốn sâu vào thế giới của chúng, tôi nghĩ vậy. Có khi nào anh tự đánh đắm mình trong thế giới tưởng tượng ấy không?

Không. Tôi là luật sư, tôi rất tỉnh táo và lý trí. Tôi biết một cuốn sách hay chứ không phải cảm một cuốn sách hay. Tôi thưởng thức cái đẹp của cấu trúc, ngôn ngữ, câu chuyện và văn phong chứ tôi không nhập thân vào tác phẩm hay nhân vật.

Anh có phải là người được yêu chiều, kẻ được nhiều người vây quanh, đứa con cưng của số mệnh không?

Sao chị lại nghĩ vậy?

Vì cách đọc sách của anh. Đấy thuần túy là hoạt động trí óc của một nhà nghiên cứu dù anh không định nghiên cứu. Anh không có sự đồng cảm về mặt tâm hồn với các nhân vật văn học, không tìm thấy ở nó một niềm an ủi, thấu hiểu sâu xa. Sách vở không gây nên ở anh những cơn chấn động quyết định đến cách nhìn cuộc đời và cách ứng xử với cuộc đời của anh. Anh cũng không cần nương tựa vào sách để tăng sức chịu đựng với cuộc đời này. Một tâm hồn không run rẩy với văn chương là một tâm hồn chưa từng trải qua mất mát, khổ đau chăng?

Có lẽ tôi là người nhiều may mắn trong cuộc đời, mà cái may mắn lớn nhất là khi sinh ra đất nước không còn chiến tranh nữa. Nói không đồng cảm với nhân vật văn chương thì không đúng. Tôi đồng cảm với các nhân vật, nhưng không run rẩy với văn chương theo cách nói của chị. Còn theo cách nói của tôi thì tôi quan tâm đến bản thân văn chương hơn nhân vật trong các tác phẩm. Những đau khổ, mất mát của cá nhân tôi, cũng có, nhưng nhỏ nhặt, có là gì so với bao người.

Sách vở đẩy chúng ta ra khỏi sự lười biếng của tư duy và cảm xúc, nhưng lại dễ khiến chúng ta rơi vào sự do dự trong hành động. Anh có nhận thấy điều này ở mình không?

Không, tôi sống rất cân bằng, sách vở không có những tác động tiêu cực lên tôi. Từ việc đọc như một sở thích giờ đã trở thành cần thiết. Lúc nào tôi cũng phải đọc. Thời gian không đọc tôi thấy mình trống rỗng, khô cạn. Đọc làm đầy năng lượng trong tôi.

Đùa vui một tí, anh “bị” như thế lâu chưa?

Tôi ham đọc và đọc rất nhanh từ nhỏ. Thời gian đọc nhiều nhất là từ hồi học cấp II trở xuống, sau đấy đến thời tuổi trẻ  vẫn đọc nhiều  nhưng còn có những mối quan tâm khác. 5 năm trở lại đây thì đọc kha khá.

Anh duy trì việc đọc mấy tiếng một ngày? Tốc độ đọc hiện nay?

Thường ngày tôi đọc 2- 3 tiếng. Với sách văn học tiếng Việt, tôi có thể đọc từ 100- 120 trang/ giờ, sách tiếng Anh khoảng 50 trang/giờ. Với sách lịch sử, nghiên cứu thì chậm hơn.

Anh thường chọn sách theo tiêu chí nào?

Tác giả. Tôi để ý đến tác giả qua các bài viết về tác giả đó, và nếu thích, sẽ theo đuổi mãi. Trong những năm gần đây, năm nào tôi cũng tìm ra được một tác giả yêu thích.  Ví dụ năm thì  Paul Auster,  tôi đọc cả chục cuốn của ông. Năm thì Orhan Pamuk, 7 cuốn. Roberto Bolano, 5 – 7 cuốn liên tục. Năm ngoái tôi đọc Yukio Mishima. Mỗi thời gian tôi tìm một tác giả và say sưa với họ. Năm nay tôi đang muốn tìm một số tác giả của Đông Âu.

Nếu có thể trở thành một nhân vật trong văn học, anh muốn trở thành ai?

Goldmund , trong tác phẩm  Nhà khổ hạnh và gã lang thang của Hermann Hesse. Tôi mong  muốn trở thành anh ta, vì đó là phần mình thiếu (thực ra tôi giống anh bạn thầy tu Narziss hơn). Tôi muốn mà không đồng nhất về quan niệm cuộc đời với Goldmund. Tôi hâm mộ anh ta ở kiểu sống lang bạt và khả năng chinh phục phụ nữ! 

Nếu có thể lấy làm vợ một nhân vật trong văn học, anh sẽ hỏi cưới ai?

Không, không có ai.

Anh có thể yêu và chung sống với một phụ nữ không màng gì đến văn chương sách vở không?

Chắc là không.

Ai sẽ hấp dẫn anh, một cô thật xinh hay một cô chăm đọc sách?

Một cô gái có tâm hồn.

Nhật Chiêu cho rằng, đọc tiểu thuyết “gần với ái ân”. Anh nghiện tiểu thuyết, anh giải thích giúp tôi được không?

Đọc sách làm ta sướng nhưng cũng có thể làm ta đau. Chị tự luận ra phần còn lại nhé.

Bạn đọc có thể giao tiếp với anh qua kênh nào?

Qua blog của tôi, “bloggoldmund.blogspot.com”. Đây gần như là một blog chuyên về sách vở và những người chơi trong ấy cũng toàn là mọt sách.

Hải Miên (thực hiện)